HỌ KHỞI HÀNH KHI PHÍA ĐÔNG MỚI CHỈ LÀ MỘT QUẦNG SÁNG MÀU ĐỎ. Sương sớm giăng khắp thị trấn Ladas, gieo vào không khí sự giá buốt của mùa đông. Bây giờ đã là đầu tháng một, phải đến ba, bốn tháng nữa mùa đông ở miền Bắc mới thật sự chấm dứt. Nhưng Angeline không còn băn khoăn về nó nữa. Cô rũ bỏ tất cả lại phía sau, thay vì nghĩ về phương Bắc xa xôi thì cô đặt tâm trí mình vào những mối lo trước mắt.

“Chúng ta sẽ mua thêm đồ ăn khi đến thành phố.” Iolite nói. Cô ta đưa cho Angeline và Howl mỗi người một bộ quần áo rẻ tiền và xấu xí, bằng lông dệt và len ấm. Howl khẽ cằn nhằn. Angeline, ngược lại, chẳng nói gì cả. Cô không có tiêu chuẩn cao như Howl, với cô đôi khi chỉ để tồn tại thì bất cứ thứ gì dù xuềnh xoàng đến đâu cũng phải chấp nhận.

Lần cuối Angeline kiểm tra số lương thực họ có, cô thấy một bọc bánh mì lớn còn nóng, thịt heo sấy để ăn đường dài, một bọc quả khô trong cái túi đan mắt cáo, nước và rượu. Hầu hết số rượu đều là của Iolite. Cô ta cầm bản đồ, la bàn và lều, Howl giữ vũ khí, còn cô cưỡi trên con ngựa thồ lương thực.

Cả ba đi lúc thị trấn còn chưa thức dậy, sương trắng xóa và trời vẫn lạnh. Bấy giờ Angeline mới cảm thấy cái áo choàng cũ mốc của Iolite có lợi ích thế nào. Cô kéo mũ kín đầu mình và tránh bị gió tạt thẳng vào mặt. Ba con ngựa đủng đỉnh bước dọc con đường trong thị trấn, giữa những ngôi nhà kín mít cửa rồi dần ra khỏi đấy. Họ thong thả đi lên một ngọn đồi dốc. Cho đến khi hai bên đường là những cánh đồng đẫm sương đêm, cỏ cao ngang hông người, thì con đường nọ bỗng đột ngột ngoặt sang hướng đông. Angeline và Howl đi sau Iolite, nhưng vẫn thấy rõ phía trước mặt ánh sáng yếu ớt, như đang tan rã của bình minh.

Họ đi miết cho đến khi thị trấn Ladas nhỏ bé chìm vào trong sương. Angeline ngoái đầu lại và nhìn quanh mình, con đường mòn cô đang đi như chênh vênh giữa rìa bể sương, cô quạnh, heo hút và vắng lặng. Nếu không phải vì những âm thanh đều đều của tiếng móng ngựa, tiếng đồ đạc cọ xát vào nhau, thì cô hẳn đã ngủ quên.

Nhiều giờ sau đấy, lâu đến mức Angeline không thể đoán được bấy giờ đã là trưa hay chiều, mặt trời mới rọi những tia sáng óng ánh hiếm hoi của nó xuống mặt đất. Bầu trời hửng lên và sương đã tan. Cả ba xuống ngựa để đi bộ một quãng, sau đó nghỉ ở ven đường. Khác với đoạn đường đã đi qua, quãng này có những cái cây lớn mọc rải rác hai bên, cỏ mọc dày, không còn chút dấu hiệu nào của tuyết nữa mà chỉ trông thấy những búp cỏ non mơn mởn của mùa xuân. Nắng lên, nhưng Angeline vẫn không thể trông thấy mặt trời. Như thể nó đã tan ra trên nền trời trắng đục, chảy lênh láng khắp nơi và để những giọt nắng chảy xuống dưới. Dưới một tán cây cổ thụ già, cả ba ăn trưa bằng bánh mì trước khi tiếp tục lên đường.

