Vì Hạ Thiên Thu bị trọng thương chưa khỏi, nên môn nhân của Vân Tiêu cổ lâu phải loanh quanh ở huyện Bình Dao đã hơn nửa tháng. Nhưng trong môn phái còn nhiều công việc, thân là chưởng môn, Hạ Thiên Thu không thể ở mãi nơi đất khách được. Hơn nữa, A Chước hết lần này đến lần khác khuyên chàng về cổ lâu dưỡng thương, cuối cùng Hạ Thiên Thu quyết định, vào ngày lập đông sẽ xuất phát về thành.

Tuy mới là tiết đầu đông, nhưng ở vùng phương Bắc Trung Nguyên này, hơi lạnh đã run người. Bầu trời xám xịt một màu, những lớp mây dày nặng che kín mặt trời, nhìn không thấy một tia nắng le lói nào. Theo yêu cầu của A Chước, Hạ Thiên Thu khoác thêm tấm áo mỏng màu trắng che kín lấy ngực. Cũng có thể là nhờ thuốc quý của Lý Bá Phong công hiệu thật, cũng có thể là do Hạ Thiên Thu có nền tảng sức khỏe tốt, nên qua từng ấy ngày nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, sắc diện đã tốt lên rất nhiều, đã lấy lại được thần thái tuấn tú ngày trước. Chỉ có điều mái tóc trắng xóa như tuyết thì không thể nào khôi phục lại như thường được.

“Thế này cũng hay, nếu như có lúc nào đó không thể sống trên giang hồ được nữa, thì cũng có thể giả trang làm một vị đại tiên, xem bói cho người ta để kiếm ăn.”

Có một lần, Hạ Thiên Thu thấy Vân Hy chăm chú nhìn mái tóc bạc trắng của mình, bèn tự trào một câu như thế. Vân Hy biết, chàng sợ mình áy náy trong lòng, cho nên cố tình nói câu bông đùa ấy, để cho cô không phải suy nghĩ.

Vân Hy vốn cũng định cười mà nói tiếp một câu rằng: “Mạo nhận thần tiên như vậy cũng đáng giá đấy nhỉ”, nhưng lời đã đến đầu môi mà chẳng thể nào thốt ra được. Cô cũng là người học võ, đã sống trong Thương Thiên mấy năm rồi, sao không hiểu nội lực có ý nghĩa như thế nào đối với một võ nhân, đặc biệt là với Hạ Thiên Thu - chưởng môn của một phái thì nó càng quan trọng ra sao... Đối với người trên giang hồ, mất đi võ công sống còn của mình thì còn đau đớn hơn giết chết anh ta hàng ngàn vạn lần.

Lúc này đây, hai người đang đứng ở bên ngoài cổng nhà, thi lễ từ biệt.

“Tùy cô nương!” Hạ Thiên Thu ôn tồn nói. “Người của Xung Tiêu kiếm các đã trở về núi Bàn Long của họ rồi, Thẩm Mộ Bạch chắc cũng không rảnh để ý đến chuyện khác nữa, tạm thời sẽ không tìm muội gây sự đâu. Ta cho người hộ tống muội về Thương Thiên, có được không?”

Vân Hy cười, lắc đầu. “Đa tạ ý tốt của Hạ đại ca, nhưng muội đâu còn là đứa trẻ tám tuổi khi xưa nữa, một mình cũng có thể tự lo được rồi. Hơn nữa, Vân Tiêu cổ lâu của huynh vốn là thành viên của Thái Bình minh, nếu có liên quan đến Thương Thiên thì rất không hay. Nếu như để Thẩm Mộ Bạch biết được chuyện này, tất sẽ bất lợi cho huynh.”

Thấy Vân Hy thái độ kiên quyết, Hạ Thiên Thu cũng không tiện nói nhiều.

Đúng như câu mà Khương Hằng nói từ nhiều năm trước: “Đã không chung đường, không thể cùng bàn việc!” Chàng và cô dầu sao cũng không đi trên cùng một con đường, Vân Hy tuy lo lắng cho vết thương của Hạ Thiên Thu, nhưng cô không có tư cách gì để cứ đi theo mãi, chỉ có thể thầm nhủ một câu: Cầu mong Hạ đại ca sớm bình phục, mọi việc thuận lợi, vui khỏe bình an, trăm năm trường mệnh.

