Lễ Phục sinh, chúng tôi máy móc trải qua ngày hôm đó. Ned, Bobby và Jonathan nhào tới những giỏ quà của họ, thốt lên trước những chiến lợi phẩm nho nhỏ, nhét đầy mồm những viên kẹo hạt đậu và kẹo dẻo hình con gà. Jonathan khoái trá cắn đôi tai của một con thỏ sô-cô-la khiến tôi bất giác rùng mình. Ned tặng tôi một chậu cây phi yến mà tôi rất thích và một cái khăn lụa thêu hoa sặc sỡ được những bà lão nặng tai ưa chuộng khi họ ra ngoài ăn trưa.

Có lẽ Ned đã thấy vẻ chưng hửng trên khuôn mặt tôi khi tôi lôi cái khăn “bà già” lòe loẹt đó ra khỏi lớp giấy gói. Anh dịu dàng nói: “Anh có biết gì về khăn khiếc đâu. Anh đã mua nó ở cửa hàng Herman Brothers đấy, em có thể trả lại nó và đổi lấy thứ gì đó khác.”

Tôi hôn anh. “Không cần đâu,” tôi nói. “Chiếc khăn đáng yêu lắm.”

Tôi không thể ngừng nghĩ rằng nếu là Jonathan thì nó sẽ biết mua cho tôi chiếc khăn như thế nào.

Chúng tôi ăn bữa tối tự tay tôi nấu và nói chuyện phiếm. Sau khi ăn xong, Ned đến rạp chiếu phim. Trên đường ra cửa, Jonathan nói với anh: “Bọn con đến suất chiếu lúc tám giờ bố nhé!”

“Dĩ nhiên rồi,” anh đáp và nháy mắt. Sau khi anh đi, bọn trẻ đi rửa bát đĩa. Tôi định giúp chúng, nhưng Jonathan đã xua tôi ra khỏi bếp. Từ phòng khách, nơi tôi xem qua loa một cuốn tạp chí, tôi có thể nghe tiếng hai đứa thì thào nói chuyện. Thi thoảng, chúng cười phá lên.

Rửa bát đĩa xong, chúng lên phòng của Jonathan ở trên gác. “Bữa tối ngon lắm mẹ ạ,” Jonathan nói khi hai đứa đi qua phòng khách. Bobby nói thêm: “Chà! Nó là, ờ, bữa tối tuyệt nhất đấy ạ?”

Chúng không mời tôi lên. Chúng không bật nhạc. Một tiếng sau, chúng trở xuống, trên người đã mặc áo khoác. Chúng ra khỏi cửa gần như ngay lập tức.

“Chào mẹ,” Jonathan nói với lại từ thảm cỏ.

“Chào cô Glover!” Bobby thêm vào.

Tôi đứng dõi theo chúng đi trên phố một lúc, tay chúng nhét trong túi áo khoác. Dáng đi của Bobby uyển chuyển và vững vàng, còn dáng đi của Jonathan thì hơi khệnh khạng, theo kiểu những cậu thanh niên cố tạo ra dáng vẻ nghênh ngang để tỏ ra tự tin. Đằng sau tôi, ngôi nhà thật vắng lặng, bát đĩa đã khô và được cất đi.

Tôi chờ đợi để có cơ hội trò chuyện riêng cùng Jonathan. Đó là gần một tuần sau. Cuối cùng nó cũng trở về từ những chuyến đi dạo ban đêm mà không có Bobby đi kèm, và tôi bắt gặp nó trên đường nó đi lên gác. Chỉ có nó mới tạo ra tiếng ồn như thế với đôi giày đó.

“Jonathan?” Tôi gọi. “Mẹ nói chuyện với con một chút được không?”

“Vâng.” Nó dừng lại ở lưng chừng cầu thang và dựa vào lan can như một tay cao bồi đang áp bụng vào quầy bar. Tóc nó rủ xuống, lòa xòa trên mặt.

“Con xuống dưới đi,” tôi nói. “Mẹ thực sự không muốn diễn một cảnh ở ban công đâu.”

“Vâng,” nó tỏ vẻ hào hứng. Nó lẽo đẽo theo tôi vào phòng khách và ngồi xuống cùng tôi.

“Ừm,” tôi nói. Tôi không biết phải mở đầu một cuộc trò chuyện khó khăn với nó như thế nào. Từ trước đến giờ tôi vẫn luôn nói chuyện với nó dễ dàng như thể tôi đang nói chuyện với chính mình vậy.

