ĐẦU BUỔI TỐI. Khi mà vệt sáng cuối cùng của chân trời bị màn đêm nuốt trọn, đó là lúc gió nổi lên ngày một giận dữ. Những cơn gió đến từ phía Bắc, có âm thanh của lá cây và hơi thở lạnh giá của mùa đông, cuối cùng cũng chính thức mang mùa đông đến. Tiếng gió gầm hú như một con thú, len qua các vách núi, cánh rừng, những ngóc ngách bên ngoài lâu đài rồi đập thẳng vào cửa kính.

Angeline có thể cảm thấy nhiệt độ ở hành lang hạ xuống rõ rệt. Nến đã được thắp, cô đi đến phòng Howl ngay khi một người hầu thông báo cậu đã về.

Cô cầm cuốn sách chặt thật chặt bằng cả hai tay mình, và hình như cô đang run lên. Càng về gần phòng Howl, Angeline càng bước chậm lại, đến nỗi có vẻ như cô nghĩ mình sẽ quay đầu về phòng mất.

Howl không biết rằng cuốn sổ này tồn tại, cô có thể giấu nhẹm nó đi.

Đó là một suy nghĩ đầy cám dỗ. Cám dỗ đến nỗi Angeline định quay đi thật. Myris đã viết nhiều, quá nhiều trong này, đến độ cô chắc chắn bà chẳng bệnh tật gì cả. Một người phụ nữ tâm thần không thể viết như thế được.

Đưa cuốn sổ cho Howl cũng là tự chuốc rắc rối vào mình.

Nhưng nếu không đưa cho anh ta, cô cảm thấy như mình càng ngày càng ôm vào nhiều nỗi sợ hãi, cắn rứt, tội lỗi và dằn vặt. Làm sao cô có thể để một đứa con trai thậm chí không biết mẹ mình đã chết như thế nào?

Nếu,

chẳng hạn như,

cô không biết về mẹ mình thì sao?

Bất kỳ ai cũng có quyền được biết về gia đình mình, người thân của mình, kể cả họ còn sống hay đã chết, họ vẫn là niềm an ủi. Và Angeline không chắc mình sẵn sàng cắt điều đó ra khỏi – kể cả đó có là Howl – một đứa con.

Cô gõ cửa.

Và lần đầu tiên sau một khoảng thời gian dài, Angeline có cảm giác mình đang làm điều đúng đắn.

Cô không thể chuộc hết tội lỗi của mình, nhưng cô vẫn có thể làm vài điều tốt. Khi cửa mở và gương mặt mệt mỏi của Howl xuất hiện, tim Angeline bỗng đập thình thịch và bàn tay cô run rẩy. Bây giờ thì cô biết rất rõ mình sẽ không nỡ giữ cuốn sổ cho riêng mình, không đời nào.

Đôi mắt cậu ta u ám và mỏi mệt. Cậu ta để cửa ngỏ và quay vào chẳng nói một lời. Bỗng dưng cô nghĩ mình đã đến sai thời điểm.

Dẫu vậy, Angeline vẫn bước vào trong, tiện thể đóng cửa lại. “Tôi có thứ này có lẽ anh sẽ muốn xem.”

“Tốt, đúng thứ tôi cần lúc này đấy. Và rượu, cô chắc thứ cô muốn tôi xem không phải một chai rượu quý nào đó cô tìm được ở căn phòng bỏ trống nào chứ? Vì nếu đúng thế, cô có thể uống cùng tôi đấy.”

Angeline cau mày bối rối. Cô hiểu tính khí thất thường và cái lưỡi có gai của anh ta, nhưng cô không hiểu điều gì khiến anh ta cáu bực đến thế. Bực bội, bối rối, quẫn trí, bất cứ thứ gì.

“Nếu anh không khỏe,” Angeline nói, ôm cuốn sổ da sát ngực. “Tôi sẽ quay lại.”

“Không, không, đừng khách sáo thế.” Howl nằm xuống ghế sofa, da mặt đỏ ửng lên như người say rượu. Cậu vắt một tay lên trán. “Nhưng nếu đó là vấn đề vớ vẩn nào đấy thì cô có thể tự mở cửa về được.”

“Tôi chắc chắn rằng nó chẳng vớ vẩn đâu.” Angeline ném cuốn sổ xuống bàn. Cô đã hết kiên nhẫn và bây giờ không phải lúc chơi trò mèo vờn chuột. “Tôi tìm ra thứ này ở tòa tháp Nam.”