Chiều buông dần, mặt trời đã biến mất, không gian bị lấp đầy bởi sự hoang vu và im lặng. Những cơn gió phía Bắc thốc xuống, cào cấu họ bằng cơn lạnh. Cả ba đều thấm mệt. Họ dừng ngựa ngay khi trông thấy bên tay trái mình một dãy đồi cao, um tùm cây cỏ, cách con đường chỉ chừng vài chục mét. Không ai nói gì cả ngoài việc phân công phần việc bằng giọng mệt mỏi. Angeline đi nhặt những cành cây về làm củi, Howl châm lửa và giúp Iolite dựng lều. Khi đi ven chân ngọn đồi để nhặt củi, Angeline trông thấy mấy con gà hoang đang bới tìm thức ăn, những con vật từa tựa như chồn nhưng to hơn và uyển chuyển tựa lũ mèo. Cô ước Howl mang cung tên, cậu sẽ săn được một bữa ra trò.

Nhưng cô thì không cần cung tên. Angeline đặt một hai cái bẫy gần đấy, bằng lá cây, dây leo để buộc và gỗ. Angeline không có hy vọng nhiều. Khi cô trở lại chỗ cái lều, trời đã tối hẳn. Howl giúp cô bê củi. Một điều thuận lợi trong tình cảnh bất tiện này là việc Howl chỉ cần búng tay, ngọn lửa đã bùng lên, lém gọn chỗ gỗ. Dãy đồi chắn bớt gió lạnh ban đêm và giữ ngọn lửa không bị dập tắt.

“Bây giờ thì tôi trông giống thổ dân.” Howl nói. Cậu lăn một tảng đá lớn đến gần đống lửa để có chỗ ngồi.

Iolite ngồi xuống cạnh đống lửa, trong khi Angeline mang thức ăn đến. “Cậu trông giống con người.” Cô ta nói vỏn vẹn thế.

Bóng tối giữa nơi đất lạ, hoang vu làm Angeline bất an. Cô ngồi xuống cạnh Howl. Chẳng ai bận tâm đến việc quần áo dính bụi bẩn, chườn chãi những lá cây, đất ẩm, sương ướt. Cô hâm nóng thịt bằng lửa, và đưa cho mỗi người một chiếc bánh mì cùng thịt đã được cắt bằng dao săn. Hầu như chỉ có sự im lặng khó xử.

Một lúc sau, Howl cất lời:

“Được rồi, tôi không chịu nổi nữa, ai đó phải nói gì đó đi, ít nhất là để phân tán tôi khỏi lạnh cóng đến chết.”

“Cậu muốn nói về cái gì đây?” Iolite mở chai nước. “Tôi chưa từng nói việc này sẽ đễ dàng, nên thôi than thở đi.”

Howl cau mày. “Tôi đâu có than thở. Sao cô khó ở thế?”

Angeline nhìn Iolite, cô ta chỉ dửng dưng nhìn lại, chẳng nói gì.

“Chỉ là lo lắng thôi, Howl.” Angeline nói. “Ai cũng lo lắng.”

Bình thường Howl sẽ phủ nhận điều ấy, cậu chẳng bận tâm dù hoàn cảnh xấu đến mức nào. Nhưng bấy giờ, Howl lại im lặng như thừa nhận. Giọng cậu dịu bớt:

“Chắc hẳn sẽ tốn chừng ba, bốn ngày chúng ta mới đến nơi, phải không?”

Cậu hỏi về điều mà dường như ai cũng đã ước chừng được, nhưng Iolite vẫn gật đầu:

“Đi thẳng theo đường mòn. Nhưng chúng ta có thể gặp thú dữ, vậy là sẽ chậm hơn một chút. Tôi đã hỏi một vài người bản địa trong thị trấn từng đi đến thành phố, họ nói đoạn đường này đầy rẫy thú săn mồi. Nhất là khi tuyết ở đây vừa tan.”

“Vậy là chúng ta sẽ có thịt thú rừng.” Howl nói. “Không tệ đâu.”

“Cô có kế hoạch gì để chúng ta đi khỏi thành phố an toàn chưa?” Angeline hỏi.

“Cải trang, tôi chỉ nghĩ được thế. Qua mặt bọn lính canh cổng thành phố sẽ đơn giản thôi, nhưng điều tôi lo là Hắc Kỵ binh. Tôi hy vọng chúng không đến thành phố.”

“Tôi thì hy vọng Erik không có thêm cao kiến gì.” Howl nói. “Anh ta có thể ngăn những Cambion dịch chuyển, anh ta đủ sức làm mọi thứ.”

“Sẽ không nếu như chúng ta vượt qua Hàng Rào.” Iolite đắc ý nói. “Erik sẽ không thể nghĩ đến chuyện cậu sang vùng Ánh sáng, chẳng ai nghĩ đến cả. Anh ta sẽ rà soát cả Amenrut trong thời gian dài, nhưng sẽ không thể làm gì cậu một khi cậu đã đặt chân sang vùng Ánh sáng.”

