Chương thứ bảy

...

Sau khi có bản vẽ của máy dệt, vấn đề quan trọng bây giờ là ai sẽ chế tạo nó? Bản thân Trì Yến không biết gì về ngành mộc, nhiều nhất chỉ có thể đóng đinh ván gỗ, ngoài ra thì trên phương diện này y là đồ bỏ đi.

Thế nhưng quản gia hiến kế cho y: "Người lùn mạnh hơn Địa tinh, cũng thông minh hơn Người đầu trâu, khả năng làm việc đòi hỏi sự chính xác khá cao."

Thế là Trì Yến quyết định thành lập tiểu đội thợ mộc.

Quản gia nói với y, thợ thủ công chỉ làm việc cho Thánh viện.

Tuy địa vị rất thấp nhưng họ sẽ tuyệt đối không dám lừa gạt Thánh viện để lén làm việc cho chúng ta.

Khi quý tộc cần thợ thủ công sẽ phải xin phép Thánh viện, rồi Thánh viện mới phái thợ thủ công đến.

Thay vì ra ngoài tìm thợ mộc không bằng tự mình bồi dưỡng.

Vấn đề lớn nhất là bọn họ không có dụng cụ.

Cưa với bào gỗ hoàn toàn không thể mua, thợ mộc ở đây hình như không cần dùng cưa với bào.

Nếu tự làm thì họ cũng không mua được sắt, sắt là kim loại cực kỳ quý giá, gần như chỉ dùng để chế tạo vũ khí.

Albert với Carl có bội kiếm, loại kiếm này mang ý nghĩa tượng trưng hơn chiến đấu thực tế.

Bởi vì kỹ thuật rèn rất kém nên vô cùng dễ gãy.

Albert nói với Trì Yến: "Lúc đánh giặc đao kiếm rất hay bị gãy, nhưng nếu kiếm của chúng ta gãy thì của quân địch cũng gãy theo luôn."

Sau khi kiếm gãy thì chỉ có thể dùng nắm đấm.

Trì Yến biết việc này, lúc trước khi ăn cơm y có từng xem một tiết mục của đài trung ương về so sánh kỹ thuật rèn đúc của Trung Quốc với phương Tây, kiếm đồng xuất hiện khi Trung Quốc tìm ra đồng thau, kỹ thuật rèn đúc đao kiếm dẫn trước phương Tây thời Trung cổ.

Đao kiếm của phương Tây một thời gian dài đều duy trì trình độ kỹ thuật "nguyên thủy", đao kiếm toàn làm bằng gang, chỉ dùng lực một chút là vỡ.

Lúc đánh giặc mà gãy kiếm, thì việc nhặt lại mấy mảnh gãy đó để đánh tiếp là chuyện quá bình thường.

"Có thể tìm sắt ở đâu?" Trì Yến chỉ có thể xin quản gia giúp đỡ.

Quản gia: "Chắc thương nhân sẽ có, nhưng ngài và lão không được lộ mặt."

Quản gia rất nghiêm túc: "Thương nhân rất xảo quyệt, chúng ta phải phòng ngừa trường hợp họ tố giác với Thánh viện.

An toàn của ngài là quan trọng nhất, mà lão là quản gia của ngài, thương gia sẽ biết mối quan hệ giữa chúng ta, nên lão cũng không thể đi."

Trì Yến với quản gia nghiêm túc thảo luận, đều cảm thấy không thể nhờ vả hai gã kỵ sĩ kia được, thậm chí không được cho bọn họ biết kế hoạch của hai người.

Kỵ sĩ do Thánh viện đào tạo, bề ngoài thì trung thành với Trì Yến nhưng "chủ nhân" thật sự của họ vẫn là Thánh viện.

Nô lệ cũng không thể đi, khí chất của nô lệ rất rõ ràng, không thể giao tiếp với bọn thương nhân cáo già đó.

Vì thế bàn tới bàn lui, Trì Yến quyết định mặt dày đi tìm Kleist hỗ trợ.

"Tìm thương nhân mua sắt à?" Kleist đang ngồi bên giường, trông hắn có vẻ rất nhàn nhã.

Ở đây ngoại trừ Trì Yến lâu lâu tìm hắn nói chuyện, thời gian còn lại thì hắn hoàn toàn tự do.

Trì Yến nhìn hắn với vẻ cầu xin: "Tôi và quản gia không thể lộ mặt nên chỉ có thể tìm anh."

Kleist nhướng mày: "Tôi được lợi gì?"

Trì Yến: "...!Tiền."

Kleist lắc đầu.

Trì Yến lại hỏi: "Vậy anh muốn gì? Chỉ cần tôi có thể làm được, nhưng anh biết rồi đấy, tôi nghèo lắm với lại ở đây cũng chẳng có thứ gì tốt."

Đáng giá nhất trong thành này chỉ có sách làm từ da dê.

Nhưng Trì Yến cảm thấy Kleist sẽ không thích, vì bên trong chỉ có giáo lý của Thánh viện, hoặc là mấy quy tắc nhàm chán.