Howl bỏ tay xuống, dựng mình dậy, hết nhìn Angeline lại nhìn cuốn sổ.

“Làm sao cô vào được trong đó?” Cậu hỏi.

“Cửa mở.”

Howl xoa mặt mệt mỏi, rồi cậu với lấy cuốn sổ. “Đây là gì?”

“Phần nhật ký còn lại của mẹ anh.”

Angeline đã tập dượt hàng chục lần mình sẽ nói và giải thích như thế nào với Howl. Cô ngỡ mình sẽ nói gì đó nhiều hơn thế, nhưng đó là tất cả những gì cô cần phải nói. Chỉ có thể mà thôi.

“Cô tìm thấy nó rồi ư?” Cậu lật cuốn sách ra. “Tôi tưởng nó thậm chí không tồn tại. Cô đã đọc chưa?”

“Tất cả.” Angeline nói, rồi trông thấy Howl mở đến trang giấy bên cạnh hai tờ mà cô đã xé, nhưng dường như anh ta không quan tâm lắm.

“Cô tìm được gì không?”

“Có.” Angeline nói, rồi cắn nhẹ môi. Bên ngoài những điều mà Myris đã viết –những điều mà cô muốn giữ làm bí mật, còn có khá nhiều thứ khác đáng để lưu tâm. “Bà ấy đã kể về rất nhiều sự thật trong đó, giống như tự làm lễ xá tội cho mình vậy. Và chắc chắn mẹ anh không bị điên.” Cô nói điềm đạm. “Cho đến những trang giấy cuối cùng, bà ấy vẫn rất bình thường. Bà ấy tạm thôi viết khi sắp sinh Abigail.”

“Cô chắc nó không phải giả hay,..” Howl cười nhưng không ra tiếng. “Tôi không biết nữa.”

“Đó là chữ của Myris.”

“Phải.” Howl nói, chống tay lên cằm, vuốt nhẹ viền cuốn sách bằng tay kia. Cậu ngước nhìn Angeline bằng ánh mắt mà trước đây cậu chưa từng có: Howl đang tìm kiếm sự cảm thông từ cô. “Tôi chỉ không muốn tin. Nếu mẹ tôi không tự sát, tôi không biết điều gì đã xảy ra với bà ấy nữa. Đám cháy là thật, và tôi không hề muốn nghĩ đến việc bà ấy bị ai sát hại hay gì đó...”

Điều lạ kỳ là cô cảm thấy thông cảm với Howl thật. Cô nhìn cậu một lúc. Những cảm xúc quặn lên nơi dạ dày cô, mách bảo cô rằng dường như Howl cũng đang có chung một cảm giác thế. Cô biết, tận sâu bên trong, cả cô và Howl đều đang có chung một nỗi dằn vặt, cắn rứt và ám ảnh về bố mẹ mình. Những kẻ đã chết, dù không còn nữa, nhưng vẫn có sức ám ảnh dai dẳng đến đau đớn.

Trong mắt Howl, cô thấy có một bóng đen xấu xí đang bám đuổi cậu.

Và tàn lửa bay lên từ tro người đã chết cuộn quanh cả hai.

Cuối cùng, cô đã tìm được sợi dây mà cả hai cùng thấy – sợi dây nối kết giữa hai cá thể, hai linh hồn lạc lõng đơn độc này. Sợi dây bện lên từ máu, xương, tội ác, nước mắt, lửa, khói, tro, và cái chết. Bện lên từ chính những nỗi đau, sự băn khoăn, sự giận dữ, sự thèm muốn cuộc sống. Giống như sợi chỉ đỏ định mệnh trong truyền thuyết, buộc chặt nỗi đau của cả hai lại.

Angeline thở gấp.

Lúc cô nhận ra – nghĩ rằng mình có thể không cô độc, là lúc có gì đó lóe lên trong lồng ngực cô, đau rát như ánh mặt trời mùa hè chạm vào kẻ đã núp ở trong bóng tối hàng thập kỷ.

Cô bước vòng qua chiếc bàn và ngồi xuống cạnh Howl.

