“ĐƯỢC RỒI, ĐI THEO TÔI.”

Howl nói, khi cậu bước lên những bậc thang màu đá đen xỉn của lâu đài. Angeline đi phía sau một cách thận trọng. Cô không rõ Howl đang dẫn mình đi đâu. Cô chỉ biết mình đang ở tòa tháp Tây của lâu đài. Lâu đài Quỷ có ba, bốn tòa tháp lớn như thế, nhưng hầu như không được sử dụng. Ở các tòa tháp đều có một cầu thang xoắn ốc dẫn lên tận đỉnh, mỗi tầng sẽ có một căn phòng. Nhưng những căn phòng đó để làm gì thì chẳng ai biết. Bây giờ, dựa theo các cánh cửa khóa trái gỉ sét, Angeline đoán chúng bị bỏ hoang lâu rồi.

Quanh lối hành lang hẹp và dãy cầu thang, rải rác những ô cửa sổ kính. Chúng mờ xước và nứt vỡ, bầu trời qua cửa kính có màu vàng ố như cà phê. Cánh rừng và ngọn đồi cũng thế. Các luồng sáng nhẹ đáp xuống sàn đá thành một ô vuông như cánh cửa sổ, làm nổi bật lên sự tương phản với bóng tối xung quanh. Mỗi bước Howl đi, Angeline để ý thấy các hạt bụi cuộn lơ lửng trong không trung.

Cô hình dung nơi Howl đang dẫn mình đến. Có thể là một căn phòng tối, anh ta sẽ xích cô vào và nhốt cô ở đó, bỏ đói hoặc tra tấn cô như một thú tiêu khiển để xả căng thẳng. Có một gã điền chủ trong thành phố đã bị bắt vì tội giết người và bạo hành nô lệ của mình. Tuy thế, hắn chỉ bị chú ý vì giết quá nhiều nô lệ. Vẫn có các đạo luật về sử dụng nô lệ ở vùng Bóng tối, nhưng chẳng mấy ai thật sự để tâm đến tính mạng họ cả.

Howl là Quỷ Vương.

Anh ta sẽ chẳng bao giờ bị bắt nếu giết người cả.

Những suy nghĩ đó làm những sợi lông tơ sau gáy cô dựng lên. Cô không sợ một cái chết nhanh chóng, như một vết dao đâm xuyên qua tim hay treo cổ. Cô sợ một cái chết từ từ và đau đớn.

“Sao cô tái mét thế?” Howl bỗng quay lại hỏi, điệu cười của anh ta giống như anh ta có thể nhìn thấu rõ suy nghĩ của Angeline bây giờ. “Tôi không làm gì đâu mà sợ. Tôi chỉ muốn cho cô xem một thứ thôi.”

Angeline vẫn chẳng thấy yên tâm hơn. Nhưng cô vẫn đi theo.

Khi ở gần đỉnh ngọn tháp, Angeline bắt đầu nghe thấy tiếng gió rít. Hẳn một chỗ nào đó đã bị nứt hở, gió luồn qua tạo lên những tiếng như mèo kêu, phả vào Angeline lạnh lẽo. Gió mùa thu rất khô, chúng mang theo mùi của cỏ úa và rừng.

“Đây rồi.” Howl đứng trước một cánh cửa bằng đá, bản lề kim loại gỉ và có hình vòm. Một đường viền chạy quanh mép cửa là ranh giới duy nhất giúp Angeline phân biệt được nó với bức tường.

Mấy tiếng leng keng vang lên trong tay Howl. Cậu cầm một chùm chìa khóa, rồi lần tìm giữa những chiếc chìa bằng đồng đỏ hung một lúc. Sau đó, cậu thốt lên một tiếng vui mừng và tra khóa vào ổ.

Phải mất một lúc ấn, mở, đẩy, thúc mạnh vào cánh cửa và đủ cách bạo lực với cái ổ khóa, nó mới chịu mở.

“Xin lỗi.” Howl nói.

“Vì điều gì?” Angeline hỏi lạnh tanh.