“Sao ạ?” Nó hỏi.

“Jonathan, con yêu, mẹ biết con rất quan tâm đến Bobby.” Sai rồi. Giọng điệu đó thật là khô han, hống hách. Tôi cố cười nhưng tiếng cười của tôi thật nhạt nhẽo, vọng lại tai tôi như tiếng chuột kêu. “Quan tâm rất nhiều,” tôi nói thêm.

Lại sai nữa rồi. Lúc này giọng điệu của tôi lại quá hiểu biết, quá khơi gợi. Tôi vẫn là mẹ nó cơ mà.

Nó gật đầu, nhìn tôi với một khuôn mặt bình thản, vô cảm.

“Ừm, con yêu,” tôi nói, “thực ra thì mẹ vẫn đang băn khoăn rằng, liệu con có nên dính với Bobby quá nhiều như thế hay không. Con không nghĩ là mình cần có thêm những người bạn khác nữa à?”

“Không,” nó nói.

Tôi lại cười, lần này thành công hơn. “Ít nhất thì con cũng sẵn sàng nói chuyện về vấn đề này,” tôi nói.

Nó nhún vai và quấn một lọn tóc quanh ngón tay.

“Mẹ nhớ hồi mẹ bằng tuổi con, bọn mẹ vẫn thường đi chơi thành một nhóm đông,” tôi nói. “Bọn mẹ ít nhiều đều yêu quý nhau, và nhóm bọn mẹ có đến bảy hay tám người gì đó. Cả con trai lẫn con gái. Ý mẹ là, mẹ nghĩ mẹ biết cảm giác khi quá yêu quý một người bạn là như thế nào.”

“Vâng,” nó nói với giọng của một cậu con ngoan, có vẻ bớt khó hiểu hơn. Tôi ngờ rằng – tôi biết – tình yêu của nó dành cho Bobby chắc hẳn đã làm nó sợ. Có lẽ đó chính là nguyên nhân thực sự tạo nên điệu bộ đàn ông và đôi hài bảy dặm nặng nề này.

“Giờ thì nghe này,” tôi nói. “Mẹ là bạn con. Mẹ nghĩ mẹ hiểu Bobby. Nó có thể rất… cuốn hút. Nhưng mẹ phải nói với con điều này. Đừng quá quấn quýt với nó. Không phải ở một thời điểm quá sớm trong đời con như thế này.”

Nó nhìn tôi từ bên dưới mớ tóc lòa xòa, và tôi nhận thấy trên khuôn mặt nó thoáng hiện hình ảnh Jonathan ngày xưa của tôi, yếu đuối và hay nghi ngờ. Trong một thoáng, có vẻ chúng tôi đã khám phá ra một điều gì đó.

“Ôi, con yêu,” tôi nói. “Mẹ hiểu được cảm giác của con mà. Thực sự đấy. Vậy nên hãy tin mẹ. Sẽ có ngày con chỉ còn coi Bobby như một người quen cũ mà thôi.”

Mặt nó sa sầm lại. Đó là một quá trình hiển hiện thấy rõ, như những cánh cửa chớp sập lại trên một khung cửa ngập tràn ánh nắng.

Nó nói: “Mẹ đâu hiểu được cảm giác của con. Và mẹ đâu hiểu nổi Bobby. Con mới là người hiểu rõ cậu ấy. Mẹ đừng cố cai quản cuộc đời con nữa.”

“Mẹ không hề.”

“Có đấy mẹ ạ. Con không thể chịu nổi điều đó nữa. Mẹ đang hít đến cạn kiệt không khí ở đây đấy. Ngay cả những chậu cây cảnh cũng đang chết dần chết mòn kia kìa.”

Tôi sững sờ nhìn nó. “Cuộc đời con là của con,” tôi nói. “Mẹ chỉ đang cố bảo con là mẹ luôn ở bên cạnh con mà thôi.”

“Ui, má thân êu, bên con chẳng còn khoảng trống nào cho ai khác ngoài con cả.”

Tôi tát nó gần như ngay lúc tôi nhận ra mình đang làm gì. Tôi tát nó rất mạnh, đủ để làm văng ra một sợi nước dãi từ khóe miệng nó. Tay tôi đau rát vì cú đánh đó.

Sau một thoáng, nó mỉm cười và đưa mu bàn tay lên chùi miệng. Cái tát đó có vẻ đã khiến nó thỏa mãn, có vẻ đã chứng minh cho thứ gì đó mà nó nghi ngờ bao lâu nay.