“Có thứ này chắc chắn anh sẽ muốn biết.” Cô kéo cuốn sổ lại gần mình. Cô cảm thấy cái nhìn của Howl chạm vào da thịt trên mặt, trên trán đau nhức, nhưng cô phớt lờ đi và lật cuốn sách. “Bà ấy từng đề cập đến người này, Fergus Vassago, khá nhiều lần trong cuốn nhật ký. Bà ấy nói ông ta là một nhà tiên tri đại tài, sống ẩn dật và từng vài lần Moldark đến gặp ông ta. Lần đầu tiên là hai mươi hai năm trước, khi bà ấy mang thai đứa con đầu tiên...” Cô ngập ngừng. “Là anh. Sau đó, ông ta lại gặp Vassago một lần nữa khi Abigail sắp ra đời. Nhưng Myris không biết thật sự thì Vassago đã nói gì với Moldark cả. Chỉ là thái độ của ông ta sau khi gặp Vassago khá lo âu và bất thường.”

“Fergus Vassago.” Howl nhắc lại cái tên rồi đưa cả hai tay lên xoa trán, như thể cậu đang chịu đựng một cơn đau đầu vô hình. Có điều sau khi uống bấy nhiêu rượu ở chỗ Iolite, nó không còn vô hình nữa. “Tôi biết ông ta. Từng nghe, thật ra là vậy. Gia đình Vassago là nhánh Cambion của con Quỷ cùng tên. Hắn rất thông minh và là bậc thầy của tiên đoán. Quá khứ, Tương lai, hắn là một trong những người giỏi nhất.”

“Hậu duệ của con Quỷ cũng kế thừa năng lực tiên đoán đó sao?” Angeline hỏi.

“Phải. Sẽ mệt đấy.” Cậu nói. “Nhà Vassago không giao thiệp với bên ngoài nhiều lắm, họ hơi có vấn đề.” Cậu chỉ vào đầu. “Tôi sẽ tìm hiểu xem bây giờ họ đang ở đâu, chúng ta cần đến đó một chuyến.”

Angeline gập cuốn sách lại. “Từ khi nào anh và tôi thành chúng ta vậy?”

Howl bỗng vươn người tới gần cô, làm Angeline giật mình lùi người lại, mắt mở to ngạc nhiên. Cô suýt nữa còn đánh rơi cuốn sổ. Cậu ở gần tới mức cô ngửi được cả mùi rượu vang trong hơi thở của Howl.

“Từ bây giờ.” Cậu nói, cười nửa miệng, như nửa đùa nửa thật. Angeline đứng dậy, đặt cuốn sổ ngay ngắn lên bàn.

“Bao giờ chúng ta đi?”

“Ngày mai.” Cậu ta ngả người xuống ghế, hai mắt nhắm tịt lại. “Phải vào thành phố trước để tôi lấy địa chỉ nơi ở của nhà Vassago. Sau đó chúng ta sẽ tới đấy.”

Giọng cậu nhỏ dần, nhỏ dần, cuối cùng trở thành đờ đẫn, vô thức.

Angeline co vai mình như vừa có cơn gió lạnh tạt qua. Trước khi trở về phòng mình, cô mang từ trong phòng ngủ cửa để ngỏ của Howl một cái mền dày và đắp lên ghế cho anh ta. Cô cũng thấy ngạc nhiên vì không hiểu sao mình muốn làm thế.

Lần đầu tiên, cô dành cảm giác day dứt và tội lỗi đang hoen gỉ trong mình cho Howl.

Có vẻ như sự hiện diện của cô đã hại quá nhiều người rồi.

*

NHỮNG CHẠC CÂY MÙA ĐÔNG QUEO QUẮT lung lay trong từng đợt gió. Chúng khẳng khiu, chen lấn nhau vươn ra giữa trời mùa đông giá lạnh. Mỗi khi gió lùa qua, các nhánh cây run rẩy bần bật như thể lớp vỏ cứng bên ngoài vẫn không đủ giữ ấm cho chúng. Cỏ chuyển màu thành thứ màu vàng nhợt nhạt, héo tàn nhưng vẫn không chịu rứt ra khỏi rễ. Chúng nằm bẹp dí dưới bốn bánh xe ngựa, và thức ăn vặt của lũ ngựa đang đứng tha thẩn ở trước cỗ xe.

Angeline ăn mặc đơn giản. Cô để tóc mình xõa, mặc chiếc váy trắng ngà có phần nào trang nhã bởi những đường may và họa tiết ren đầy nữ tính của nó. Có một thứ cô không bao giờ quên khi ra ngoài, đó là chiếc áo choàng trắng của mình. Trông nó hơi lạc lõng so với chiếc váy, nhưng nó giữ cho cơ thể cô ấm áp và cảm giác thân thuộc.