Howl quay sang nhìn cô. “Đó chỉ là cách diễn đạt thôi. Chẳng vì gì cả.”

Một tầng bụi dày cuộn xoáy lên không trung khi Howl dịch cánh cửa đá. Da Angeline sởn gai ốc khi cái âm thanh rin rít, ken két của bản lề cửa và của cánh cửa cào vào nền đá khi nó di chuyển. Bây giờ cô mới nhận ra tòa tháp yên lặng thế nào. Âm thanh đó đã đánh động suốt cả bấy nhiêu tầng. Cô nhìn xuống dãy cầu thang, tưởng tượng có thứ gì đó bị tiếng vang này đánh thức và lao ra khỏi bóng tối.

“Để tôi đoán.” Angeline nói. “Tòa lâu đài này đầy những lối đi bí mật phải không?”

Howl ghì vai vào cửa để lấy sức đẩy. Cậu đã cho người làm dọn dẹp và thay bản lề cửa mới từ lần tu bổ trước, nhưng có vẻ chẳng khá khẩm hơn mấy.

“Điều gì khiến cô nghĩ thế?”

“Đó là kiểu các tòa lâu đài hay có mà.” Angeline nói. “Hành lang ngầm, căn phòng bí mật, che giấu kho báu.” Cô ngừng một lát rồi nói tiếp. “Hoặc che giấu một thứ khủng khiếp nào đấy.”

“Cô có trí tưởng tượng phong phú thật đấy.”

“Có thể tôi sẽ tìm thấy trong khi ở đây. Tôi sẽ lục tung hết bí mật của lâu đài này.”

Rốt cuộc cánh cửa cũng nhích ra được một khoảng khá rộng. Howl hắt xì liên tục vì bụi bay mù trong không trung. “Chúc may mắn. Được thế thì tôi cũng mừng, giờ thì vào đi.”

Angeline liếc nhìn Howl một cách nghi hoặc, rồi lách mình qua cánh cửa. Cậu đi ngay đằng sau cô, nhưng điều đó lại khiến Angeline thấy bất an. Cô luôn phải ngoái nhìn lại phía sau, cảm giác như mình có thể bị đâm chết hay đánh chết bất cứ lúc nào có thể. Anh ta chỉ cần vật cô xuống sàn và bóp cổ.

Đôi khi Angeline thấy ngạc nhiên vì mình có thể sống lâu vậy.

Phía sau cánh cửa là một căn phòng trống. Nó đẹp đến đáng ngạc nhiên. Đây là đỉnh tháp, nên bao quanh bốn bức tường là những tấm kính lớn xếp hình vòm, trong vắt, có thể trông ra nhiều hướng. Angeline đứng ngẩn ra một lúc, rồi ngạc nhiên nhìn Howl.

Cậu chỉ mỉm cười, rồi nhún vai.

Ở giữa căn phòng, có độc nhất một cây đàn piano. Nó cũ đến mức ở nhiều chỗ, sơn đã bong tróc ra và để lộ lớp vân gỗ bên trong. Cây đàn khá lớn, có một chiếc ghế ngồi, những phím đàn phủ đầy bụi và ố vàng. Nó giống kiểu một cây đàn cổ ở một ngôi nhà bị ma ám, vào ban đêm sẽ đột nhiên vang lên những nốt réo rắt giữa bóng tối tĩnh mịch.

Như thể bên trong nó cũng có một linh hồn vậy.

“Đây là gì?” Angeline hỏi.

“Quà tặng của tôi mừng cô vào lâu đài Quỷ.” Howl nhoẻn cười ranh mãnh.

“Đừng có đùa nữa.”

Howl rời khỏi chỗ đang đứng, cậu bước gần lại phía cây đàn. Khi đặt tay lên mặt gỗ, lớp bụi liền dính ngay vào tay cậu.

“Đây là quà cưới của cha mẹ tôi. Mẹ tôi thích nhạc cụ, đặc biệt là piano. Cây đàn từng là của bà ấy. Khi bà ấy chết, cây đàn là tài sản của cha tôi và ông ấy bỏ nó lên đây, phủ bụi hàng năm trời.” Howl xoa xoa những ngón tay đầy bụi, rồi quay lại nhìn Angeline đang chăm chú lắng nghe. “Và sau khi Moldark chết, ông ta muốn để lại cây piano cho cô.”