Kleist thấy vẻ khẩn trương của Trì Yến thì bỗng nhiên nở nụ cười, giọng hắn tràn ngập ôn nhu từ tính: "Đùa cậu thôi, cứ xem như là tiền thuê nhà đi, báo đáp cậu vì đã cho tôi ở lại đây."

"Anh thật là người tốt." Trì Yến không chút do dự phát thẻ người tốt cho Kleist.

Mắt Kleist híp lại, ánh mắt thâm trầm không nói.

Hôm sau, Kleist ngồi trên xe ngựa lên thành trấn.

Đánh xe là một tên bảo sao nghe vậy, gã rất thật thà hơn nữa cũng có chút thông minh.

Tỷ như chưa bao giờ hiếu kì bất cứ thứ gì, cho dù ai hỏi chuyện gã cũng chỉ nói "Tôi không biết", "Tôi không để ý lắm", "Tôi xin lỗi".

Gã đánh xe lưu luyến nhìn Trì Yến, ánh mắt tựa như muốn nói cho dù Trì Yến kêu đi chết, gã cũng sẽ không ngần ngại mà đi chết luôn.

Trì Yến bị gã nhìn mà toàn thân nổi da gà.

Trì Yến đưa Kleist không ít tiền.

Ở đây sử dụng tiền vàng tiền bạc và tiền đồng, một trăm đồng đổi được một đồng bạc, mười đồng bạc đổi được một đồng vàng.

Tiền trên thị trường chủ yếu là tiền đồng, tiền vàng vô cùng ít, chỉ có quý tộc mới sử dụng.

Trì Yến đưa cho Kleist một túi vàng, trong đó có hai mươi mấy đồng vàng, đủ mua khá nhiều đồ.

Trước khi đi Kleist còn hỏi Trì Yến: "Cậu không sợ tôi cầm tiền đi luôn à?"

Trì Yến khẳng định: "Anh sẽ không làm vậy đâu."

Kleist nở nụ cười: "Vì sao?"

Chẳng lẽ nhìn hắn giống người cao thượng lắm hả?

Trì Yến nghiêm túc: "Anh là người tốt."

Kleist ngồi trên xe ngựa bình tĩnh nhìn Trì Yến, rốt cuộc cười nói: "Được rồi, tôi sẽ nhanh chóng quay về, my lord."

Trì Yến đỏ mặt.

Tuy quản gia, kỵ sĩ và người hầu cũng gọi y là my lord nhưng không biết vì sao lúc Kleist gọi y như vậy, y lại cảm thấy thẹn thùng giống như bị trêu chọc.

Sau khi Kleist đi, Albert có hỏi hắn đi đâu.

Trì Yến dùng lý do hắn muốn lên trấn mua đồ dùng hằng ngày mà trả lời lấy lệ cho qua.

Albert: "Nếu tên đó không trở về nữa thì tốt rồi.

Từ sau khi hắn đến, ngài chẳng còn nói chuyện với tôi nữa."

Carl uống chút rượu còn sót lại mà bọn họ mang theo, tâm trạng cũng rất tệ: "Vậy thì không được, hắn ngồi xe ngựa của ngài ấy, đó là tài sản quan trọng."

Albert đảo mắt xem thường: "Hy vọng lúc hắn đi tiểu, ngã xuống vách núi chết luôn cho rồi."

Carl đồng tình gật đầu.

"Gì mà chua quá vậy?" Albert vừa mở cửa đã bị mùi chua xộc lên mũi.

Vẻ mặt Carl cũng mê mang: "Là rượu ủ bị hỏng sao?"

Bọn họ vừa đến hành lang đã nghe thấy giọng nói vui mừng của Trì Yến: "Tốt quá! Anna! Cô làm rất tốt!"

Anna là tên của nữ đầu bếp, cô được khen mà vừa mừng vừa sợ, tay chân luống cuống đứng trước mặt Trì Yến, cúi đầu nhìn xuống đất, không dám nhìn thẳng vào mắt y.

Cô rất tự hào vì đã hoàn thành việc Trì Yến giao.

Nhưng cũng rất mờ mịt, bột mì đang bình thường như này lại bị cô làm thành chua lòm, rốt cuộc tốt ở đâu chứ?

Trì Yến: "Đây là giống mì."

Cuối cùng Anna cũng không nhịn được bèn hỏi: "My lord, bột mì cũng có giống sao? Nó không phải dùng cối xay ra à?"

Trì Yến không giải thích rõ ràng, ở đây không có men nên bánh mì làm ra không được thơm mềm.

Bất kể là bánh mì trắng hay bánh mì đen ăn cũng rất khô, chẳng có mùi vị.

Y không biết lấy men ở đâu, nên chỉ có thể sử dụng cách mà mẹ y từng làm bột bánh bao.

Men bánh bao làm một lần sử dụng được rất lâu.

Chỗ tốt nhất là tuy men bánh bao lên men lâu hơn con men, nhưng không cần thêm phụ gia gì cũng làm được.

Ở thời đại vật tư có hạn như nơi này, men làm bánh bao thật sự rất quý giá.