Howl đang đứng chờ ở trước cỗ xe ngựa. So với Howl Mệt Mỏi ngày hôm qua, anh ta trông chỉn chu, mái tóc vàng được chải và rẽ vào nếp, dù nhiều sợi vẫn buông mình theo làn gió. Anh ta mặc bên trong áo màu đỏ nhung có cổ cao, và bên ngoài là áo khoác dài đến đùi cổ điển bằng nhung đen. Cô không hiểu vì sao cũng một lúc anh ta có thể vừa trông lịch sự - đúng với địa vị của anh ta, và vừa trông phóng khoáng như thể vẻ đẹp bên ngoài của anh ta chỉ là ngẫu nhiên mà có.

Còn cô trông như một con thỏ trắng muốt lạc giữa rừng sâu vậy.

“Ổn cả rồi nhỉ?” Howl nói, khoát tay ra hiệu cho người xà ích và người đánh xe. “Tôi nghĩ chúng ta nên xuất phát thôi.”

Angeline gật đầu. Cô mở cửa xe ngựa, cùng với lúc người đánh xe leo lên chỗ ngồi của anh ta trước xe. Bên trong xe ngựa có hai hàng ghế đặt đối diện nhau, khoảng cách chỉ độ một hai bước chân. Cỗ xe được sơn đen hoàn toàn, chỉ có những tấm rèm ở trong và một vài họa tiết bên ngoài được sơn vàng kim. Lũ ngựa đã được đóng yên và thắt dây cương đầy đủ. Howl chui vào cỗ xe, ngồi ở ghế đối diện cô. Cậu húng hắng vài tiếng rồi thở một hơi thật dài trước khi ngả người ra ghế như thể đó là cái giường thứ hai.

“Anh không ngủ à?” Cô hơi cau mày, co chân lại.

“Ngược lại là khác. Rượu với tôi giống thuốc ngủ vậy. Tôi ngủ say như em bé.”

Angeline chớp mắt, rồi đảo mắt ra ngoài ô cửa kính nhỏ hẹp bên cạnh, khi mà cỗ xe bắt đầu chuyển bánh. Tiếng móng ngựa trên đất lộp cộp vang.

Từ lâu đài Quỷ chỉ mất khoảng mười lăm phút để vào thành phố. Thành phố nằm bên kia dòng Ner Rill, được tộc Lucifer gây dựng và điều hành cho đến tận ngày nay. Đi qua một con đường lát đá tới cổng lâu đài, những gì có thể nhìn thấy là cánh đồng cỏ dại trắng sương ở hai bên đường. Chúng trắng toát như thể phủ tuyết, và lấp lánh dưới ánh sáng ban ngày. Sương vẫn chưa tan hết, tắm những ngọn đồi và đồng cỏ một màu trắng nhợt ẩm ướt. Làn hơi nước trắng mỏng manh trong không trung vẽ nhòe đi những thân cây khẳng khiu và dải đồi xa, Angeline hít thở thật sâu dù ở bên trong cỗ xe cô không thể ngửi thấy mùi sương ướt lạnh. Cô với tay kéo ô cửa sổ lệch ra một chút, tạo một khoảng đủ rộng để cảm nhận được không khí lành lạnh đầu đông.

Không bao lâu họ đã ra khỏi cánh cổng vào lâu đài Quỷ. Kéo dài hai bên cổng là một hàng rào mà dù mới được tu bổ lại, vẫn bị hàng cây leo dại nuốt trọn. Đám cây gai ấy quấn chặt quanh những song sắt như rắn rết, lại bóp thóp lấy thân mọi loại cây gỗ mọc vút lên từ cả trong và ngoài hàng rào. Rốt cuộc khi đi qua chỉ thấy một mớ hỗn độn những chiếc lá khác nhau chen lấn xô đẩy giành không gian cho mình, và một đàn côn trùng đậu trên thân cây.

“Cô đã bao giờ vào thành phố chưa?” Howl hỏi, cốt gợi chuyện.

“Nhiều lần rồi.” Angeline trả lời cụt lủn.

“Bằng ngựa à?”

“Phải. Nhưng tôi chỉ đến ngoại ô là xa nhất.” Cô nói mà mắt vẫn dán ra tầng sương đục nhòe sát trên mặt đất. “Tôi cần máu để tưới những cái cây, nhớ chứ? Tôi thường đến một lò giết mổ ở ngoại ô... ừm, bằng cái xe thồ cũ trong kho.”