Iolite đưa cho Angeline bình nước. Họ trữ khá nhiều nước, nhưng Angeline không chắc số đó đủ để đến thành phố an toàn. Bây giờ cô mới thấy mình thật may mắn làm sao khi nơi trước đây cô sống gần kề với nguồn nước sạch từ dòng Ner Rill, và rằng cô có một chút kinh nghiệm với chốn hoang dã. Nhưng có quá nhiều nỗi lo lắng, đến mức Angeline không thể tách bạch được chúng ra được nữa. Cô xoay bình nước trong tay, nhìn chằm chằm xuống đất.

Không ai có định nghĩa chính xác về thời gian, họ chỉ ngồi thêm một lúc bên đống lửa và nói chuyện về những Thiên Thần Sa Ngã. Iolite không ngại cho Howl và Angeline biết rõ về chúng, nhưng lại không hé một lời về chính mình. Cô ta mới là điều Angeline tò mò, không phải những Kẻ bị đày. Cô ta và cuộc đời kỳ lạ của người mẹ nuôi, người đã nhấn chìm cả một thế giới vào sự hủy diệt. Iolite còn kể về thanh kiếm của Nữ hoàng, vốn có xuất xứ khá kỳ lạ. Cô ta nói thanh kiếm đó không được rèn đúc, tôi luyện như những thanh gươm khác, mà được tạo nên bằng thể xác, máu và xương của một người đã chết. Nhưng khi Howl hỏi người đó là ai thì cô ta lại lảng tránh không trả lời.

Đêm buông xuống lạnh lẽo và ẩm, giá buốt không kém gì những đêm ở lâu đài Quỷ. Howl và Angeline đi ngủ trước, để lại Iolite một mình bên đống lửa vẫn cháy. Cô ta nói đi kiếm thêm củi, nhưng Angeline đoán cô ta muốn có chút thời gian ở một mình. Cái lều khá khiêm tốn, nhưng vẫn đủ cho chừng bốn người, vậy nên vẫn còn chừa lại một khoảng trống đáng kể khi Angeline và Howl vào trong. Trong này thậm chí còn ấm hơn cả ngồi cạnh đống lửa. Angeline trùm mền kín mình, co người sát vào Howl. Cô thích cảm giác đối lập giữa không khí lạnh giá bên ngoài và sự ấm áp của cậu. Howl vòng tay mình qua cô, thở đều đều.

“Chuyện này thật điên rồ.” Angeline nói. Nhưng rồi cô bỗng dưng bật cười, bỗng nhiên không khí có vẻ bớt nặng nề hơn vì cô cảm thấy ở bên cạnh, Howl cũng nhoẻn cười:

“Chuyện gì?”

“Tất cả chuyện này. Anh không thấy nó điên rồ à? Chúng ta đã chết, rồi sống lại... Và giờ chúng ta đi cùng Iolite vì cô ta nói những Thiên Thần Sa Ngã đang săn đuổi cả hai... Đôi khi em không thể bắt kịp nữa, Howl.”

Nụ cười của Angeline tắt dần, cô lắng tai mình để nghe hơi thở của Howl:

“Anh biết.” Cậu nói và im lặng một quãng ngắn. “Anh thậm chí không hình dung được ngày mai sẽ như thế nào... Anh chỉ bám lấy hiện tại và vậy thôi.”

Khi mắt đã quen với bóng tối, Angeline có thể nhìn thấy Howl. Ánh lửa bên ngoài hắt vào cái lều, in trên gương mặt cậu những vệt sáng màu cam nhợt nhạt, tàn úa. Nhưng đôi mắt Howl thì cô có thể thấy thật rõ, chúng sáng lên như mắt mèo và nhìn cô.

“Em nhớ lâu đài Quỷ.” Cô nói. “Em chưa từng nghĩ em sẽ nhớ nó. Em nhớ mùa đông ở đó... Cánh rừng... Dòng sông... Lũ ngựa...” Cô thở hắt ra. “Những người khác nữa.”