“Tôi ư?” Cô ngạc nhiên,

“Cô là Angeline Gallois?”

“Phải.” Cô ta trả lời khó nhọc. “Thì sao?”

Tất cả những gì Howl làm là mỉm cười. Cậu đứng lùi ra khỏi cây đàn, ung dung bước quanh Angeline:

“Tôi nghĩ cha tôi vì không có cách nào khác để chỉ ra cô là kẻ giết người, nên ông ta đã lập di chúc như thế. Chắc chắn tôi sẽ chú ý nếu đột nhiên trong di chúc của cha mình có tên một người lạ, mà lại là một người làm trong lâu đài. Ông ta muốn tôi tìm ra cô.”

Angeline nuốt khan.

Vậy là dù như thế nào đi nữa, anh ta vẫn sẽ tìm ra cô.

Cô không thể che giấu nổi.

“Tuy nhiên, sau khi thu lượm được vài điều mà tôi nghĩ rằng cô có liên quan đến cái chết của mẹ tôi, tôi bắt đầu nghĩ có thể Moldark muốn nói gì đó nhiều hơn kết tội cô. Ông ta để lại một thông điệp.”

“Hy vọng anh đã tìm ra.”

Angeline cố nói bằng giọng rắn rỏi, nhưng cô đã thất bại. Nghe cô thật yếu ớt và sợ hãi.

“Thật ra là chưa.” Howl nói. “Tôi vẫn không biết có chuyện gì đã xảy ra với mẹ tôi. Có rất nhiều khúc mắc. Tôi nghĩ cô có thể giúp.”

“Tôi chẳng liên quan gì đến mẹ anh cả.” Angeline nói. Tay cô lướt nhẹ trên những phím đàn, làm một tần bụi dày dính lên đầu ngón tay. Cô chưa từng trông thấy hay chạm vào một cây đàn piano. Những phím đàn có vẻ nặng và cứng, nếu chỉ nhấn nhẹ chúng sẽ chẳng nhúc nhích.

Angeline không nghe thấy tiếng Howl trả lời. Anh ta đứng bên kia cây đàn, đối diện cô. Cây đàn trở thành lá chắn giữa cô và Howl, nhưng Angeline cảm thấy chưa đủ. Nếu là một bức tường đá thì tốt hơn.

“Tôi chưa hỏi cô điều này.” Howl nói. “Tại sao cô giết Moldark? Tôi có cảm giác cô muốn trả thù. Cho bạn bè? Gia đình? Anh chị em? Cô ở đâu đến, Angeline?”

Angeline lỡ nhấn quá mạnh vào một phím đàn. Âm thanh của nốt nhạc bật lên làm cả hai giật mình. Howl lẩm bẩm ngạc nhiên.

“Ông ta đã giết cả gia đình tôi.” Angeline nói bằng giọng lãnh đạm và cảnh giác, cô cân nhắc phần nào nên kể và phần nào thì không. “Ông ta cần bị trừng phạt.”

“Tôi hoàn toàn đồng ý.” Howl nói. “Thấy đấy, đó là điểm chung lớn của chúng ta. Cả hai chúng ta đều ghét Moldark.”

“Anh là con trai ông ta.” Angeline mỉm cười khinh bỉ. “Đừng kéo tôi vào chuyện của anh.”

Các nốt nhạc lần lượt vang lên, từ những âm thanh nhẹ bẫng đến những âm nặng nề, theo từng ngón tay của Angeline. Những chuỗi âm thanh không còn trở nên xa lạ. Các nốt nhạc va vào cửa kính rồi dội lại tòa tháp. Dĩ nhiên Angeline chẳng biết chút gì về âm nhạc, cô chỉ thích nghe âm thanh của các phím đàn.

“Vậy là cô đã lên kế hoạch cho việc này hàng năm trời.”