Cô mím môi như muốn ngăn mình nói thêm. Cô hiểu rằng giữa cô và Howl chẳng còn gì để mà giấu diếm nữa cả, cậu đã biết sự thật. Không hẳn là toàn bộ sự thật, nhưng đủ để cô có thể nhìn thẳng vào mặt cậu và nói về mọi thứ.

Nhưng Howl không nói gì cả.

Angeline nhoài người ra phía cửa sổ để nhìn cây cầu xây giữa Ner Rill. Cây cầu được gọi là Dark Era, được xây cùng thời điểm với thành phố. Cây cầu vẫn còn nguyên vẹn sau hàng trăm năm, dù cũng đã phải tu sửa và xây lại các phần hỏng nhiều lần. Cỗ xe ngựa đi lên một đoạn dốc, theo con đường mòn đến bờ sông bằng phẳng. Đằng trước là cây cầu rộng mênh mông và dài tít tắp. Dòng sông đã hiện ra, hai bên là bờ đá và cỏ lau. Cỏ ở đây dễ cao đến hông người, dù đã đến mùa tàn lụi nhưng chúng vẫn mọc thẳng đứng lên kiêu hãnh, chen chúc nhau nở rộ các nhúm hoa trắng, tơi như bông gòn. Angeline biết loại cỏ này. Chúng không phải là ưu tiên số một khi đi cắt cỏ cho ngựa ăn, bởi thân cỏ cứng và xơ ráp như vỏ cây, lá cỏ lại sắc như lưỡi dao cạo. Chúng chỉ biến mất khi tuyết bắt đầu rơi, bị chôn dưới hàng mét tuyết và lại tái ngộ với con sông khi mùa xuân đến.

Con sông mùa đông màng màu xanh lạnh lẽo, phẳng lặng và trong như tấm gương tráng bạc. Nước sông hắt lên màu xám sương của mây, màu đá xỉn nặng nề của cây cầu và màu trắng như tuyết của những cây cỏ mình đầy sương. Ner Rill thu mình vào cái im lặng đầy nội tâm, khác với chính nó ở thượng nguồn hay ở mỗi mùa mưa và mùa băng tan.

Một bầy chim bay hình chữ V lướt ngang qua trên đầu cỗ xe, về miền Nam ấm áp.

Đôi khi cô tự hỏi sự ấm áp ở miền Nam có thật không.

Lãnh thổ của vùng Bóng tối khá rộng, chiếm hầu hết hai cực lạnh, nhưng nhường những nơi có ánh nắng và nhiệt độ nóng nực cho vùng Ánh sáng. Hiển nhiên vùng Ánh sáng quanh năm đều có mặt trời. Về phương Nam chính là xuôi về vùng Ánh sáng. Cô thường tưởng tượng về hành trình của lũ chim, bay qua các cánh rừng, đồng cỏ, sông suối và các dãy núi về một phương Nam xa xôi đầy nắng và gió, và sự tự do.

Lũ chim may mắn chết tiệt.

Nếu cô cũng là một con chim thì hay biết mấy.

Vùng ngoại ô hiện ra hai bên con đường mòn, hai bên vẫn là núi đồi và đồng cỏ, nhưng ở phía Bắc có thêm một dãy núi, hiện lên như một đường kẻ mờ ở chân trời. Angeline biết chắc có một dãy núi ở đó. Vào những ngày quang đãng khô ráo, chúng hiện lên nhấp nhô và mờ nhạt, nhưng bây giờ thì cùng với đồng cỏ, rừng và đồi, chúng chìm trong sương buổi sáng.

Chỉ mới đến ngoại ô, nhưng Angeline sớm nghe thấy âm thanh của sự sống. Sự ồn ào, giọng nói, và tiếng của con người. Cỗ xe đi theo đường lớn, rẽ nên một con dốc thoai thoải và sau đó là mặt đất bằng phẳng. Xung quanh là các cánh đồng lúa mỳ rộng lớn, đồng ngô và các thứ rau củ khác. Đi vào sâu hơn cô bắt đầu thấy những dãy nhà thấp mà dài, nằm im lìm trong sương như một con vật say ngủ. Đó là các trang trại. Lò giết mổ gia súc cũng không xa là mấy, nhưng với những đám sương này thì khó mà thấy được gì.

Đâu đó xa xa vang tiếng kẻng đánh buổi sáng.