Howl không hề tỏ ra ngạc nhiên, cậu thoáng nghĩ về lâu đài Quỷ. Cậu chợt nhận ra thời gian mình sống ở đó còn ít hơn cả Angeline. Cậu không nhớ nó nhiều như cô. Cậu cũng muốn quay về lâu đài, nhưng chẳng vì lý do nào khác ngoài nơi ấy có mọi thứ cậu cần: một căn phòng dễ chịu, không gian im lặng, cảnh vật đẹp, thức ăn ngon và một chiếc giường ấm. Nhưng Angeline thì khác. Cậu hiểu rằng khác với cậu, thứ khiến cô gắn bó với lâu đài Quỷ là về tình cảm, không phải những điều vật chất. Còn cậu, phần nhiều cậu chỉ muốn ra khỏi đó. Có quá nhiều cái chết. Có quá nhiều nỗi đau. Có quá nhiều thứ mà cậu sẽ không thể nào quên được. Nỗi giận dữ, sự căm hờn, ghét bỏ, thù hận và tàn ác. Cậu muốn chôn chặt tất cả những ấn tượng đó về tòa lâu đài vào sâu thẳm mình với hy vọng sẽ quên lãng tất cả.

“Chúng ta không thể quay lại, em biết mà.” Howl nói. “Nếu không đi cùng Iolite, việc duy nhất chúng ta có thể làm là chạy trốn.”

“Anh có hối hận không?”

Angeline cựa mình, ngẩng lên nhìn Howl. Cô không nghĩ mình nói to điều đó thành lời, nhưng dường như đây là dịp hoàn hảo để hỏi cậu điều đó.

“Lẽ ra anh sẽ có một cuộc sống khác, nhưng anh đã không thể.” Cô nói. “Anh đã có thể là một trong những người quyền lực nhất. Nhưng rồi anh bị cuốn vào tất cả những rắc rối này cùng em.”

Howl đảo mắt nghĩ ngợi. “Nếu nói không thì không hoàn toàn là thành thực... Nhưng đó không phải là hối hận, Angie... Anh chỉ ước chúng ta không bị cuốn đi quá xa như thế.”

Cô im lặng một lúc, nhìn sâu vào trong mắt Howl. Đôi mắt cậu lúc nào cũng như có lửa, nồng nàn cháy trong sự buồn bã và tức giận. Nhưng đôi mắt ấy không nói dối cô. Cô chợt hiểu ra sự khó khăn khi Howl buộc phải lựa chọn, hoặc là cô, hoặc là cuộc đời vinh hiển của mình.

Và cậu đã chọn.

“Em thấy sợ.” Angeline nói, rồi nín bặt.

Howl lần tay quanh cổ cô và cầm lấy mặt sợi dây chuyền vàng. Cậu giơ nó lên để cả hai cùng nhìn thấy.

“Cứ tưởng tượng đây là một chiếc bùa bình an của em, Angie.” Cậu nói. “Em sẽ ổn thôi.”

Cô nắm lấy mặt dây chuyền và nhoẻn cười. “Anh chỉ muốn nói anh là lá bùa bình an của em.”

“Em bắt thóp được rồi đấy.” Cậu nói và giọng nhỏ dần. “Ngủ đi.”

Cô không nói gì, xoay xoay mặt dây chuyền trong tay. Cô không thể thấy rõ nó, thay vào đó mường tượng lại nó trong đầu mình. Cô biết Howl nói đúng. Cả hai, theo đúng nghĩa đen, chẳng còn gì trong tay cả. Tiền bạc, địa vị, công việc, nhà.

Nhưng khi tất cả những điều ấy tan biến như chưa từng hiện diện, và trong tay Angeline chẳng có gì ngoài Howl, cô cảm thấy mình tự do hơn bao giờ hết.

*

BÌNH MINH LÊN, cả ba lại lên đường. Cứ như thế hướng về phía đông, qua những buổi sáng lạnh và chiều tàn. Ánh tà dương nơi cuối trời Tây có khi nhuộm đỏ cả cánh rừng. Những thung lũng và đồng cỏ bắt đầu xuất hiện trở lại khi ngày thứ ba trôi qua. Angeline và Howl đã bắt đầu quen với thứ gió lạ, vừa lạnh mà vừa hanh khô của miền đất lạ lẫm này. Thú rừng khá nhiều, nhưng chúng rất nhanh và khó bị bắt, nên cả ba phần lớn phải dựa vào số lương thực mang đi. Những cái bẫy của Angeline thường chẳng mang lại gì. Đến đêm thứ ba, họ may mắn bắt được một con gà béo quay và đầy mỡ. Nhưng nó không phải là nạn nhân của một trong những cái bẫy Angeline đặt. Họ đang ở vùng ngoại ô thành phố, trên một trong những cánh đồng hoang vu bao bọc quanh những khu nhà mọc lên dày kín ở phía Đông. Con gà có lẽ đã chạy lạc khỏi trang trại, và Iolite đã túm được nó khi cả ba đang dựng lều.

