Mặt trời mọc, mặt trăng tà, ánh nắng mai, hơi sương nhẹ, những giọt giá băng treo trên góc mái lầu thành, phát sáng long lanh, nhưng lại như những mũi dùi lạnh buốt, nhỏ những giọt lệ tí tách. Quân lính canh phòng đêm vừa ngáp dài vừa đẩy cánh cổng với bản lề to nặng. Chỉ nghe một tiếng trầm đục vang lên, cánh cổng thành tán đinh đồng vừa dày vừa nặng được mở ra, để lộ bóng dáng hai đứa bé một lớn, một nhỏ.

Ánh nắng mai chiếu vào làm bóng chúng đổ thật dài trên mặt đất. Chỉ thấy đứa nhỏ là một cô bé ăn mặc mỏng manh, đang dùng vóc dáng nhỏ bé của mình vừa vác vừa kéo một thiếu niên toàn thân đầy máu. Còn thiếu niên thì dường như đã ngất đi nhiều giờ, không động đậy gì cả. Đứa bé gái bước những bước ngắn, cố hết sức kéo lê thiếu niên có lẽ phải cao gấp đôi mình, để lại trên tuyết một vệt hằn sâu.

Cảnh tượng ấy khiến người ta thấy vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Người giữ cổng thành tròn mắt há miệng dõi theo đứa bé còn chưa lớn ấy, nhìn nó khó nhọc tiến về phía trước, vừa đi vừa nói chuyện, cũng không biết là nói cho cậu thiếu niên đang ngất kia nghe, hay là nói để cổ vũ cho chính mình: “Cố lên! Sắp vào đến trong thành rồi, sắp gặp được đại phu rồi! Hằng ca, huynh chớ ngủ, sắp gặp được đại phu rồi!”

Giọng trẻ con mềm mại, lặp đi lặp lại mãi câu “đến rồi, đến rồi”. Hơi thở nóng hổi của cô bé phả ra bên khóe miệng, trong buổi sáng mùa đông, chớp mắt tiêu tan không còn thấy đâu nữa.

Người canh cửa nhìn kỹ, thấy thiếu niên buông thõng một tay, còn chỗ đáng ra là tay phải thì ngắn cũn, chỉ còn lại một cuộn vải thấm máu được buộc chặt. Người canh cửa kinh hãi, hoảng hốt chạy tới, hỏi: “Tiểu cô nương, có cần ta giúp mời đại phu không?”

Cô bé ngước mắt lên nhìn, thấy người ấy mặc quân trang, bên lưng lại đeo đại đao sáng loáng, thế là đôi mắt to đen láy vụt sa sầm xuống. Cô tựa như không nghe thấy câu hỏi của người lính, vẫn kiên trì dứt khoát, đỡ thiếu niên trên lưng bước từng bước một vào trong cửa thành.

Người lính giữ cửa tuy có lòng muốn tương trợ, nhưng quân lệnh như sơn, sao có thể bỏ nhiệm vụ được. Trong buổi sáng mới vừa gà gáy ấy, y mang một mối nghi hoặc dõi theo bóng đứa nhỏ, nhìn nó đi dần từng bước vào trong thành, cuối cùng biến mất khỏi tầm nhìn.

Đó đã là ngày thứ ba họ rời khỏi Kỳ Sơn. Ban đầu, Khương Hằng còn cố gắng đứng thẳng, dắt theo Vân Hy, đi xuống dưới núi. Nhưng chưa cần nói đến đường núi khó đi, giờ đây tuyết phủ kín núi thế này, đến một quả rừng nhét tạm vào bụng cũng không có. Hai đứa nhỏ vừa khát vừa đói, cứ tiện tay bốc một vốc tuyết bên đường nhét bừa vào miệng. Đáng thương cho đôi tay nhỏ bé của Vân Hy, cóng buốt đến đỏ tấy.

Trong khi họ lấy tuyết ăn, ngẫu nhiên có mấy con sẻ nhỏ bay qua rừng, Khương Hằng lấy thương đâm, cùng chia nhau ăn với Vân Hy. Cầm cự như vậy được hai ngày, thiếu niên bị sốt cao không ngớt, cuối cùng không cự nổi cơn bệnh. Từ khi Khương Hằng quỵ ngã, đôi vai nhỏ bé của Vân Hy liền trở thành chỗ dựa duy nhất của thiếu niên. Cô bé mới chỉ tám tuổi ấy đã cố gắng vừa đỡ vừa kéo thiếu niên cao lớn gấp đôi mình, đi một ngày một đêm, chưa từng dừng nghỉ một chút nào.

Những ngày ở trên Kỳ Sơn, Vân Hy không thể học võ, đành theo cha học thuộc mấy cuốn Tam tự kinh, Bách gia tính(*), cho nên tuy cô còn nhỏ tuổi, nhưng đã biết không ít chữ Hán. Từ xa trông thấy trên lá cờ phướn có một chữ “Y” lớn, Vân Hy lộ rõ vẻ vui mừng, bước đi vội hơn, khó khăn lắm mới kéo được Khương Hằng đến chỗ đó. Cô để thiếu niên ngồi dựa vào tường, rồi đưa cánh tay nhỏ bé lên, cố sức đập cửa gọi: “Mở cửa! Đại phu, mở cửa!”

(*) Những cuốn sách vỡ lòng cho trẻ con Trung Quốc nhận mặt chữ thời cổ.

Gọi liền mấy câu, phía trong cuối cùng cũng có động tĩnh. Chỉ thấy khe cửa hé ra một chút, để lộ khuôn mặt vẫn còn ngái ngủ.

Đó là một đại phu trung niên, ông ta mắt nhắm mắt mở, ghé ra ngoài cửa nhìn hồi lâu, nhưng chẳng thấy người nào cả. Ông ta vừa lẩm bẩm một câu: “Ma trêu à?”, thì nghe thấy một giọng trẻ nhỏ yếu ớt: “Đại phu, nhìn xuống dưới này, ở đây ạ!”

Đại phu nhìn xuống chỗ có tiếng nói, chỉ thấy một cô bé thấp nhỏ, đang lo lắng chỉ vào thiếu niên bên tường, sốt ruột nói: “Đại phu, xin ngài hãy cứu Hằng ca!”

Trông thấy bệnh tình của thiếu niên đang hôn mê vì mất cánh tay, đại phu lập tức tỉnh hẳn ngủ. Ông vội vàng mở cửa, chạy đến bên cạnh thiếu niên, bế ngang người cậu vào trong y quán. Vân Hy vội vã theo sau, đôi mắt mở to, nhìn đại phu bận rộn rối rít. Đại phu để Khương Hằng nằm lên phản gỗ, rồi lấy bộ kim châm bạc châm vào huyệt đạo trên trán cậu, lại quay người lấy mấy vị thuốc bỏ vào ấm thuốc nổi lửa đun.

Lát sau trong hương thuốc đã bốc lên, Khương Hằng dần dần tỉnh lại. Cậu còn chưa mở mắt, trước tiên đã co cánh tay trái còn lại về. Khi phát hiện trong bàn tay mình không có gì, cậu bỗng nhiên mở bừng mắt, gọi to: “Vân Hy”, rồi vùng ngồi dậy.

“Muội ở đây!” Cô bé lập tức chạy tới, đôi tay bé nhỏ ôm chặt lấy cánh tay còn lại của Khương Hằng. Thấy cô vẫn bình an vô sự, Khương Hằng mới an tâm, khi ấy khí lực đã cạn, cậu lại nằm vật xuống phản.

“Ồ, tiểu tử ngươi đúng là lớn mạng đấy.” Vị đại phu cười nói, lại định châm thêm một mũi ngân châm vào trán Khương Hằng.

“Hãy khoan!” Khương Hằng cất tiếng ngăn lại, đôi mắt phượng nhỏ dài của cậu chằm chằm nhìn vị đại phu, giọng nói vẫn còn yếu ớt. “Trước tiên xin đa tạ đại phu đã ra tay cứu giúp, nhưng thực không dám giấu, trên người chúng tôi không có một đồng, sẽ không trả nổi tiền chạy chữa, xin được từ biệt đại phu ở đây vậy.”

Nói rồi, Khương Hằng liền chống tay trái, cố gắng nâng mình ngồi dậy, định nhảy xuống khỏi giường bệnh. Nhưng động tác của cậu mới làm được một nửa thì đã bị đại phu giữ chặt lấy vai, ấn nằm xuống phản. Vị đại phu trung niên nở nụ cười nói: “Tiểu tử ngươi nghe ta nói đây, cái tính khí vớ vẩn ấy của ngươi còn lớn hơn cái mạng ngươi đấy nhỉ!”