San Damones hiện lên trong làn sương sớm với những khối đồ sộ màu xám không rõ hình thù, mà nếu vào gần hơn sẽ là các tòa nhà cao chọc trời với đặc trưng không thể lẫn là đỉnh tháp nhọn hoắt, được xây cầu kỳ một cách vô nghĩa. San Damones là một trong các thành phố cổ và lớn nhất khu vực, như một điểm nhấn kiêu ngạo trên bản đồ vùng Rethala. Có hàng trăm con đường dẫn đến thành phố từ khắp các thị trấn lớn nhỏ, vùng hẻo lánh nhất lẫn vùng đông đúc nhất. Bên kia Ner Rill là một cuộc sống khác hẳn.

Nhưng đôi khi khác biệt không đi cùng với tốt đẹp.

Cỗ xe giờ đang đi ở một con đường lớn, xung quanh đầy những cỗ xe ngựa khác. Hầu hết là xe chở nông sản, hàng hóa. Hai bên đường cũng tấp nập người. Tới cánh cổng kép dẫn vào trong thành phố, cỗ xe đi ngang qua một đám lính đang người đứng người ngồi, mệt mỏi vì phải thức dậy từ sớm.

Tiếng chuông, tiếng đồ đạc, tiếng bánh xe và tiếng người pha trộn vào nhau tạo ra một tạp âm đầy sống động của cuộc sống.

Angeline e dè ngó qua ô cửa sổ và ngắm nhìn những dãy nhà, con phố, và những người lạ với đôi mắt tò mò. Cô không biết là Howl đang nhìn mình, rồi cậu bỗng nhếch môi cười:

“Tôi cá là cô chưa bao giờ vào tận trong thành phố.”

“Tôi đã vào một hai lần rồi.” Angeline nói với chút tự ái. “Nhưng quá lâu để tôi có thể nhớ có gì trong ấy.”

“Tận hưởng chuyến đi đi. Tất cả mọi người đều xứng đáng có một cuộc phiêu lưu mà.”

Cô liếc xéo Howl để xem cậu nói thật hay nói đùa. Nhưng với nụ cười kiểu ấy thì khó mà thật lòng được.

Miệng Angeline trở nên đắng chát, khi mà cô nhận ra đây đang là thời điểm hoàn hảo để cô hỏi Howl điều cô vẫn muốn hỏi. Nhưng cô không chắc rằng mình sẵn sàng.

“Tôi không biết bằng cách nào...” Angeline mở lời. “Nhưng tất cả những chuyện này phải kết thúc.” Cô ngừng nói một quãng dài, nhìn xuống chân mình. “Anh định sẽ làm gì? Đưa tôi lên hội đồng xét xử?”

Một luồng gió mạnh cuốn theo bụi đường thốc qua cỗ xe. Cô nghe thấy giọng nói của một đứa bé trai – một đứa trẻ cỡ mười lăm, mười sáu tuổi, đang rao bán báo buổi sớm ở bên đường.

Howl liếc nhìn theo xấp báo trên tay nó.

“Có thể cô không biết thôi... Nhưng họ đang xét xử tên phạm nhân giết Quỷ Vương rồi.”

Angeline cảm thấy da mặt mình cứng lại như đá, và lạnh như mặt băng. “Gì cơ?”

“Tôi đã trả khá nhiều tiền cho một gã Cambion đang tuyệt vọng vì thiếu tiền cho gia đình gã. Gã có đủ lý do để nhận án tử hình một cách tự nguyện.” Cậu nhoẻn cười. “Tôi và Iolite đã có đủ thời gian để sắp xếp bằng chứng giả. Cô không thể tưởng tượng nó dễ như thế nào đâu.”

Angeline cố nhét sự kinh ngạc của mình xuống tận cuống họng. Cô không biết nói gì cả, về cái cách Howl thản nhiên khi bắt một gã vô tội chịu tội thay cho cô – người thật sự đáng bị lên giá treo cổ.

“Tôi... Tại sao... Tại sao anh làm thế?”

“Vậy nên, tôi có thể trả lời với cô là...” Howl nói, phớt lờ đi. “Cô sẽ không bị kết tội gì cả. Khỏi cần cảm ơn.”

Angline vẫn mở to mắt nhìn cậu, cô ngồi im như một pho tượng. Sau đó là một cái cau mày khó hiểu. “Anh giúp tôi để làm gì? Tôi chẳng có gì trả nợ cho anh đâu.”

“Tôi không biết nữa.” Howl lảng đi. “Tôi là người tùy hứng mà.”

Angline không hỏi thêm. Cô biết mình sẽ không nhận được câu trả lời nghiêm túc nào của Howl cả. Cô đoán mình sẽ phải tự tìm hiểu lý do này. Không thể tự nhiên mà anh ta bỗng trở nên cao thượng thế, chắc chắn đằng sau sẽ có cái giá phải trả.