“Chúng ta sẽ vào thành phố vào sáng mai.” Iolite nói, cầm một que củi cời lửa. Cô ta đảo đều cái que xiên ngang con gà để da nó cháy vàng ở mọi mặt; mỡ con vật rớt xuống lửa nghe xèo xèo và bốc bùi thơm nồng. “Chắc chúng ta chỉ cần đồ ăn thôi nhỉ? Tôi không nghĩ là còn nhiều tiền đâu.”

“Tôi cần tắm.” Howl nói uể oải.

“Không phải ưu tiên số một đâu.” Iolite nói. “Có thể chúng ta sẽ gặp một cái hồ.”

“Và tôi sẽ chết vì lạnh. Tại sao không chứ?” Giọng cậu đầy thất vọng.

“Cô đã chuẩn bị gì để chúng ta đi qua thành phố chưa?” Angeline chuyển chủ đề. “Cô nói chúng ta sẽ cải trang.”

Không hiểu vì lý do gì, cả ba cùng liếc nhìn thanh kiếm Howl đặt cạnh mình. Nó dài và nặng, đeo nó lâu như thế khiến vai Howl đang tấy lên và đau nhức mỗi khi cử động. Những thứ đồ khác thì không gây nhiều sự chú ý. Nhưng mang vào cả một thanh kiếm như thế chắc chắn không tránh khỏi rắc rối.

Iolite nheo mắt nhìn những khu nhà bao bọc quanh rìa thành phố, leo lét ánh đèn đêm. “Hẳn sẽ có một vài trang trại.” Cô ta nói. “Có lẽ tôi sẽ chôm được thứ gì đó, một cái xe thồ chẳng hạn. Nông dân vào thành hàng ngày để buôn bán thức ăn, họ sẽ không nghi ngờ đâu.”

“Làm sao cô biết chắc được?”

“Tôi đâu có chắc.” Iolite nói, nhấc con gà ra và xẻ nó. “Tôi chỉ hy vọng thôi.”

Sáng ngày hôm sau, khi Angeline thức dậy thì Iolite đã rời khỏi lều. Howl vẫn ngủ yên bên cạnh, cô để cậu nán thêm giấc ngủ một lúc nữa. Bước ra ngoài trời rét mướt và ẩm, Angeline trông thấy Iolite đang đứng bên đống lửa đã tàn, còn bốc khói nghi ngút. Cô ta lúi húi cúi xuống, vùi những quả trứng lớn vào đống than vẫn còn đỏ hồng và phủ tro lên, miệng ngâm nga một bài hát lạ.

“Cô lấy ở đâu thế?”

Iolite ngẩng đầu, huýt sáo và mỉm cười:

“Đến giúp tôi một tay đi. Tôi đã đi đây đó đêm qua.”

Angeline gật đầu. Bữa sáng là ba quả trứng gà lớn, bị hun chín bởi than nóng. Cô cố giữ những hòn than không bị nguội tắt hay bùng cháy lên, trong khi Iolite gói những miếng thịt hun khói đã khô lại vào giấy. Cô ta chủ yếu chỉ chôm chỉa lương thực: thịt, nước sạch, rượu cất, pho mát và bánh mì. Nhưng rồi khi quan sát Iolite gói cất lương thực, Angeline trông thấy một bịch táo ở trên đất, nằm trong một cái bao đan bằng vỏ một loại cây.

“Tôi nghĩ chúng ta cần chút hoa quả.” Iolite nói. “Cô muốn một quả không?”

“Không.” Angeline nói. Cô đói, nhưng cô không muốn nuốt một miếng táo nào cả. Cô sẽ ngồi chờ những quả trứng này chín cho dù sự chờ đợi như muốn đâm thủng dạ dày cô.

Howl bước ra khỏi căn lều trong cơn ngái ngủ, đầu cậu rối bù, quần áo xộc xệch. Cậu mặc bộ quần áo mà Iolite đã mua hôm trước, bằng len và vải thô, dù chẳng đẹp đẽ dễ nhìn nhưng nó rộng rãi và ấm, nên cậu đã bớt hẳn cằn nhằn với Iolite. Cậu bóp mạnh bên vai phải mình, nơi vẫn đau nhức và da tấy lên. Đôi khi Angeline còn chẳng nhận ra cậu khi cậu không đứng trước mặt cô với bộ cánh chỉnh chu, đẹp đẽ và khoác trên mặt phong thái kiêu hãnh thường gặp. Khi nghĩ đến sự khác biệt đó, cô chợt bật cười.