Chỉ cần trộn bột và nước đặt ở chỗ có độ ẩm thích hợp, lần đầu cần phải ủ hai mươi bốn tiếng, sau đó chia làm hai, một phần thêm nước và bột, lên men tiếp hai mươi bốn tiếng nữa.

Sau đó làm lại với phần kia, lần thứ ba chỉ cần ủ từ mười hai đến mười sáu tiếng lại tiếp tục chia làm hai rồi thêm nước và bột, lại ủ từ mười hai đến mười sáu tiếng là có thể làm xong men bánh bao.

Cuối cùng y có thể ăn bánh bao và bánh mì trắng rồi.

Trì Yến hướng dẫn nữ đầu bếp bỏ một phần men bánh bao vào bột mì, nhào cho mịn rồi lấy vải ướt phủ lại để ủ.

Chờ bột nở gấp đôi rồi nhào lần nữa là có thể mang đi nướng.

Tuy nữ đầu bếp tự tay làm men, nhưng vì men có mùi chua nên cô chỉ thấy mình đang làm hư bột mì.

Cho đến khi cô tận mắt thấy sau mấy tiếng thì cục bột kia đã nở gấp đôi, cô kinh ngạc không thể khép miệng.

Đây chẳng lẽ là ma pháp hả? Đồ ăn lại còn tự lớn lên được?

Sau khi nữ đầu bếp mở tấm vải ướt ra thì sợ hãi quỳ xuống, miệng lẩm bẩm.

"Cảm ơn Thánh linh, cảm ơn cha đã tạo ra chúng con, hào phóng ban thức ăn cho chúng con..."

Trì Yến đứng bên cạnh: "..."

Đừng cảm ơn cha của cô, cảm ơn tôi đây này, không phải, cô nên cảm ơn trí tuệ của nhân dân lao động đi.

Nữ đầu bếp quỳ dưới chân Trì Yến, ôm lấy chân y vừa khóc vừa nói: "My lord! Là do Thánh linh ban cho chúng ta! Ngài đã ban cho chúng ta nhiều thức ăn hơn! Sự độ lượng nhân từ của ngài ấy giống như ánh sáng chiếu rọi chúng ta."

Nữ đầu bếp sắp điên rồi, nước mắt của cô rơi xuống giày của Trì Yến, lộn xộn mà cảm ơn Thánh linh.

Trì Yến cũng không còn cách nào, y chỉ có thể nói: "Đi nướng bánh mì đi."

Nữ đầu bếp lại khóc thêm một lát mới đứng lên, cô lau khô nước mắt trên mặt, thành kính cầm chậu bột lên.

Giống như trong chậu không phải đựng bột, mà đựng một thứ thần thánh gì đó.

E rằng cả đời này cô chưa từng dịu dàng như vậy, dưới sự hướng dẫn của Trì Yến, cô dùng tay nhào nhẹ để bọt khí trong bột thoát ra rồi bỏ vào lò nướng.

Lò nướng thật ra là cái bếp lò, ở dưới đốt lửa phía trên có nắp đậy.

Không có thiết bị đo nhiệt độ, bánh mì nướng lên cũng không được ngon lắm, cũng không có sữa với trứng thậm chí còn không có đường.

Mặc dù mùi vị nhạt nhẽo nhưng đỡ hơn bánh mì cứng như đá lúc trước, bánh mì mới mềm mịn cuối cùng cũng khiến cho Trì Yến không kháng cự việc ăn cơm nữa.

Giữa trưa hôm đó, Trì Yến, hai gã kỵ sĩ, quản gia và nữ đầu bếp cùng nhau ăn bánh mì lên men mới này.

Nữ đầu bếp cảm kích quỳ rạp trên mặt đất hành lễ với Trì Yến.

Quản gia mím môi tỏ vẻ bình tĩnh, nhưng hai mắt lóe sáng đã bán đứng tâm tư của ông.

Nhưng quản gia và nữ đầu bếp vẫn từ chối ăn chung với Trì Yến, vì để phối hợp với loại mì không tầm thường này, nữ đầu bếp đã dùng nhiều hương liệu hơn để nấu súp.

Hương vị thì khỏi cần nói, Trì Yến không chịu húp miếng nào.

Cắt xong bánh mì dù đã hơi nguội nhưng nó không hề cứng mà vẫn mềm như trước, lúc xé ra có thể thấy được lớp ruột xốp bên trong.

Tuy không ngon bằng bánh mì hiện đại nhưng cũng không kém lắm.

Trì Yến ăn được lưng bụng, Albert với Carl kêu lên.

"Đây nhất định là món ăn của Thần linh!"

"Ngon vãi linh hồn! Chắc chắn không phải là món ăn của nhân gian!"

"My lord! Chắc chắn là do phẩm chất cao quý của ngài tác động đến Thánh linh! Thánh linh mới giáng kỳ tích xuống đây!"

"My lord, đây là vinh quang thuộc về ngài!"

Trì Yến: "Câm mồm, ăn đi."

Albert với Carl: "..."

Lúc ngài ấy nổi giận, sao mị lực vẫn bắn ra bốn phía vậy ta!!!

Hết chương thứ bảy