Lúc này, A Chước đã dắt một con tuấn mã đến, giục Hạ Thiên Thu lên đường. Hạ Thiên Thu chắp tay thi lễ, nói nhỏ một câu: “Cáo từ!” Vân Hy cũng vội chào đáp lễ. Bốn mắt nhìn nhau, cô trông thấy rõ bóng mình trong ánh mắt ấm áp sáng như sao của chàng.

Hai người đều chưa nói thêm được câu nào, Hạ Thiên Thu mỉm cười nhìn cô, trong nét cười dường như thấy vẻ chua chát.

Giây sau, chàng nhảy lên mình ngựa, chậm rãi nói mấy từ: “Hẹn gặp lại!”, rồi thúc ngựa đi, chạy về phía đường cái quan xa xa ngoài thành.

Vân Hy dõi mắt nhìn theo, chỉ thấy bầu trời âm u mây vần mù mịt, thi thoảng một vài bông tuyết phất phơ rớt xuống như một ngôi sao. Tuyết rơi lặng lẽ, kéo thành một bức màn trắng tinh khôi giữa đất và trời. Không bao lâu, bóng người thanh mảnh mặc chiếc trường sam màu thiên thanh cùng mái tóc bạc như tuyết, đã khuất hẳn vào màn tuyết, không còn trông thấy đâu nữa.

Vân Hy cúi mắt nhìn xuống, khoác lại cây thương bạc, rồi quay lưng, một mình bước đi trên con đường giang hồ dằng dặc ngược lại với hướng đi của người ấy.

Nghĩ đến Hà Nhân, Sái Tiểu Xà cùng các bằng hữu ở cứ điểm Dung An, chắc hẳn hộ tống Dược Vương Lạc Dương đi lên phía bắc, giờ này có lẽ đã ra được ngoài ải rồi, Vân Hy bèn nghĩ sẽ quay lại thôn nhỏ bên sông Lăng Giang để đón Lạc Tử Tuyền, dẫn cô bé cùng đi với mình. Nhưng khi cô còn chưa ra khỏi huyện thành Bình Dao, thì thấy có một chiếc đèn trời bay lên trên bầu trời phía bắc thành. Trong màn mưa tuyết phất phơ, trên vỏ lồng trắng tinh của chiếc đèn đang từ từ bay lên cao ấy hiện rõ vết mực, thấp thoáng nhận ra là chữ “Thiên”.

Thả đèn trời chính là một phương cách truyền tin của các võ nhân Thương Thiên. Thấy cây đèn chầm chậm bay lên bầu trời, Tùy Vân Hy lập tức chuyển hướng, đi nhanh về phía bắc thành. Dọc đường đi cô để tâm quan sát, chỉ thấy trên miếu thổ địa, hay chân tường quán khách đều có những dấu hiệu đặc biệt của Thương Thiên, chỉ dẫn cho cô đi đến chỗ cây cầu đá trên sông Bắc Dao. Vân Hy vừa đi gấp không nghỉ, trong lòng vừa thầm nghi hoặc: Mấy hôm trước, trong huyện thành Bình Dao có Triệu gia quân trú đóng, lại thêm mấy ngàn đệ tử của sáu đại môn phái, hàng rào phòng bị ấy có thể nói là tường đồng lũy sắt cũng không quá. Dưới sự canh phòng nghiêm ngặt như thế, võ nhân của Thương Thiên sao còn đến huyện Bình Dao làm gì? Lẽ nào không sợ xảy ra sự biến gì ư? Lại nữa, những thi thể ở trong đường hầm ngoài lò luyện kiếm của Bất Phá các, là do ai dẫn họ lên Kỳ Sơn? Mà Thẩm Mộ Bạch kia sao lại biết tin sớm thế?

Nghi vấn trùng trùng, Vân Hy chỉ thấy những nghi hoặc đó móc nối với nhau thành một chuỗi mắt xích. Cô cố gắng lần tìm một đầu mối trong mớ bòng bong hỗn độn ấy, nhưng lại cảm thấy trong đó thấp thoáng ẩn chứa điều gì bất ổn. Trong lúc đầu óc cô đang rối như tơ vò, thì nghe thấy tiếng nước chảy ào ào, dòng sông Bắc Dao đã hiện ra trước mắt.