“Không… Tôi chỉ tiếp tục nó thôi.” Angeline liếc nhìn Howl để quan sát vẻ mặt của cậu, rồi cô lại cúi nhìn những phím đàn vàng ố. “Khi tôi đến đây, mấy cây táo đã lớn rồi. Ai đó đã bắt đầu câu thần chú nhưng không hoàn thiện nó. Tôi tìm thấy các tờ giấy ghi chép về câu thần chú ở tòa tháp. Đó là dấu hiệu cho tôi, tôi cần tiếp tục hoàn thiện nó.”

“Tòa tháp đó là của mẹ tôi, Myris.”

Angeline ngẩng đầu nhìn Howl, ngạc nhiên. Các nốt nhạc cũng dừng lại. Từ trước đến giờ, cô nghĩ Myris là tên của tòa tháp, dù cái tên này có vẻ quen thuộc. Không có ai trong lâu đài dám gọi thẳng tên Myris mỗi khi nhắc đến bà cả.

“Tôi nghĩ bà là người đã trồng những cây táo.” Howl nói tiếp một cách trôi chảy. “Tôi sẽ chẳng băn khoăn về việc tại sao bà ấy lại làm thế đâu. Nhưng dẫu sao bà ấy cũng không thể hoàn thành nó, đó là khi cô đến đây và tiếp tục chăm sóc những cái cây.”

Angeline cúi xuống, tiếp tục nhấn từng phím đàn. “Tôi biết những thứ đó thuộc về một ai đấy, nhưng tôi chưa từng nghĩ đó là mẹ anh.” Rồi cô ngẩng đầu lên. “Tuổi thơ bất hạnh nhỉ.”

“Cô không biết hết đâu.” Howl nhếch môi cười.

Bỗng nhiên, chuỗi âm thanh của cây đàn bị đứt mạch. Một phím đàn không phát lên âm thanh như những phím khác. Angeline nhấn nó thêm nhiều lần, nó nặng và như có thứ gì chẹt ở dưới.

“Phím này hỏng rồi.” Cô nói.

“Thứ này đã bị bỏ không cả chục năm rồi, đừng ngạc nhiên thế.”

“Không. Tôi nghĩ...” Cô ngập ngừng do dự. “Tôi nghĩ có thứ gì làm chẹt phím đàn.”

“Để tôi xem.”

Howl nói và đi vòng qua cây đàn, đứng cạnh Angeline. Cậu nhấn thử một hai lần vào phím đàn bị hỏng. Angeline lùi xa ra khỏi cậu vài bước.

“Tôi sẽ cho thợ sửa sau.” Howl nói. “Cô cũng đâu cần đến nó, phải không? Trừ khi cô muốn chơi vài bản nhạc.”

Howl nói rồi cười rũ. Angeline cau mày, cô biết cậu ta nói thế bởi cô không biết dùng đàn hay bất kỳ thứ gì cả. Cậu ta thì chắc chắn có, và đang cười nhạo cô vì thế.

Angeline cau mày khó chịu nhưng không nói gì. Cô thôi hướng sự chú ý vào cây đàn piano, mà tới những cánh cửa đối diện với cánh cửa đá vào phòng. Nó nằm sau chiếc đàn, có ba cánh cửa tất cả, được làm bằng gỗ. Sơn trên ba cánh cửa đã xỉn đen và trầy xước. Cô không hiểu tại sao lại có ba cánh cửa đó. Vì đằng sau chúng nhẽ ra phải là không gian ngập gió khô bên ngoài.

Chẳng có căn phòng nào nằm sau ba cánh cửa đấy được cả.

Chúng nằm liền cạnh các ô kính. Im lìm.

“Những cánh cửa này để làm gì thế?” Angeline hỏi.

Howl gãi cằm, ngước nhìn lên các cánh cửa. “Đừng có bước vào, tôi nói rồi đấy. Chúng không phải cửa bình thường đâu.”

“Vậy thì là gì?”