Howl quả là người có dòng máu thuần khiết của nhà Lucifer. Anh ta thực hiện một giao kèo trước cả khi thương lượng với người còn lại.

Không ai nói gì nữa cho đến khi xe ngựa dừng ở một tòa nhà. Nơi ấy được gọi là Tòa Tư Thư Cambion, với một dòng chữ nhỏ ở dưới đề tên thành phố. Tòa nhà tráng lệ được xây vuông vức, với những ô cửa kính trong suốt xây đều tăm tắp. Trên nóc đỉnh tháp treo một cái chuông đồng lớn, nằm trong một cỗ máy phức tạp mà mỗi khi giờ điểm, âm thanh từ cái chuông sẽ lan ra rộng khắp vùng.

“Đây là nơi anh làm việc sao?” Angeline hỏi.

Howl đang dạm bước ra khỏi xe ngựa thì khựng lại. “Cô làm tôi tự ái đấy. Cái tòa nhà bé tí này sao? Không. Nhìn lên kia đi.”

Angeline ngó ra ngoài cửa sổ theo hướng tay cậu chỉ, thấy một khối cao vút màu xám, ẩn trong sương nhưng vẫn không che giấu được cái đồ sộ của nó. Nó nằm cách chỗ này khá xa, từ đây chỉ nhìn được hình thù mờ nhạt mà có lẽ là nóc của tòa nhà.

“Đó là phân nhánh một trụ sở của Hội đồng.” Howl nói. “Đây không phải một thành phố nhỏ đâu.”

Cậu đóng cửa xe ngựa sau khi dặn cô ngồi yên bên trong và đi vào Tòa Tư Thư. Cô kéo kín rèm, chỉ chừa lại một chỗ trống nhỏ để nhìn vào tòa nhà, và bên kia thì nhìn ra con phố lớn. Sương mù dường như mỏng hơn nhiều so với ở quanh lâu đài Quỷ, nên cô có thể trông thấy rõ từng cánh cửa, các tòa nhà cao cao đối diện, dòng người buổi sớm và những cỗ xe thồ. Nhưng điều khiến cô chú ý hơn cả đó là bất kỳ ai đi ngang qua cỗ xe ngựa cô đang ngồi trong cũng phải liếc lại nhìn nó. Thậm chí người ta còn cố tình đi dạt ra xa, vào giữa lòng đường, giữ một khoảng cách cố định với cỗ xe.

Phải rồi.

Angeline chợt nhớ đến những cỗ xe ở lâu đài Quỷ. Tất cả đều được sơn đen, viền vàng kim đặc trưng, với những họa tiết không thể bị lẫn lộn của nền văn hóa hàng trăm năm của gia tộc này. Và rõ ràng hơn cả, là chữ L lớn khắc trên đỉnh phía trước cỗ xe.

Ở đằng trước, gã đánh xe châm một điếu tẩu, ngồi vắt vẻo, thổi phì phèo ra luồng khói trắng.

Đợi một lúc lâu, Angeline bắt đầu thấy sốt ruột. Cô co chân lại, ghé mắt nhìn ra ngoài nhưng vẫn không thấy bóng dáng Howl đâu, chỉ thấy một vài người ra rồi vào Tòa Tư Thư. Cô nhổm dậy, đẩy cửa ra ngoài.

Bên ngoài cỗ xe quả nhiên lạnh và ẩm hơn, Angeline có thể nếm được mùi sương trong không khí. Cô đứng phân vân đó xem có nên vào tìm cậu không thì thấy Howl đang đi ra khỏi tòa nhà, nhưng không phải một mình mà là với ba người nữa. Lần đầu tiên cô thấy Howl cười một cách thoải mái, không mỉa mai, không cay nghiệt. Người đi với Howl là một người đàn ông trẻ khác, hẳn chỉ ngang tuổi cậu, có mái tóc đỏ óng trông rất quen và khoác tay anh ta là một cô gái trẻ ăn mặc sang trọng. Khi nhìn người thứ ba, một cô gái có lẽ họ hàng với người đàn ông tóc đỏ kia, với nước da hồng sáng và gương mặt lấm chấm tàn nhang, cô chợt nhớ ra họ. Cô không nhớ ra tên họ, nhưng cô biết họ cũng là Cambion. Cô đã gặp họ vào bữa tiệc khiêu vũ mà Abigail đã đưa cô đến lần trước. Cô gái tóc đỏ đang đi cạnh Howl rất gần nở nụ cười kiêu căng và tươi hơn mức bình thường, khẽ túm vào tay áo cậu dù cậu không để ý. Angeline chợt nhận ra mình đang nhăn mày và hơi hoang mang.