Tuyết đầu đông, từ bầu trời âm u chầm chậm rơi, những bụi tuyết nhỏ mịn miên man rắc xuống khắp bốn xung quanh, rơi xuống dòng sông sóng nước đang cuồn cuộn, rơi xuống cây cầu đá bắc ngang mặt sông. Giữa cây cầu cong cong, một dáng người cao lớn đang đứng.

Người ấy quay lưng lại phía Vân Hy, lặng lẽ đứng dưới đầy trời mưa tuyết. Cánh tay phải y vắt ra sau lưng, nhưng không phải cánh tay bắp thịt bình thường mà là một cây thiết trảo tỏa ánh lạnh băng. Tay trái y nắm chắc cây trường kích huyền thiết. Lúc này y đang cầm kích đứng lặng, tựa như một pho tượng vững chãi.

Bóng hình ấy vô cùng quen thuộc, trông thấy y, Vân Hy bỗng dưng đứng khựng lại, ngây ngốc tại chỗ không biết nên tiến hay lùi. Nhưng người đứng trên cầu đã nghe thấy tiếng bước chân của cô. Y chậm rãi quay người lại, dưới cặp lông mày như lưỡi kiếm, dài chạm tóc mai, đôi mắt đen sâu hun hút chăm chăm nhìn cô.

“Vân Hy!”

Nghe thấy tiếng gọi của người ấy, Vân Hy cúi mắt xuống, chỉ thấy tuyết rơi tơi bời trùm lên đôi ủng của mình, rơi xuống nền đất trước chân cô, rồi từng bông từng bông chìm vào đất, khiến đất vàng dần chuyển thành màu xám xịt.

Tuyết tan, tuyết rơi, lại một mùa đông đến. Giữa ngày đông mưa tuyết này, tiếng gọi “Vân Hy” ấy không hề khác so với ngày xưa chút nào, bỗng nhiên khiến thời gian xoay chuyển, cô như mơ hồ quay trở lại quãng thời gian hơn mười năm trước, cũng ở huyện thành Bình Dao này, quay trở lại những ngày cô và Hằng ca phải nương tựa vào nhau, viễn ly lánh nạn. Gió lạnh khi ấy còn buốt giá hơn lúc này, tuyết rơi khi ấy còn dày đặc mịt mù hơn lúc này, tiết trời khi ấy còn lạnh cóng hơn lúc này, nhưng khi ấy trái tim của cô và Hằng ca lại gắn chặt với nhau, nương tựa vào nhau, và là nguồn nhiệt ấm áp nhất trên đời...

Nó đâu có giống như lúc này đây, hai người gần nhau trong gang tấc mà xa cách tựa biển trời.

Thấy Vân Hy cúi đầu không nói, Khương Hằng hơi nhíu mày, lại trầm giọng gọi một tiếng: “Vân Hy, theo ta về nào. Ta đồng ý với muội, không giết Lạc Tử Tuyền là được chứ gì.”

Câu nói ấy đã là nhượng bộ lớn nhất mà Khương Hằng đưa ra rồi.

Nghe thấy lời đảm bảo của Khương Hằng, Vân Hy cuối cùng cũng ngẩng đầu lên, đứng sững nhìn y. Lặng lẽ hồi lâu, cô cất lời, để mặc cho câu than thở tuôn ra khỏi miệng:

“Hằng ca, muội ngày càng không thể hiểu nổi huynh, trong lòng huynh rốt cuộc chất chứa những gì? Huyết hải thâm thù, muội và huynh đều nhớ kỹ như nhau, nhưng mấy năm nay huynh đã thay đổi rồi, thay đổi đến nỗi muội không thể nhận ra được... Muội còn nhớ trước đây huynh vẫn biết nói câu của Khương sư thúc: Thương còn người còn, thương gãy người chết, nhưng không biết từ bao giờ, huynh không còn đụng đến cây thương bạc nữa, mà lại cầm lấy cây trường kích sát nhân ấy...”

Vân Hy đưa ánh mắt quét qua thứ vũ khí sắc lẹm toàn thân đen kịt ấy, quét qua lưỡi kích hình trăng non chém xả đâm giết không gì không tinh ấy, rồi cô nhắm mắt lại, trong óc rối bời suy nghĩ, nhưng cũng dần dần hiểu rõ.