“Bữa sáng đây.” Angeline nói khi những quả trứng chừng như đã chín. Cô thổi lửa để nướng nóng lại số thịt gà còn lại từ tối qua, chẳng nhiều nhặn mấy nhưng với những cái bụng đói, thì đó vẫn là bữa sáng ngon lành.

Bình minh lên được một lúc lâu thì cả ba thu dọn xong đồ đạc và lên đường tiếp. Họ đang ở rất gần thành phố. Khi đi qua những khu phố dọc ngang bao quanh ngoại vi thành phố, đập vào mắt họ là những cảnh tượng lạ lùng. Khi ánh sáng ban ngày rọi xuống, những ngôi nhà hiện lên với những vết nứt chằng chịt, mái ngói lợp thêm một lớp lá, ngôi nhà này chen chúc ngôi ngà khác, tạo ra muôn vàn những cái ngách, hẻm. Ngôi nhà nào cũng kín cửa, xám xịt và lạnh sự sống, dù bên trong vẫn mờ mờ ánh đèn. Bên ngoài đường chỉ có người đói và những người nông dân đi buôn nông sản. Một vài tay lái buôn, một vài người ra đường sáng sớm để mua được những miếng thịt tươi nhất. Những kẻ lang thang, ăn của bố thí ngồi bên vệ đường, nhiều hơn cả những người qua đường. Họ còn chẳng buồn đưa tay ra xin thức ăn, chỉ ngước những đôi mắt nặng trĩu, nhăn nheo, thâm quầng lên nhìn. Cái lạnh làm da họ như đông cứng, trắng bệch và cáu bẩn. Những con ruồi vo ve bu quanh, chẳng ai buồn đuổi đi. Angeline nhìn trân trân vào một người phụ nữ gầy đét như que củi khô, tóc vấn sau đầu và đang cho con bú. Đứa trẻ im lặng đến mức cô tự hỏi có phải nó đã chết.

“Nạn đói.” Iolite nói, khi Angeline và Howl không thể thôi nhìn theo họ. “Có vẻ không phải vấn đề được ưu tiên ở Hội Đồng.”

Angeline không hiểu, cô nhìn Howl, nhưng cậu chẳng nhìn lại. Cậu nhìn đám người đói ngồi đơ cứng trong cái giá buốt sáng sớm, nhìn theo người qua đường với cặp mắt vô hồn. Một tiếng khóc ai oán vang lên từ cái hẻm ngõ nào, hòa vào tiếng gió và tan trong không trung. Có những người nằm lê bên vệ đường, bất động, chẳng biết còn sống hay đã chết.

“Lần đầu tiên à?” Iolite hỏi Howl. Cậu trông căng thẳng hơn cả Angeline, trán căng ra nhưng lông mày chau lại. “Tôi thì trông thấy nhiều rồi, còn tệ hơn cả thế này cơ.”

“Không ai làm gì để giúp họ sao?”

“Họ là con người.” Iolite nói. “Không có tiếng nói và rẻ mạt, chẳng ai quan tâm đến việc họ sống hay chết.”

Howl im lặng. Trong suốt thời gian cậu làm việc ở Hội Đồng, cậu luôn được ngồi trong những căn phòng ấm áp, đầy đủ mọi thứ cậu cần, và họ chỉ việc mang đến những bản báo cáo. Hội Đồng có sự quan tâm đặc biệt đến quân sự và chiến tranh, nên dường như ai cũng chỉ dồn sự chú ý đến những vấn đề này, rằng vùng Ánh sáng đang ra sao, những vùng đất nào có phản loạn, cuộc chiến nào đang diễn ra ở đâu và làm sao để tôi luyện được những đội quân mạnh nhất... Nhưng không ai nói về cái đói. Không ai nói về sự nghèo khổ. Không ai nói về cái chết.

Không một ai,

nói về điều gì đang thực sự xảy ra ở ngoài kia.

Bỗng dưng Howl thấy tức giận.

“Giờ thì tôi cảm thấy mình là một tên khốn.” Cậu buồn bực nói.

“Vậy sao?” Iolite trả lời. “Vậy thì chào mừng cậu đến với thực tại, thưa bệ hạ. Hãy cố gắng mà bắt kịp.”