Howl nhoẻn cười trước ánh mắt tò mò của cô gái. Cậu chỉ lên cánh cửa bên trái mình. “Đó là cánh cửa dẫn tới Quá Khứ. Khi cô bước vào, nó sẽ đưa cô về quá khứ của mình. Có thể là một ký ức cô muốn nhớ lại hoặc ngẫu nhiên, chẳng thể biết được.”

Cậu đi những bước chậm đến cạnh Angeline. Cô chăm chú nghe và nhìn cánh cửa bên trái.

“Bên kia là Hiện Tại.” Cậu chỉ vào cánh cửa bên phải. “Cô bước vào, sẽ biết được bất kỳ điều gì đang xảy ra lúc này, chỉ cần tập trung nghĩ đến địa điểm hay người mà cô cần biết. Tuy nhiên, không dễ gì mà mở được nó đâu.”

“Không sao?”

Angeline thử bước đến và vặn nắm đấm cửa. Nó không hề có ổ khóa, cô thề là thế. Chỉ có một nắm đấm cửa tròn bằng gỗ trồi ra, kẹt cứng, không hề nhúc nhích khi cô vặn.

“Tôi nói rồi, không phải ai cũng mở được nó. Cần có một chút động lực.” Cậu đảo mắt suy nghĩ. “Giống như phải có gì đó thôi thúc, một việc nguy cấp, cô mới mở được.”

“Còn cánh cửa còn lại?”

Howl nhìn cánh cửa nằm ở chính giữa. Nó có vẻ to hơn và chắc chắn hơn hai cánh cửa còn lại nhiều.

“Đó là cánh cửa Tương Lai.” Cậu nhìn Angeline. “Theo tôi biết họa chăng chỉ có một hai người có thể mở được nó. Cần nhiều hơn một chút động lực để biết trước được tương lai.”

Cô gái nhỏ nhìn cánh cửa đó. Trong cô có một chút thôi thúc thật, cô muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với mình trong vòng vài tháng nữa. Nhưng Angeline biết cái động cơ cá nhân đấy không thể mở được cánh cửa. Tất cả mọi người đều có một thôi thúc muốn biết về tương lai của mình.

Nhưng nó nhiều và mạnh mẽ chừng nào thì lại là chuyện khác.

Và liệu rằng có ai thật sự muốn biết về tương lai? Dù chỉ là một giây thoáng qua, nó cũng có thể trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng.

Chẳng hạn, Angeline tưởng tượng khi mình bước vào và trông thấy cái chết đen ngòm của bản thân. Dẫu cô vẫn đang sống với suy nghĩ mình sẽ chết trong vòng bao lâu mỗi ngày, điều đấy cũng thật kinh khủng.

Có những thứ tốt nhất không nên biết thì vẫn hơn.

“Tôi sẽ cho thợ sửa lại cây đàn và di chuyển nó xuống dưới nếu cô muốn.” Howl nói. “Có thể nó sẽ làm căn phòng đẹp hơn đôi chút. Bây giờ tôi sẽ dẫn cô đi xem vài phần của lâu đài. Tôi không rõ cô hiểu về tòa lâu đài này nhiều tới đâu nhưng một chuyến tham quan cũng không hại ai.”

Cậu nói và quay ra phía cửa. Angeline chẳng nói chẳng rằng, đi theo. Thật ra cô chẳng hiểu mấy về lâu đài và các tầng lầu. Mỗi khi dành thời gian cùng Abigail, cả hai hay ra ngoài cánh đồng, có khi là quanh hiên. Hoặc khi mang táo cho Quỷ Vương, cô cũng nhớ được phòng ngủ và phòng làm việc của ông ta ở đâu, nhưng chỉ có có thế... Dẫu Angeline không bao giờ công nhận kể cả với chính mình, cô vẫn cố không phải bước chân vào lâu đài.

Cánh cửa đá ken két đóng lại.

Tại sao cô cố tránh xa tòa lâu đài?

Chiếc piano đầy bụi và căn phòng lại rơi vào im lặng.

Có những mảng tối tồn tại trong lâu đài Quỷ, và Angeline sợ phải đối mặt với chúng một ngày nào đấy