“Muội nãy giờ luôn suy nghĩ, vì sao người của Thương Thiên lại đến huyện Bình Dao trong thời điểm quan trọng này, như thế không khác nào đâm đầu vào họng súng của triều đình và Thái Bình minh, thực sự là bất hợp lý. Nhưng khi nhìn thấy huynh, muội cuối cùng cũng đã hiểu, hóa ra võ nhân Thương Thiên bị chết bởi những máy móc ám khí trong hang động của Bất Phá các, đều là do được huynh ban tặng cho.”

Lời Vân Hy vừa dứt, sắc mặt Khương Hằng chợt đanh lại, hai mắt tự dưng nheo hẳn lại, đó là dấu hiệu y trong lòng không vui và sẵn sàng cảnh giác.

Gần hai mươi năm sớm tối cùng nhau, Vân Hy làm sao không đọc được ý nghĩa động tác của Khương Hằng biểu lộ? Thấy thần thái của y, trong lòng cô chợt lạnh buốt, chỉ thấy tựa như có một mũi dao được làm bằng băng tuyết đâm thẳng vào ngực mình. Vốn cô cũng biết rõ rằng trên đời này chỉ có cô và Khương Hằng biết chuyện đường hầm và động của Bất Phá các, những võ nhân của Thương Thiên chết trong đường hầm vào động, e là Khương Hằng sẽ không tránh khỏi có liên quan, nhưng trong lòng cô vẫn le lói một tia hy vọng, mong rằng tất cả chỉ là do cô đã suy nghĩ thái quá. Cô luôn hy vọng Khương Hằng giết người chỉ là bất đắc dĩ buộc phải làm, ngay cả cái chết của Trương Văn Thư, có lẽ cũng là y có điều bất đắc dĩ phải làm như vậy. Nhưng sau hết lần này đến lần khác tự dối lòng mình, đến lúc này đây, cuối cùng cô cũng đã hiểu, đó chẳng qua chỉ là cô tự ngụy biện như vậy mà thôi.

Nhất thời, Vân Hy toàn thân cứng đờ, trên mặt đã lộ rõ vẻ thê lương, cô nói một cách khó nhọc: “Quả đúng như muội đã dự liệu... Hằng ca, vì sao lại như vậy?”

Khương Hằng đứng lặng trong mưa tuyết, nhìn Vân Hy nói, nét mặt không hề biểu lộ gì: “Vì báo thù. Thương Thiên trước nay chưa bao giờ là chỗ chúng ta ở mãi được, bọn Hà Nhân cũng chỉ là một đám bấu víu lấy nhau để mong được sống trong giang hồ loạn thế này mà thôi, chưa bao giờ họ muốn bức Triệu Hãn vào chỗ chết cả. Đi theo bọn họ, muội và ta vĩnh viễn không có cách nào báo thù rửa hận được.”

Vân Hy nghe thấy vậy thì sững người, chỉ thấy toàn thân, không một tế bào nào không cảm nhận hơi lạnh thấu buốt. “Vậy huynh muốn đi theo ai? Theo ai mới có thể báo thù?”

Khương Hằng không nói một lời, đôi mắt đen toát ra một luồng hơi lạnh giá. Vân Hy suy nghĩ rất nhanh, càng suy nghĩ kỹ càng thấy kinh hãi. Trong đầu óc cô đột nhiên sáng tỏ, Vân Hy kinh hãi hỏi: “Lẽ nào... là huynh đem chuyện của Bất Phá các nói cho Thẩm Mộ Bạch?”

Trước câu hỏi của Vân Hy, Khương Hằng liền nói với giọng không vui: “Vân Hy, ta đến tìm muội không phải là muốn tranh cãi với muội. Chuyện này muội không cần phải hỏi lại, cứ đi theo ta là được.”

Khương Hằng bước lên một bước, đưa bàn tay trái còn lại duy nhất của mình cho cô, nhưng Vân Hy lại lùi lại mấy bước, đẩy tay y ra. “Huynh nói cho muội biết, rốt cuộc có đúng vậy không?”

Khương Hằng lạnh lùng liếc nhìn cô, kiêu ngạo như y vẫn vậy, thu lại bàn tay trái, để ra sau lưng, lạnh nhạt hỏi lại: “Nếu đúng thì sao?”

Vân Hy kinh hãi im bặt, hồi lâu vẫn không nói nên lời.