Vị đại phu tuy không biết chút võ công nào, nhưng đối phó với gã thiếu niên đang đau yếu vì bị trọng thương này cũng dễ như bỡn. Tuy Khương Hằng không muốn mang nợ ân tình, nhưng lúc này đừng nói đến chuyện phản kháng, ngay cả việc di chết một con kiến cậu cũng không làm nổi. Cậu chỉ có thể mở to mắt nhìn vị đại phu tiếp tục cầm những mũi kim châm bạc châm vào mấy nơi huyệt đạo trên người cậu, rồi lại mang khăn bông và nước nóng đến, lau sạch cánh tay tàn phế của cậu, đắp thuốc băng lại.

”Chúng ta học nghề y...” Vừa băng vết thương cho Khương Hằng, đại phu vừa vui vẻ nói. “...Tuy cũng cần phải kiếm miếng cơm ăn, nhưng lời giáo huấn cứu người giúp đời của sư tổ Thần Nông cũng không dám quên. Tiểu tử ngươi may mắn đấy, gặp được ta rồi, ta tất sẽ không trơ mắt nhìn ngươi chết. Chứ không thì ta còn mở y quán làm gì, mở luôn nghĩa địa cho rồi.”

Vị đại phu giỏi nghề nhân hậu, vừa cười vừa nói những câu ấy. Khương Hằng nhìn ông, trầm giọng nói: “Khương Hằng tôi ân oán phân minh, ơn của đại phu hôm nay, ngày sau tất sẽ báo đáp.”

”Vậy thì để ngày sau hãy nói đi.” Trước lời hứa của thiếu niên, vị đại phu cũng không để tâm lắm. Ông băng xong vết thương cho cậu, vừa định quay người thu dọn chậu nước và cái khăn dính đầy máu thì thấy cô bé khi nãy tự giác bưng cái chậu đầy nước nóng, bước từng bước nhỏ, khệ nệ đi ra ngoài. Đại phu vừa định đứng dậy đỡ hộ thì đúng lúc ấy, ngoài cửa y quán bỗng có hai bóng người xông vào.

Hai người ấy chạy rất nhanh, tựa hồ không chú ý đến cô bé, xông thẳng vào trong nhà, liền đâm sầm vào Vân Hy.

Chậu nước nóng đầy chắc chắn sẽ giội hết lên người cô bé. Đúng khoảnh khắc ấy, bóng người chạy trước liền tung ra một cước cực nhanh, đá văng chậu nước nóng ra xa, đồng thời đưa hai tay kéo cô bé vào lòng, dùng đôi vai gầy của mình hứng lấy nước nóng che chắn cho Vân Hy.

”Choang” một tiếng, chậu nước rơi xuống đất, nước nóng giội xuống vai người đó, bốc lên những làn hơi trắng mờ trong buổi sớm đông hàn.

Cô bé còn nhỏ tuổi còn chưa kịp nhận ra rốt cuộc vừa xảy ra chuyện gì, chỉ thấy có một bóng đen cao lớn đột nhiên chồm lên che cho mình. Cô kinh ngạc tròn xoe mắt, nhìn lên cặp mắt hiền hậu màu hổ phách phía trên.

”Muội không sao chứ?”

Bên tai vang lên một giọng nói ấm áp. Đó là một thiếu niên ước chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mình mặc bộ trường sam màu thiên thanh, loáng thoáng hoa văn lá trúc mờ mờ được thêu bằng sợ trắng, tiếc rằng trên áo dính đầy những vệt máu loang lổ, trông khá lôi thôi. Cậu ta ngũ quan đẹp đẽ, lông mày dài nghiêng xéo tới bên mái tóc, hai mắt trong sáng có thần, màu mắt hơi nhạt hơn người bình thường, long lanh ấm áp như ngọc.

”Thiếu chủ!” Người theo sát phía sau là một đại hán mình beo thân cọp, thấy thiếu niên bị chậu nước nóng giội vào người thì kinh hãi kêu lên.

”Vân Hy!” Khương Hằng cũng hoảng hốt kêu to, đồng thời cố gắng ngồi dậy, từ trên phản ngã lăn xuống đất.

Vân Hy thấy vậy, hốt hoảng quay người lại đỡ Khương Hằng dậy. Còn đại hán kia cũng vội vàng lại cởi bộ y phục sang trọng của thiếu niên, vứt sang một bên. Đến khi ấy, Vân Hy mới để ý trên bờ vai để trần của thiếu niên có một cây chông sắt đâm vào, vết thương máu chảy đầm đìa, da thịt rách toác, xung quanh lỗ rõ màu đen rữa rất bất thường.

Đại hán kia một tay kéo đại phu, một tay móc trong người ra một đĩnh bạc, ấn vào tay vị đại phu, lo lắng bảo: “Đại phu, ông mau xem cho thiếu chủ nhà ta!”

Đại phu nhìn vết thương hồi lâu, lại cầm lấy tay thiếu niên để bắt mạch, sau đó chỉ biết lắc đầu, than: “Xin thứ cho tại hạ học hành chưa đến nơi, thứ độc này rất kỳ lạ, ta làm nghề y mấy chục năm mà chưa từng thấy bao giờ.”

Nghe đại phu nói vậy, hán tử kia lo sợ toát mồ hôi, còn thiếu niên bị thương trúng độc lại tỏ ra vô cùng bình tĩnh. Cậu tay lấy từ trong ủng ra một con dao ngắn, đưa cho hán tử đó, trầm giọng bảo: “Nếu đã như vậy, A Chước, ông hãy cắt những chỗ thịt thối của ta bỏ đi trước đã, rồi chúng ta lại nghĩ cách khác.”

Hán tử tên gọi là A Chước ấy lập tức vâng lời, cầm lấy cây chủy thủ, đưa lưỡi dao sắc lẹm chọc vào vai thiếu niên, rạch ra một đường. Mũi dao chọc vào thịt, máu đỏ bắt đầu trào ra trên làn da trắng của thiếu niên. Vân Hy chỉ nhìn cũng cảm thấy rất đau, vội vàng quay đi chỗ khác, nhìn vào mặt thiếu niên. Chỉ thấy trên trán người đó túa mồ hôi lạnh, nhưng thái độ lại vô cùng trấn tĩnh thản nhiên, tựa như người bị cắt thịt không phải là mình vậy. Nhận thấy ánh mắt chăm chú của cô bé, cậu ta còn hơi nhếch miệng, quay về phía cô bé nở một nụ cười.

Sau nháy mắt, y quán trở nên tĩnh lặng. Chẳng những đại phu chăm chú nín thở, ngay cả Vân Hy cũng không dám thở mạnh, sợ làm cho hán tử kia chệch mũi dao. Nhưng đúng lúc ấy, chợt nghe ngoài cửa vang lên tiếng cười to man dại, sắc lẹm tưởng chói tai, dội đến chín tầng mây. “Ha ha ha ha, ta nói cho Hạ Thiên Thu ngươi biết, ngươi có mơ tưởng hão huyền không đó? Độc của Thất Phách đường ta há lại dễ đối phó vậy sao?”

Cùng với tiếng cười sắc lẹm ấy, một nữ tử mình mặc khinh trang, bước vào trong y quán. Ả có sống mũi cao, bộ võ phục bó sát người để lộ thân thể sung mãn, trên cổ là một vòng dây chuyền bạc, trên tai phải còn có một con bọ cạp bằng bạc, nhìn lối ăn mặc trang điểm chẳng có chút nào giống người Trung Nguyên. Chỉ thấy ả đưa ngón tay trắng trẻo thon dài chỉ vào hán tử được gọi là A Chước, tay đang cầm chủy thủ kia, cười bảo: “Đồ ngốc, ngươi cứ việc cắt, cắt càng sâu thì cổ trùng(*) sẽ chui vào càng sâu. Ai bảo ngươi có bao nhiêu thịt lại cắt đi cả, thành ra đứa bé ngoan đó của ta chỉ đành chui vào tận xương để tìm thức ăn thôi!”

(*) Tức sâu độc.