Cô chột dạ khi thấy mình khó chịu trước cảnh ấy.

Howl đã trông thấy cô đứng trước cỗ xe ngựa, và Angeline chẳng thể nghĩ ra nổi dù chỉ một lý do tại sao cô ra khỏi xe. Cô cứ đứng im như tượng, băn khoăn cô gái tóc đỏ - mà nhìn gần dường như hơn cô đến vài tuổi ấy, là ai.

“Đây là Angeline.” Angeline như sực tỉnh khỏi cơn mơ khi nghe Howl gọi tên mình, hóa ra cậu đang giới thiệu những người kia với cô. “Angeline, đây là Ernest Beleth, hôn phu Gracie của cậu ấy và Rosetta Beleth. Mọi người đã gặp nhau vào bữa tiệc lần trước lại lâu đài của Erik.”

Angeline cảm giác như đôi mắt Howl vàng hơn và lóe lên một tia sáng sắc bén khi cậu nói từ “bữa tiệc”. Cô bắt gặp cậu đang nhìn mình với lời ngụ ý rõ ràng.

“Phải rồi, cô là cô gái đi cùng Howl.” Ernest nói. “Rất vui khi được gặp lại cô.”

Angeline trông thấy Rosetta, cô gái tóc đỏ với những bím tóc mềm mại bướng bỉnh đang mím môi nhìn mình.

“Tôi cũng thế.” Cô nói khô khan.

“Cậu thật sự làm mình bất ngờ đấy.” Ernest nói với Howl, với điệu cười trêu chọc dễ mến. “Mình tưởng cậu đi lại nhiều với Erik sẽ nhiễm thói xấu cả thèm chóng chán của anh ta.” Rồi anh ta quay sang Angeline. “Cô may mắn lắm đấy, nhưng chắc chắn cô cũng biết điều đó.”

Angeline bối rối không biết đáp lại gì, nhưng Howl đã thay phiên cô nói:

“Còn nhiều thứ cậu chưa biết lắm, Ernest.”

“Vậy,” Rosetta lên tiếng chen ngang. “Ngài và ừm, cô gái này, có việc gì bận sao? Tôi nghĩ nếu là Quỷ Vương khi ra ngoài sẽ có người hộ tống đi theo chứ?”

“Tôi thích tự lập hơn, tiểu thư đáng mến ạ.” Rồi Howl quay sang với Ernest và hôn phu của anh ta. “Tôi sắp trễ rồi, hẹn gặp mọi người dịp khác.”

“Cậu phải giữ lời đấy. Đừng có quên đám cưới.”

“Không đời nào.”

Angeline vào trong xe ngựa trước, trong khi Howl vào sau và bận vẫy chào những người kia. Cậu đóng cửa lại, rồi cỗ xe lại bắt đầu chuyển bánh.

“Bạn của anh à?” Cô lên tiếng hỏi.

“Phải, cậu ta và hôn phu sắp làm đám cưới.” Khi Howl lật mở tấm thiệp trên tay ra, cô mới biết cậu cầm nó nãy giờ.

Angeline im lặng, gương mặt cứng lại và cô nhìn lảng đi. Cô không hiểu sao mình cảm thấy bứt rứt khó chịu – một sự khó chịu kỳ lạ nhói lên cùng với nỗi buồn.

“Cô ổn đấy chứ?”

“Tôi không sao.” Angeline nói. “Anh đã tìm được địa chỉ đến nhà Vassago chưa?”

Howl móc ra trong túi áo trong một mẩu giấy gấp bốn. “Rồi.” Sau đó cậu quay qua to giọng với người đánh xe. “Đưa tôi đến cổng dịch chuyển gần nhất đi. Đừng có đi đâu xa cho đến khi tôi trở lại.”

“Vâng thưa ngài.”

Angeline ngó nhìn người đánh xe rồi lại nhìn Howl băng đôi mắt hoang mang. “Cổng dịch chuyển? Đó là gì?”

Howl ngẩng đầu lên. Rồi sau đó là một nụ cười ngoác đến mang tai, khoe hàm răng tăm tắp của cậu bằng sự bí hiểm.

“Chà, cô đúng là người ít ra ngoài thật nhỉ?”