Nghe cô ả nói vậy, A Chước chợt dừng tay, không dám động dao nữa. Thấy bộ dáng sững sờ của y, nữ tử kia càng cười tươi hơn, lại ném ánh mắt về phía A Chước, cười cợt bảo: “Bé ngoan, thật biết nghe lời.”

”A Chước, ông lui ra.” Hạ Thiên Thu chậm rãi đứng dậy, nhặt chiếc áo ướt khoác lên người, ngăn ánh mắt lộ liễu đang nhìn săm soi từ trên xuống dưới. Vị võ nhân trẻ tuổi ấy nghe đối phương dọa nạt vẫn chẳng hề kinh sợ, chỉ bình thản liếc nhìn vị đại phu đang tròn mắt há miệng đứng cách đó không xa cùng cậu thiếu niên bệnh nặng và cô bé đang đỡ cậu, rồi lại quay sang nhìn nữ tử dị tộc kia, trầm giọng nói: “Chưa cần nói đến chuyện Vân Tiêu cổ lâu của ta và Thất Phách đường xưa nay không thù không oán, cho dù có chỗ nào đắc tội đi nữa, muốn tranh giành đấu đá thì cũng là chuyện trong giang hồ, không liên quan đến người ngoài. Ba vị này đều là lê dân bình thường, cô nương, hãy để họ đi khỏi đây trước đã.”

”Ôi chà chà, Hạ đại thiếu gia quả nhiên tốt bụng, nhưng nô gia lại không thể nghe theo ngươi được.” Nữ tử kia cười vang, đoạn uốn éo thân hình yêu kiều, bước đến trước mặt vị đại phu, rồi đưa tay xoa lên trước ngực ông, cười nói: “Đại phu tốt bụng, nô gia bị đau tim, ngài thử xem giúp nô gia đi.”

Vị đại phu nào đã bao giờ gặp phải một nữ nhân to gan như vậy, mặt chợt đỏ bừng, hốt hoảng lùi lại hai bước, xua tay bảo: “Vị cô nương này, cô hớ có...”

Còn chưa dứt lời, ông đã thấy nữ tử kia hơi hé miệng, bỗng nhiên phun ra một vật màu đen, rơi đúng vào trong miệng mình. Đại phu giật mình, ngưng lời, kinh ngạc tròn mắt nhìn nữ tử. “Ngươi, ngươi! Ngươi đã cho ta nuốt thứ gì?”

”Nô gia đang làm việc tốt thôi.” Nữ tử ấy cười vô cùng diễm lệ, ghé đến bên tai đại phu, nói thầm: “Ta vừa cho ngài một giấc mơ đẹp, đảm bảo đại phu ngài sẽ sung sướng lên tiên, muốn quên cũng không thể quên được đấy!”

Biết rõ nữ tử này chẳng phải người tốt, đại phu vội vàng đưa tay móc họng, muốn nhổ cái thứ chết tiệt ấy ra. Nhưng ông cố sức thế nào cũng chỉ ọe ra toàn nước. Hạ Thiên Thu thấy vậy, lập tức xuất chưởng tương trợ, cậu ta đánh một chưởng lên lưng vị đại phu, muốn dồn nội công đánh bật vật kia ra. Nhưng đúng lúc ấy, đại phu bỗng nhiên quay người lại, hai tay siết chặt thành nắm đấm, song quyền của ông ta như gió lốc dồn tới, với một sức mạnh kỳ quái, đánh mạnh vào giữa ngực của võ nhân trẻ tuổi.

Hạ THiên Thu đang tập trung vào việc hỗ trợ đại phu, đâu có ngờ rằng đối phương lại bỗng nhiên đánh lén. Khi bị đôi thiết quyền của đại phu giáng trúng ngực, cậu ta lập tức văng ra xa, va đúng vào tủ thuốc trong y quán, lại rơi mạnh xuống đất.

”Thiếu chủ!” Thấy Hạ Thiên Thu bị thương, A Chước lập tức xông lên, tay cầm con dao ngắn chặn trước mặt thiếu chủ của mình.

Chỉ thấy vị đại phu khi nãy còn bộ dáng hiền lành, bây giờ bỗng biến thành mặt mày hung tợn, khuôn mặt căng lên đỏ bừng, trên trán gân xanh nổi rõ. Ông ta tựa hồ không hề sợ hãi chút nào trước vũ khí trong tay đối phương, gầm to một tiếng, nhảy phốc tới trước mặt A Chước và Hạ Thiên Thu.

Để bảo vệ thiếu chủ, A Chước không hề nương tay. Y nhẹ nhàng lách người, trong khoảnh khắc đại phu chồm tới liền né sang bên, hạ một dao thật mạnh vào tay ông ta. Đồng thời, tay trái y chuyển sang thế trảo, thuận theo cánh tay bị thương của đại phu, bấu chặt lấy. Chỉ nghe “rắc” một tiếng, cánh tay đại phu đã bị A Chước bẻ gãy.

Cứ tưởng rằng sau cú đánh đó, đại phu tất sẽ không còn sức để đánh tiếp, nhưng A Chước không ngờ vị đại phu dù tay đã gãy nhưng vẫn chẳng hề quan tâm đến vết thương. Tay trái chưa bị thương của ông ta túm ngay lấy A Chước, lôi lại với một sức mạnh kỳ quái khiến người ta phải tròn mắt há miệng, rồi ông ta kéo mạnh đầu của A Chước, ngoạm một miếng to vào cổ y, giật ra một miếng thịt máu me ròng ròng.

A Chước không ngờ đối phương lại có chiêu này, cổ bị cắn đau điếng, khiến y kêu lên thật to, con dao trong tay đâm liền mấy nhát thật mạnh vào bụng vị đại phu đang túm chặt lấy mình. Nhân khi đại phu còn đang nghiêng ngả, A Chước phi một cước, đá văng đối phương ra xa.

A Chước vẫn chưa hoàn hồn, một tay bưng vết thương trên cổ, đồng thời nhìn về phía vị đại phu bị mình đá văng ra. Nhưng điều khiến y sợ hãi hơn là vị đại phu ấy đã vùng dậy được, loạng choạng đứng lên. Nhìn lại chỗ bụng đối phương, chỉ thấy nơi bị mũi dao đâm thủng thấp thoáng trông thấy được những khúc ruột đỏ hồng còn đang nhu động. Nhưng vị đại phu dường như chẳng hề cảm thấy đau, diện mạo dữ tợn như một con ác quỷ, bước từng bước về phía A Chước và Hạ Thiện Thu.

Chỉ trừ nữ nhân dị tộc kia, biến cố bất ngờ ấy khiến tất cả mọi người đều cảm thấy kinh sợ đến sững người. Khương Hằng giữ chặt lấy Vân Hy, hai đứa nhỏ nhìn đại phu không chớp mắt. Vân Hy nhỏ bé chẳng hiểu là có chuyện gì, một vị đại phu tốt bụng như thế, sao tự nhiên lại biến thành một con ác quỷ thủng bụng đáng sợ đến nhường này?

”Ẩn Mộng tán!” Hạ Thiên Thu kinh hãi thất sắc.

”Không sai, Ẩn Mộng tán là bảo bối của Thất Phách đường ta, nuốt rồi sẽ có sức mạnh như hùm beo.” Nữ nhân ấy tươi cười nói. “Ôi chao, thật không hổ là thiếu chủ của Vân Tiêu cổ lâu, biết nhiều hiểu rộng, nô gia bội phục vô cùng, bội phục đến độ muốn cắn vào má chàng một cái đấy!”

Thấy đối phương đã thừa nhận, khuôn mặt tuấn tú của Hạ Thiên Thu chợt tái nhợt, cậu ta nghiến răng nói: “Người bị trúng độc Ẩn Mộng tán sẽ rơi vào cảnh hôn mê, ảo mộng, trong mắt chỉ thấy tu la ác quỷ, một lòng muốn giết hại tất cả sinh linh trước mặt, không thuốc gì giải được, đến chết mới thôi. Ngươi, ngươi thật tàn độc! Vị đại phu này không thù không oán với ngươi, vì sao lại phải hạ độc thủ với ông ta như vậy?”

Nghe lời chỉ trích của Hạ Thiên Thu, nữ nhân lại càng tươi cười lả lướt, đoạn ả nói với vẻ hờn dỗi: “Còn chẳng phải là vì mỹ lang quân chàng ư? Có người chẳng tiếc mọi giá, muốn ta cho chàng một bài học. Ta cũng muốn xem xem, thiếu chủ của Vân Tiêu cổ lâu thường ngày vẫn khoe là danh môn chính đạo, lúc nào cũng một điều không làm hại người vô tội, liệu có chịu đối phó với một dân thường tay không tấc sắt hay không?”

Hạ Thiên Thu nhíu chặt đôi mày, trầm mặc hồi lâu, bỗng chậm rãi nói ra một cái tên: “Bách Lý Hình.”

”Ồ, đáp đúng nhanh quá, lại đây nào nô gia thơm chàng một cái.”

Trước dáng vẻ yêu kiều, cợt nhả của nữ nhân, Hạ Thiên Thu chỉ coi như không thấy. Cậu ta nhìn về phía vị đại phu vừa chẩn bệnh cho mình, ánh mắt lộ vẻ bất nhẫn: “Xin lỗi, ta đã làm liên lụy đến ngài. Việc đến nước này, xin hãy để ta tiễn ngài lên đường vậy.”

Nói xong, Hạ Thiên Thu rút cây Thanh Phong trường kiếm trên lưng mình ra, chỉ thấy lưỡi kiếm mỏng như cánh ve, kiếm khí lạnh căm, hàn quang chói buốt. Võ nhân trẻ tuổi tay cầm trường kiếm, xuất chiêu khởi thủ, lập tức ánh kiếm chuyển động, một chiêu Vân Xuất Tụ tung ra, đường kiếm trông tựa như mềm mại dày kín, nhưng kiếm khí lại rất dũng mãnh, hàn quang vút ra không ngớt.

”Mỹ lang quân, chớ vội vàng, khán giả chưa tới nơi, kịch hay còn chưa bắt đầu đâu!” Nữ tử ấy xoay cổ tay phải, từ bên eo rút ra một cây roi đen nhánh, vút một tiếng đã quấn chặt lấy tay A Chước, làm y văng đi va vỡ tan cánh cửa y quán, ngã ra ngoài cửa, rất lâu không dậy được.

Một roi, rồi lại một roi nữa. Lần này, nó vút về phía Vân Hy đang ngồi co rúm một góc. Khương Hằng đáng thương chỉ còn tay trái, lại mang trọng thương trên mình, vô cùng yếu ớt, tuy cậu kéo chặt tay Vân Hy không buông, nhưng làm sao địch lại nổi sức mạnh tàn bạo của nữ nhân dị tộc ấy? Vân Hy bị cây roi dài quấn chặt lấy eo, thân hình nhỏ bé bị quăng lên không trung, ném về phía vị đại phu bị trúng Ẩn Mộng tán đang giống như một con quỷ chứ không phải người ấy!

”Vân Hy!” Khương Hằng kêu lên thất thanh, uất hận trườn tới.

Trông thấy hai tay đại phu đã thành hai bàn tay quỷ móng vuốt xương xẩu, đang định túm lấy ngang lưng xé xác tiểu cô nương, Hạ THiên Thu chớp mắt biến chiêu. Kiếm chiêu ban đầu định nhắm tới giữa ngực đại phu, bây giờ mũi kiếm lại đâm vào hai mắt đối thủ. Đồng thời, tay trái Hạ Thiên Thu kéo cô bé lại, rồi lập tức xoay người, lấy vai trái làm lá chắn, che cho Vân Hy tránh khỏi một trảo vồ tới.

Chỉ nghe “phập” một tiếng vang lên, hai bàn tay đại phu đã cắm vào da thịt trên vai Hạ Thiên Thu, cùng lúc ấy, mũi trường kiếm cũng lướt qua mắt đại phu, làm máu tươi túa ra. Đại phu kêu lên một tiếng thê thảm, gào thét không thôi, đôi tay của kẻ mù với sức mạnh kỳ quái vươn mạnh về phía trước, túm ngay được người Hạ Thiên Thu, nhấc bổng cậu ta lên cao quá đầu, ném mạnh ra xa!

Hạ Thiên Thu đâm sầm vào bức tường cao, miệng hộc máu tươi. Một tay cậu ta nắm bao kiếm chống xuống đất, định gượng dậy, nhưng cậu ta vốn đã trúng kịch độc, bây giờ một chút công lực cũng không còn, chỉ có thể trơ mắt nhìn vị đại phu kêu gào thê thảm và đánh bừa ra bốn xung quanh. Ông ta vung một đấm phá vỡ tủ thuốc, mạt gỗ vụn bay tung tóe, các vị thuốc vung vãi khắp mặt đất. Vị đại phu vốn luôn cứu nhân độ thế, giờ lại trở thành kẻ giết người, một lòng muốn sát hại tất cả những vật sống gặp được xung quanh.

Tình cảnh này khiến Hạ Thiên Thu thấy lòng đau nhói, cậu ta vội nói: “Ngươi muốn giết, muốn chém thì cứ đến chỗ ta đây, còn để cho bọn họ đi đi!”

”Thế không được.” Nữ nhân tươi cười. “Nô gia là người rất có nguyên tắc, đã nhận ủy thác của người ta thì phải hết lòng với công việc. Bách Lý đại nhân đã cho nô gia không ít tiền son phấn trang sức, nô gia tất nhiên phải làm ông ấy vừa lòng, không thể để chàng lấy tính mạng của vị đại phu này đơn giản như vậy được. Dù cho muốn lấy, cũng phải lấy mạng ông ta trước mặt quan binh, trăm họ. Những người xem kịch còn chưa tới, nếu vở kịch của chàng ở đây đã diễn xong rồi thì thật là vô nghĩa.”

”Khá khen cho vở kịch này, độc kế này của ngươi...” Hạ Thiên Thu nói một câu, máu tươi lại trào ra miệng, cậu ta lại liếc nhìn cô bé và thiếu niên tàn phế, uất hận nói: “Ngươi không giết bọn họ, chỉ vì sợ ta cầm kiếm tự sát. Nếu ta chết rồi, hai người bọn họ tất sẽ bị đại phu giết hại, ngươi giữ họ lại chính là muốn ta không nghĩ được cách gì, chỉ còn cách giết chết đại phu trước mặt mọi người. Vân Tiêu cổ lâu từ nay sẽ mắc vào tội danh lạm sát người vô tội, chuyện Thái Bình Ước, từ đây không cần nhắc lại nữa, thế là toại nguyện Bách Lý Hình.”

Lời còn chưa dứt, trên phố phía ngoài y quán đã rầm rập vang lên tiếng bước chân, chính là những người dân nghe tiếng động chạy tới. Nghe thấy động tĩnh, nữ nhân dị tộc tươi cười, ném ánh mắt khêu gợi về phía Hạ Thiên Thu, nói: “Mỹ lang quân, ta thực sự không đành lòng xa chàng, nhưng vở kịch hay sắp diễn ra rồi, ta không thể ở lại đây được nữa. Chúng ta tương lai còn dài, dịp khác sẽ nối lại cái duyên hôm nay vậy.”

Nói xong, nữ nhân tung mình nhảy lên, từ cửa sổ bên chái nhà lao ra khỏi y quán. Thấy ả đi rồi, Hạ Thiên Thu vội hô to một tiếng: “Chạy mau!, ý muốn bảo Vân Hy và Khương Hằng rời đi. Tiếng hô ấy làm lộ ra vị trí của cậu ta. Đại phu nghe thấy tiếng động, bèn gầm lên lao về phía Hạ Thiên Thu. Nắm đấm sắt của ông ta sắp giáng xuống người võ nhân đang mắc trọng thương, bỗng nhiên một thứ đen kịt đập mạnh vào bên mặt đại phu, rồi hơi than tro bốc lên, đại phu hai tay ôm mặt, phát ra những tiếng kêu gào đau đớn như mãnh thú.

Hóa ra thấy Hạ Thiên Thu gặp nạn, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Vân Hy phát hiện bên cạnh mình có ấm thuốc đang sôi sùng sục, bèn không chút nghĩ ngợi nhấc ấm thuốc nóng bỏng ném về phía đại phu. Đại phu bị chọc giận, liền không quan tâm đến vết bỏng phồng rộp trên mặt, quay lại xông về phía cô bé!

Thấy bộ mặt như ác quỷ của đối phương, Vân Hy sợ hãi mất mật, ngã ngồi xuống đất, định chạy sang bên cạnh nhưng hai chân cứ mềm như bún. Khi hai tay của đại phu sắp bắt được cô bé, trong chớp mắt, một bóng đen chợt chắn trước mặt Vân Hy.

”Phập!”

Khương Hằng một tay giữ thương, đâm thẳng cây thương vào ngực đại phu, đẩy mạnh về phía trước.

Mũi thương màu bạc sáng loáng đâm vào tim đại phu, lại xuyên thấu qua sau lưng ông ta, lộ ra búi tua đỏ dính đầy máu tươi.

Thiếu niên chỉ còn lại một tay, giữ thương đứng sững. Khương Hằng đang trọng bệnh yếu ớt, không biết khí lực từ đâu mà có, ý chí ngoan cường khiến cậu đứng thẳng người, chống giữ một khoảng đất trời cho Vân Hy bé nhỏ.

Giữa đôi lông mày toát lên một vẻ kiên định và quyết đoán, Khương Hằng nhìn vị đại phu từng băng bó cho mình, hạ giọng nói: “Thù tất báo, tình tất trả. Ta nợ ông ân tình, nay chưa có gì báo đáp. Khương Hằng ta xin thề, ngày sau tất sẽ san phẳng Thất Phách đường để báo thù rửa hận cho ông!”

Nói xong, cậu thu cánh tay trái đang cầm thương lại, cây thương bạc rút ra khỏi ngực đại phu. Máu đỏ từ trong tim phun ra, bắn lên khuôn mặt gầy gò của thiếu niên ấy.

Đêm trừ tịch, tuyết rơi lả tả. Nhà nào nhà nấy đều treo những chiếc đèn lồng đỏ rực, soi sáng màn trời đêm đông. Trong nhà ánh đèn ấm áp, chiếu lên những khuôn mặt vui mừng vì được đoàn tụ. Trong lúc muôn nhà trong tòa thành này đang vui mừng hớn hở đón năm mới, ở bên con sông nơi ngoại thành, bốn người đang đứng sững giữa trời tuyết rơi, im lặng cúi đầu, nhìn nấm mồ nhỏ bên sông.

Vân Hy ngồi xuống, đưa bàn tay nhỏ bé bốc thêm một nắm tuyết đắp lên ngôi mộ. Đến tận lúc này cô vẫn không hiểu lắm, vì sao vị đại phu vốn đang hiền lành đáng mến như vậy bỗng lại biến thành ác quỷ? Cô chỉ loáng thoáng biết rằng, tất cả những chuyện này đều có liên quan đến nữ nhân xinh đẹp kia, và có liên quan đến cả môn phái có tên là Vân Tiêu cổ lâu nữa.

Đúng như nữ nhân của Thất Phách đường ấy suy tính, sau khi ả đi khỏi không lâu, quan binh và láng giềng đã lũ lượt kéo đến, nhưng chỉ trông thấy cảnh tượng khói bốc cuồn cuộn, tro bụi mịt mù, y quán đã bị đốt thành một biển lửa.

Vốn là khi thấy thiếu niên đâm chết đại phu, Hạ Thiên Thu lo rằng Khương Hằng sẽ bị liên lụy, bèn sai A Chước cõng thi thể đi, rồi châm một mồi lửa thiêu rụi toàn bộ y quán. Sau đó, bốn người chạy ra ngoài thành, tìm một nơi vắng vẻ an táng cho đại phu. Bọn họ thậm chí không biết tên họ của vị đại phu này, mà cũng không lập được bia, chỉ đành dùng tay bới một hố đất, chôn cất sơ sài cho đại phu ở đó.

Tuyết rơi im lìm, trùm kín nơi an nghỉ của đại phu, rơi cả lên mái tóc của Khương Hằng, từ xa nhìn lại tựa như hai bên tóc mai đã đốm bạc. Thiếu niên một tay lấy cây thương bạc trên lưng xuống, chống thương đứng im, nhìn Hạ Thiên Thu, trầm giọng bảo: “Các hạ và ta đều biết, chuyện ngày hôm nay đều vì các hạ mà ra, các hạ còn nợ chúng ta một lời giải thích. Ta biết, Vân Tiêu cổ lâu là một đại phái trên giang hồ, nổi danh ở thuật rèn đúc. Khi nãy nghe các hạ nhắc đến ba chữ “Thái Bình Ước”, lẽ nào Vân Tiêu cổ lâu cũng đã nhận được chỉ dụ?”

”Không sai!” Hạ Thiên Thu thở nhẹ một tiếng, chậm rãi nói: “Từ khi triều đình ban bố Thái Bình Ước, trên giang hồ liền nổi lên mưa máu gió tanh, Vân Tiêu cổ lâu của ta cũng không ngoại lệ. Trong phái mỗi người một ý, tranh cãi không thôi...”

”Bách Lý Hình mà các hạ nhắc tới phải chăng cũng là người trong Vân Tiêu cổ lâu?” Khương Hằng chau mày hỏi.

Trước câu suy đoán bạo gan của thiếu niên, Hạ Thiên Thu hơi ngạc nhiên, sau khi suy nghĩ giây lát liền gật đầu nói: “Thực không dám giấu, Bách Lý Hình đích thực là một đường chủ ở Vân Tiêu cổ lâu. Dưới sự cầm đầu của ông ta, trong phái có không ít người bất mãn với chỉ dụ Thái Bình Ước...”

”Nói vậy là ông ta chủ chiến, còn các hạ thì chủ hòa rồi.” Khương Hằng cười nhạt một tiếng. “Các hạ thân là thiếu chủ của Vân Tiêu cổ lâu, tất nhiên có quyền phát ngôn rất lớn đối với chuyện Thái Bình Ước. Bách Lý Hình kia thấy không thuyết phục được các hạ, mới ngầm cấu kết với Thất Phách đường, đem Ẩn Mộng tán ngụy tạo ra chuyện các hạ tàn sát trăm họ, để các hạ không còn cách nào tranh biện được, khiến cho Vân Tiêu cổ lâu phải đoạn tuyệt với Thái Bình Ước. Ha ha, khá khen cho một thiếu chủ, không ngờ lại muốn đem môn phái của nhà mình dâng lên cho kẻ khác như thế.”

Thấy thái độ khó chịu của thiếu niên, A Chước đứng sau lưng Hạ Thiên Thu giận dữ cắt ngang bảo: “Này, đó là chuyện trong nhà của Vân Tiêu cổ lâu chúng ta,đâu đến lượt tiểu tử ngươi nói bừa!”

”Không sao!” Hạ Thiên Thu giơ tay ngăn A Chước lại. Nhìn sắc mặt không vui của Khương Hằng, nhìn cây trường thương trong tay cậu, lại nhìn cô bé mà Khương Hằng dắt theo, Hạ Thiên Thu cúi xuống, chậm rãi bảo: “Nghe nói Tùy gia là Trung Nguyên đệ nhất thương, vì chống lại chỉ dụ về Thái Bình Ước nên đã bị diệt trừ ở Kỳ Sơn. Không ngờ vẫn có hậu nhân Tùy gia thoát hiểm, thực là vạn hạnh.”

”Sao? Ngươi định cáo mật ư?” Khương Hằng nhíu đôi lông mày như lưỡi kiếm, cây trường thương trong tay nhắm vào giữa mặt Hạ Thiên Thu đâm tới.

”Không dám!” Hạ Thiên Thu không hề tránh né, bình thản nói. “Tùy gia thương thà làm ngọc nát, không chịu làm ngói lành, thực khiến người ta khâm phục. Chỉ là, các môn phái trong giang hồ tranh đấu không thôi, như chuyện hôm nay huynh đệ đã chính mắt trông thấy vậy, kẻ học võ ỷ vào thân thủ hơn người, hoặc là giữ trong tay độc dược, liền coi thường mạng người, xem tính mạng họ chỉ như cỏ rác. Chốn giang hồ cá lớn nuốt cá bé thế này há lại là một vùng trời đất mà ta với huynh đệ mong mỏi? Thái Bình Ước tuy có chỗ hơi đường đột, nhưng ta tin, qua lần thanh lọc này, mười năm sau, trăm năm sau, giang hồ sẽ trở nên yên bình, còn võ họ sẽ trở thành pháp môn cường thân kiện thể, chứ không còn là sát chiêu ỷ mạnh hiếp yếu nữa.”

”Hừ!” Khương Hằng lạnh lùng hừ một tiếng vẻ khinh miệt, đoạn chỉ cây trường thương trong tay vào bội kiếm đeo bên hông Hạ Thiên Thu, cười nhạt bảo: “Nếu không phải nhờ vào giáo dài gươm sắc, ngươi đã đầu lìa khỏi cổ lâu rồi. Thái Bình Ước gì chứ, lẽ nào chỉ là khiến cho ngươi là dao thớt, còn ta là cá thịt ư?”

Trước câu chất vấn có ý đối địch của thiếu niên, Hạ Thiên Thu cởi cây bội kiếm bên lưng ra, bình thản nói: “Nếu có một ngày, thiên hạ thôi việc võ, thì ta cần gì phải mang theo đao kiếm chứ? Kiếm vốn không có lỗi, võ học cũng vốn chẳng có gì sai, sai là ở kẻ học võ, người cầm kiếm. Nếu Thái Bình Ước được thi hành mấy nă, thiên hạ được yên ổn lâu dài, thì dù cho người ta có lòng làm chuyện ác, nhưng không có võ học, không có đao kiếm, thì chắc cũng không thể gây ra sai lầm gì lớn...”

”Đủ rồi! Toàn những lời nói bậy!” Khương Hằng thô bạo cắt ngang lời Hạ Thiên Thu, uất hận nói. “Nếu như có lòng hại người thì chỉ cần một viên đá cũng có thể khiến người phải chết, cần gì phải có võ học với đao kiếm? Ta chỉ biết rằng Tùy gia thương ta võ hồn sẽ không tan, thương còn người còn, thương gãy người chết!”

Nói đến cuối câu, Khương Hằng vốn bấy lâu đau bệnh, hơi sức không vững, hơi thở đã hơi gấp. Hạ Thiên Thu thấy cậu vẻ mặt phẫn hận thì không nói nhiều thêm nữa, chỉ cúi xuống, lôi từ trong người ra một túi gấm, nhẹ nhàng nói: “Đây có chút bạc vụn, huynh đệ hãy cầm lấy đi chữa bệnh...”

”Ai cần chút tiền hôi hám của ngươi!” Khương Hằng vung cánh tay còn lại gạt túi tiền của Hạ Thiên Thu đi, lạnh lùng nói: “Đã không chung đường, không thể bàn việc! Xin cáo từ!”

Nói xong, Khương Hằng kéo Vân Hy, rời khỏi bờ sông, đầu không ngoảnh lại. Vân Hy đi theo Khương Hằng hai bước, bỗng nhiên dừng chân, quay đầu nhìn võ nhân trẻ tuổi từng cứu mình hai bận ấy, hỏi bằng giọng non nớt: “Độc huynh trúng phải, có giải được không?”

Cô bé còn nhỏ, không nói hết được những điều mình quan tâm, cũng không hiểu hết được ân oán giang hồ rắc rối như thế nào, nhưng câu hỏi trẻ con ấy đã bộc lộ rõ sự quan tâm. Nhìn đôi mắt sáng lấp lánh của cô bé, Hạ Thiên Thu nhếch miệng, hé nở nụ cười, rồi hướng cô chắp tay nói: “Đa tạ quan tâm. Sống chết có số, phú quý ở trời. Nếu Hạ mỗ mệnh còn chưa hết, có lẽ sẽ có ngày chúng ta còn tương ngộ.”

Vân Hy không hiểu lắm ý của Hạ Thiên Thu, chỉ đáp một câu: “Hẹn gặp lại!” Sau đó theo bước chân Khương Hằng, đi vào màn đêm đông tuyết rơi đầy trời, cuối cùng không còn nhìn thấy đâu nữa.

Đêm trừ tịch năm ấy, Khương Hằng, Hạ Thiên Thu và Vân Hy bé nhỏ gặp nhau lần đầu trong y quán với mùi thuốc ngào ngạt, cùng trải qua sinh tử giữa căn phòng tựa như địa ngục tu la, cuối cùng chia tay nhau không vui vẻ gì trong đêm tuyết bời bời. Khi ấy, họ vẫn chưa biết rằng đối phương sẽ có một vai diễn như thế nào trong tương lai của mình. Họ không biết, họ sẽ phải trải qua bao hoạn nạn, sinh tử cùng nhau, để rồi cuối cùng lại cắt áo dứt tình, trở mặt thành thù, tranh đấu với nhau đến chết mới thôi....

Khi ấy, bọn họ chỉ đơn thuần cho rằng mình là những vị khách qua đường, không hề biết nhau, chia tay ngăn lối ở bên con sông băng lạnh nước chảy ào ào, bước lên hai ngả giang hồ huyết lộ hoàn toàn trái ngược.

Có thể do ông trời thương tình, cũng có thể do ý chí ngoan cường của thiếu niên đã chiến thắng được cơn bệnh, sau khi chia tay ở y quán chưa được mấy hôm, cơn sốt của Khương Hằng đã dần lui. Dắt theo cô bé Vân Hy, cậu tính sẽ tìm công việc gì đó để kiếm mấy đồng sống qua ngày, nhưng khi ấy đúng dịp năm mới, đừng nói là những hàng quán nhỏ, ngay cả những cửa hiệu trên phố cũng không mở, làm sao có thể tìm được việc. May là trong thành trấn không giống chốn núi non hoang vu, tìm kiếm kỹ càng cũng có thể có được chút cơm thừa canh cặn, tạm nhét vào bụng. Đến đêm, hai người lại chui vào những ngõ tối giữa nhà dân, Khương Hằng một tay ôm Vân Hy trong lòng mình cho đỡ lạnh.

Ánh mặt trời bắt đầu ảm đạm, đèn đuốc lại được nhen lên. Qua hơn chục ngày nữa là tới Tết Nguyên tiêu, nhiều nhà dân đã mua đèn hoa đăng, có nhà thì là loại đèn lục giác vẽ hình mỹ nữ, có nhà lại là đèn hoa sen với nhiều lớp cánh sen, tất cả đều được treo trên góc mái hiên bên ngoài nhà, nhè nhẹ lung lay trước gió. Vân Hy vòng hai tay ôm đầu gối, co mình lại, đôi mắt to đen láy, say mê nhìn ngắm hoa đăng muôn màu muôn sắc, đủ hình đủ kiểu ngoài ngõ, với một niềm vui thích hân hoan khó tả.

Thấy ánh mắt thích thú của cô bé, Khương Hằng chợt nhói lòng, cậu đứng thẳng dậy nói: “Đi, chúng ta đi dạo một vòng!”

Vân Hy mặt mày hớn hở, vội gật đầu ngay. Khương Hằng dắt cô bé đi ra khỏi con ngõ tối, ra ngoài phố đêm. Nhà dân hai bên đường lô nhô treo đầy các loại đèn, cái cao cái thấp, cái lớn cái nhỏ, tỏa ra ánh nến bập bùng, ánh sáng màu vàng ấm áp rọi lên tuyết rơi trên đường, tựa hồ soi ấm cả nền đất tuyết. Vân Hy ngửa mặt lên, đưa bàn tay nhỏ, đếm từng cái đèn hoa sen một. Đi mãi, đi mãi, cô bé bỗng thấy trước cửa sổ một nhà có treo chiếc đèn con thỏ với đôi tai trắng, cặp mắt hồng thật đáng yêu. Lúc ấy, cô bé không bước đi được nữa, cứ đứng dừng lại trước cửa ngôi nhà, ngây ra nhìn cái đèn con thỏ ấy.

Khương Hằng đang đi bên cạnh cô, vừa tiến thêm một bước, chợt thấy bàn tay nhỏ đang túm chặt mình buông ra. Cậu ngoảnh lại nhìn, chỉ thấy Vân Hy vẫn đứng nguyên tại chỗ, ngẩng đầu nhìn chiếc đèn con thỏ trên cửa sổ, đôi mắt to như có ngấn nước long lanh, đôi mắt đã đỏ ửng lên gần giống như cặp mắt con thỏ trên chiếc đèn.

Thiếu niên bỗng quặn thắt trong lòng. Cậu nhớ lại, ở trên Kỳ Sơn, mỗi khi đến dịp rằng tháng Giêng, mẹ cậu đều mua một chiếc đèn con thỏ tặng cho Vân Hy. Cậu vốn tinh nghịch, có lần đã cố tình bứt mất một cái tai của chiếc đèn, trêu cho tiểu nha đầu ấy tức giận khóc ầm lên. Cuối cùng, không làm sao được, Vân Hy chỉ còn cách giở món võ hiểm ra là tìm mẫu thân cậu để mách tội, rằng cậu bắt nạt mình...

Chuyện cũ ngày xưa chợt hiện lên trong lòng, khiến Khương Hằng cũng dừng bước. Hai đứa trẻ, một lớn một nhỏ, cứ đứng như vậy trước cửa sổ nhà người ta, ngây ra nhìn ngắm chiếc đèn con thỏ.

Rất lâu sau, nữ chủ nhân của ngôi nhà ấy bưng chậu nước rửa chân ra trước cửa sổ định đổ, vừa mở cửa ra liền trông thấy hai đứa trẻ áo quần đơn sơ, đầu tóc rối bù đang đứng ngây dưới cửa sổ nhà mình, không hề nhúc nhích. Vị đại thẩm ấy giật mình, đặt chậu nước xuống một bên, quay người đi vào trong nhà, lấy từ trong chỗ tre ra một cái bánh bao nóng hổi, quay lại trước cửa sổ, cầm cái bánh ném ra trúng vào Vân Hy. Rồi bà ta lại lạch cạch chốt chặt then cửa từ phía trong.

Vân Hy hốt hoảng giơ tay ra đỡ, không ngờ bị cái bánh làm bỏng cả tay. Cô giật mình đánh rơi cái bánh bao trắng nõn xuống dưới đường tuyết, dính cả đất cát. Vân Hy vốn đói đến nỗi phải ăn cả tuyết, đâu có để ý đến vết bẩn ấy, chẳng cần phủi chẳng cần lau, lập tức bẻ nó làm đôi, đưa một nửa cho Khương Hằng.

Đâu ngờ Khương Hằng vẻ mặt không vui, lạnh lùng bảo: “Muội muốn ăn thì cứ ăn, Khương Hằng ta sao có thể ăn của bố thí ấy!”

”Sao lại gọi là của “bắt lấy” (*)?” Vân Hy nghi hoặc chớp chớp mắt, nói vẻ khó hiểu. “Khi nãy muội có bắt được đâu.”

(*) Do sự đồng âm trong tiếng Hán nên Vân Hy nghe nhầm “bố thí” thành “Bắt lấy“.

”Đồ ngốc, ta nói là của bố thí, họ cho rằng chúng ta là ăn mày!” Thiếu niên cao ngạo, giơ bàn tay duy nhất cốc vào trán cô bé, nói vẻ trách móc.

Vân Hy nghiêng đầu suy nghĩ hồi lâu, bỗng nhiên mỉm cười, lại cầm nửa chiếc bánh bao trong tay ấn vào tay Khương Hằng, cười nói: “Được thôi, coi như là Vân Hy nhận của bố thí, nhưng bánh bao vào tay Vân Hy rồi thì là của Vân Hy. Muội đem nó cho Hằng ca, như vậy không phải là của bố thí nữa mà là lễ vật muội tặng cho Hằng ca, đúng không nào?”

Rõ ràng là chẳng hợp lí chút nào, nhưng Khương Hằng vẫn không nghĩ ra được câu gì để phản bác. Cậu cứ mân mê nửa cái bánh bao ấy, đứng ngây ra tại chỗ, cúi nhìn cô bé Vân Hy bên cạnh mình, hai tay cầm nửa chiếc bánh bao trắng ngần, tựa như một thứ của báu, nhai ngon lành từng miếng từng miếng một, đôi má đỏ ửng vì lạnh căng phồng cả lên.

Chẳng rõ vì sao, thiếu niên chợt thấy ấm lòng. Cậu cầm nửa cái bánh bao bị mình gọi là “của bố thí” và được cô bé coi là lễ vật ấy, chậm rãi cho vào miệng. Cái bánh bao rất đỗi bình thường, nhưng lại để lại một hương vị vô cùng ngọt ngào nơi đầu lưỡi.

Đêm ấy, hai đứa trẻ cuộn tròn trong ngõ tối, qua khe hở giữa hai bức tường, chăm chú nhìn ngọn đèn lồng đỏ trước mặt. Một ngọn đèn ấm áp, một màu đỏ rực tươi tắn, những ngón tay nắm chặt lấy nhau, làn hơi ấm chia sẻ cho nhau, đó là cả một thế giới riêng của chúng. Đến khi Vân Hy không thức nổi nữa, hai mắt nhắm lại chìm vào giấc ngủ, Khương Hằng vẫn cứ nhìn mãi tia sáng lẻ loi giữa đêm đen, lặng lẽ lắng nghe tiếng hai trái tim của cậu và cô bé bên cạnh đang đập.

Nhưng buổi sáng hôm sau, Khương Hằng gọi thế nào cũng không thể làm Vân Hy dậy được. Cậu đưa bàn tay duy nhất sờ lên trán cô bé, chỉ thấy nóng đến kinh người. Cậu hốt hoảng ôm chặt Vân Hy, nửa bế nửa vác cô bé ra khỏi ngõ tối, nhưng lúc này trời còn chưa sáng rõ, đừng nói là người, đến một bóng ma trên đường cũng không thấy. Khương Hằng lo lắng toát mồ hôi, cuống cuồng chạy đến nơi có hiệu thuốc, vừa chạy ra khỏi đầu phố liền đâm sầm vào một người.

Khương Hằng lòng đang như lửa đốt, thậm chí còn không kịp nhìn xem đối phương như thế nào, chỉ chăm chăm bế lại Vân Hy lên. Đúng lúc cậu định cất bước chạy tiếp thì một bàn tay to lớn đã túm lấy vai cậu, từ sau lưng vang lên một tiếng “a” khản đặc.

Thiếu niên vừa lo lắng vừa tức giận, quay đầu lại vung một chưởng, định đẩy người ấy đi. Nhưng cậu vừa ngoảnh lại liền kinh ngạc lặng người. Chỉ thấy người đó mình mặc áo bông màu xám tro rất đỗi bình thường, nhưng trên mặt lại đeo một cái mặt nạ vừa đen vừa đỏ, trong buổi sớm mai không một bóng người này, quả thực vô cùng kinh dị.

Người đeo mặt nạ quỷ ấy quay về phía Khương Hằng chắp tay lại chỉ vào cô bé Vân Hy cậu đang ôm trong lòng, rồi ngồi xuống lấy ngón tay viết lên trên nền tuyết hai chữ: “Chẩn bệnh.”

Người kia diện mạo tuy kỳ quái, nhưng lúc này Khương Hằng không để ý đến điều gì khác ngoài việc chữa bệnh cho Vân Hy, nên vội đáp: “Ông biết xem bệnh ư?”

Người đeo mặt nạ quỷ kia lại kêu “a” lên một tiếng, lắc lắc đầu, rồi lại viết lên tuyết ba chữ: “Đi theo ta“. Cuối cùng ông ta bỗng đứng thẳng dậy, cởi cái áo ngoài của mình khoác lên vai Khương Hằng, trùm kín lấy cô bé trong lòng cậu, rồi lại giúp cậu cài áo cẩn thận.

Hơi ấm chớp mắt lan tỏa khắp bờ vai, ôm trọn lấy thân hình gầy gò của thiếu niên, sưởi ấm cho cậu và cả Vân Hy đang được ôm trong lòng. Khương Hằng trân trân nhìn cái mặt nạ quỷ khác thường ấy, thấy người đó chỉ còn lại một cái áo trong, đứng run cầm cập trong gió bốc. Bỗng nhiên, hai mắt cay sè, cậu vội quay người đi chỗ khác, cắn chặt môi dưới.

”Xin dẫn đường cho.” Một lúc sau, khi đã bình tĩnh rồi, Khương Hằng quay đầu nói, vẻ lạnh lùng đã quay trở lại.

Người kia không hề để bụng, khẽ gật đầu, lại “a” một tiếng, rồi dẫn thiếu niên đi đến một hiệu thuốc cách đó vài con phố.

Sau khi được đại phu xem bệnh, Vân Hy không có gì đáng ngại lắm, chỉ là vì lang thang mệt mỏi, lại bị phong hàn, cho nên mới sốt cao. Rồi đại phu viết một toa thuốc với mấy vị khu hàn bổ khí cho Vân Hy uống hằng ngày. Khương Hằng trước sau vẫn giữ chặt lấy Vân Hy không rời tay, vừa định hỏi đại phu xem có thể để cho cậu làm công trả nợ được không thì đã thấy người đeo mặt nạ quỷ bên cạnh móc ra một ít bạc vụn trong tay áo, đưa tới cho đại phu, lại cúi mình bái tạ. Rồi ông ta nhận lấy những gói thuốc đã được bọc gói cẩn thận từ tay người học việc trong tiệm thuốc, vỗ vỗ lên vai Khương Hằng, kêu “a” một tiếng, chỉ chỉ vào mình, rồi lại chỉ ra ngoài cửa.

Thấy người đó mang mặt nạ quỷ, nên tuy là giúp đỡ mình, nhưng Khương Hằng vẫn không khỏi có ý đề phòng. Có điều, dù cậu muốn từ chối thì cũng không thể không nghĩ đến tình hình của Vân Hy hiện giờ, cần phải tìm một nơi để Vân Hy nghỉ ngơi, sắc thuốc chữa bệnh. Suy nghĩ giây lát, Khương Hằng đi theo người ấy ra khỏi tiệm thuốc, nhưng lại chợt nói với ông ta: “Đa tạ ông đã giúp đỡ!” Hơi dừng lại một chút, Khương Hằng hạ giọng nói: “Nhưng ông với chúng tôi không hề quen biết, tại sao lại muốn giúp chúng tôi?”

Người ấy đứng lặng trên tuyết, để mặc gió lạnh thổi tung tà áo mỏng của mình. Ông ta không viết chữ, cũng không kêu “a” nữa, chỉ đứng im lìm ở đó, nhìn chằm chằm vào thiếu niên qua chiếc mặt nạ quỷ của mình.

Trong lòng Khương Hằng càng thêm nghi ngờ, cậu cảnh giác ôm chặt Vân Hy trong lòng, bước lui lại một bước, lạnh lùng nói: “Hãy bỏ mặt nạ của ông xuống.”

Người ấy trầm ngâm hồi lâu, rồi chậm rãi đưa tay lên, tháo chiếc mặt nạ xuống...

Đó là một khuôn mặt vô cùng đáng sợ, trên má, trên mũi, trên mắt, trên môi đều có những vết đao dữ tợn, chằng chịt ngang dọc, thê thảm đến độ không nỡ nhìn.

Đôi mắt thâm trầm ấy im lặng chăm chú nhìn Khương Hằng, rất lâu sau, ông ta đeo lại mặt nạ, ngồi xuống, lấy ngón tay viết lên tuyết: “Cô bé giống đứa con gái đã chết của ta.”

Hóa ra người này lo lắng cho Vân Hy. Lý do này thì có thể khiến Khương Hằng chấp nhận được. Lúc đầu cậu còn cho rằng đối phương có ý đồ xấu, nếu không chẳng có liên quan gì sao lại tỏ ra chu đáo như vậy? Hơn nữa, người này đeo mặt nạ quỷ, há chẳng phải là để che giấu thân phận ư? Nhưng, nhìn thấy khuôn mặt đáng sợ kia rồi, thiếu niên lại thấy không cần phải đề phòng nhiều nữa. Cậu gật gật đầu, nói một câu: “Xin đa tạ.” Sau đó đi theo người đeo mặt nạ quỷ ấy về chỗ ở của ông ta.

Nhà của người đeo mặt nạ quỷ này ở phía đông thành, là một tiểu viện không lớn lắm. Trong sân có một cây lê, dường như đã được trồng lâu năm, góc sân dựng một cây sào, phía trên treo đầy những chiếc đèn hoa đăng, cái đã làm xong, cái đang làm dở. Người đeo mặt nạ quỷ mở cửa phòng, vỗ vỗ lên chiếc phản gỗ, ra hiệu cho Khương Hằng để Vân Hy nằm xuống đó.Rồi ông ta vội vàng chạy vào bếp, lấy ra một chiếc ấm nổi lửa sắc thuốc cho Vân Hy.

Đun hơn một canh giờ, người đeo mặt nạ quỷ rót thuốc đã sắc xong vào bát, bọc trong khăn lau bưng lên bàn. Khương Hằng một tay đỡ Vân Hy đang hôn mê dậy, không còn tay nào để có thể bưng thuốc cho cô bé uống nữa. Thấy vậy, người đeo mặt nạ quỷ cầm bát thuốc lên, lấy một thìa sứ, múc một thìa thuốc, cẩn thận thổi cho nguội, rồi mới đưa thìa thuốc tới bên môi Vân Hy, cho cô uống từng ngụm nhỏ một.

Vân Hy bị thuốc đắng làm cho tỉnh lại, mở hờ đôi mắt, vừa vặn nhìn thấy cái mặt nạ quỷ ấy, thế là sợ hãi giật mình kêu to một tiếng. Nghe cô kêu to, người đeo mặt nạ quỷ run tay, khiến thìa thuốc rơi xuống đất. Thấy vẻ kinh hãi của cô bé, ông ta lóng ngóng đứng dậy, vội quay mặt đi xoay lưng lại về phía Vân Hy, không muốn khiến cô kinh hãi nữa. Thấy tình cảnh đó, Khương Hằng vội giải thích mấy câu, Vân Hy sau khi nghe nói chính người này đã dẫn cô tới chỗ đại phu thì tự thấy mình luống cuống, vội nhẹ giọng cảm tạ: “Thúc thúc mặt nạ quỷ, xin đa tạ thúc thúc.” Cô bé giải thích vẻ ngại ngùng: “Thúc thúc thứ lỗi, vừa rồi cháu bị bất ngờ, không phải cố ý chê ghét thúc thúc đâu, xin thúc thúc thứ lỗi...”

Nghe cô bé nói vậy, người đeo mặt nạ quỷ mới chậm rãi quay người lại. Ông ta “a” một tiếng, chỉ ra phía ngoài, rồi làm điệu bộ đóng cửa. Xong, cũng chẳng biết hai đứa bé có hiểu hay không, ông ta chạy thẳng ra ngoài cổng.

Ít lâu sau, khi Khương Hằng đang để Vân Hy ngồi tựa vào tường, vừa bưng bát thuốc cho cô uống xong thì người đeo mặt nạ quỷ đã lại đẩy cửa bước vào, miệng thở hổn hển, trong tay cầm một cái kẹo hồ lô. Ông ta bước nhanh đến bên giường, đưa cái kẹo hồ lô cho Vân Hy, kêu “a,a” lên mấy tiếng, tựa như giục cô mau ăn đi.

Vân Hy giật mình, ngây người cầm lấy cái kẹo hồ lô đỏ tươi. Người đeo mặt nạ quỷ ấy lại giục giã mãi, cô bé mới khẽ cắn một miếng.

Nhất thời vị ngọt lan tỏa khắp trong miệng, thấm vào tận gan ruột.

Bỗng nhiên, trong mắt cô bé chợt long lanh ngấn lệ, nước mắt trào ra, rơi xuống cái kẹo hồ lô.

Sau khi cha chết thảm, Tùy gia thương bị diệt môn, Hằng ca dẫn cô chạy trốn, rồi lại vì bảo vệ cô mà tự chặt đứt cánh tay mình, dù có phải trải qua rất nhiều gian khó, nhưng cô cũng chưa từng khóc một lần nào. Khi Hằng ca bệnh nặng hôn mê, phải cõng một thiếu niên cao lớn hơn mình, lết từng bước tới nơi thành trấn, cô cũng chưa từng khóc. Nhưng lúc này đây, trước mặt một người đeo mặt nạ quỷ chưa từng quen biết, một chiếc áo bông, một bát thuốc nóng, một cây kẹo hồ lô, lại khiến nước mắt cô bé lã chã tuôn rơi như những hạt châu.

Người đeo mặt nạ quỷ ấy tựa hồ sợ hãi giật mình, lóng ngóng đứng đó, rồi lại ngồi xuống trước mặt cô bé hay cười, kêu “a” lên một tiếng.

Vân Hy đưa tay quệt nước mắt, quay về phía người đeo mặt nạ quỷ nở một nụ cười thật tươi. “Đa tạ thúc thúc câm. Kẹo ngọt lắm!”

Người đeo mặt nạ quỷ ngồi yên không động đậy, cũng không thốt một lời. Khương Hằng ngồi ở bên giường, gọi nhỏ một tiếng “Vân Hy”, đưa cánh tay độc nhất còn lại về phía cô.

Trong nước mắt nhạt nhòa, Vân Hy trông thấy năm ngón tay Khương Hằng đưa tới, bèn ngoan ngoãn đặt bàn tay nhỏ đang cầm cây kẹo vào bàn tay thiếu niên, rồi lại nói với giọng nghẹn ngào: “Ngọt lắm!”