“Mẹ xin lỗi,” tôi nói. “Mẹ không hề muốn đánh con. Trước đây mẹ chưa bao giờ đánh con, đúng không?”

Nó đững sừng sững mà không nói gì rồi đi lên gác, mang theo vẻ khám phá đầy thỏa mãn. Mỗi bước đi của nó vang lên như tiếng đại bác.

Tình bạn trước đây của chúng tôi đã chấm dứt. Jonathan và Bobby ngày càng hay đi chơi, về nhà muộn và đi thẳng lên giường ngủ. Chúng không mời tôi lên để cùng phê thuốc hay cùng nhảy nhót với chúng nữa. Ned bảo tôi rằng chúng đến xem phim khá thường xuyên. Đôi khi, anh nói, anh ngồi với chúng, xem một bộ phim mà anh đã xem đi xem lại đến gần chục lần. Anh nói Jonathan có sự cảm nhận sắc sảo đáng ngạc nhiên về những bộ phim – có lẽ nó có những tố chất để trở thành một nhà phê bình phim.

Tôi biết rằng tôi không nên cấm Bobby đến nhà mình. Chẳng phải bố mẹ tôi đã cấm tôi gặp Ned sao? Chẳng phải cái tối hậu thư lạnh lẽo của họ đã dẫn dắt tôi đến với cuộc hôn nhân này sao? Thực sự tôi không thể biết được liệu tôi lo lắng nhiều hơn về tình yêu của Jonathan với bọn con trai nói chung hay về sự đam mê đặc biệt mà nó dành cho Bobby. Dù dĩ nhiên tôi hi vọng nó sẽ lớn lên như những người đàn ông bình thường, gặp gỡ một cô gái và có những đứa con. Tôi biết rằng lựa chọn đó đã nằm ngoài sự can thiệp của tôi. Jonathan không muốn ai xen vào cuộc sống của nó. Ngoại trừ Bobby, một thằng bé dễ thương nhưng không đáng tin cậy, một đứa trẻ không có những hoài bão rõ ràng và trí năng có vấn đề… Nếu Jonathan vẫn cứ dính vào Bobby thì nó sẽ không bao giờ biết được cái thế giới rộng lớn hơn sẽ còn đem lại cho nó những gì Bobby, không thể tránh khỏi, là một cậu bé Cleveland, và tôi biết tương lai mà Cleveland mang lại. Những con phố trung tâm đầy rẫy những thanh niên vẫn con đang bám trụ lại đây: những thanh niên ở tuổi hai mươi lăm, đeo cà vạt rẻ tiền sáng màu và thắt lưng to bản, la cà trong giờ nghỉ trưa trước khi quay lại với công việc dưới ánh đèn huỳnh quang trong khi kim giây cứ lướt đi trên mặt đồng hồ.

Gần một tuần, Bobby và tôi mới chạm trán nhau.

Hôm đó, tôi xuống bếp lúc đã quá nửa đêm, cán vỏ bánh để làm vài cái bánh nướng. Đã hai tuần nay tôi mắc chứng khó ngủ, và vấn đề đó chẳng thể được cải thiện bởi tiếng ngáy hen suyễn của Ned. Cuối cùng, đành cam chịu, tôi xuống gác trong bộ đồ ngủ, hi vọng rằng vài thao tác làm bếp đơn giản sẽ giúp tôi ngủ được.

Tôi chỉ vặn đèn bếp ở mức lờ mờ, và thực sự cũng không cần đến nó. Thậm chí trong một cái hầm mỏ tôi vẫn có thể làm bánh dễ dàng.

Tôi làm gần xong thì Bobby xuất hiện, trông ngái ngủ, lơ ngơ, dù đôi khi khó mà nhận ra điều đó ở nó. Nó đứng ở cửa bếp, mặc quần đùi, dáng vẻ to lớn và gân guốc.

“Ồ, chào cô,” nó lí nhí. “Cháu không biết là cô ở đây. Cháu chỉ, ừm, xuống uống nước thôi?”

Chắc chắn là nước từ vòi trong phòng tắm vẫn chảy bình thường. Tôi biết nó xuống đây vì cái gì: chai rượu gin mà chúng tôi cất trên chạn bếp lúc đó còn gần một nửa. Tuy nhiên tôi cũng vờ như không biết.

“Cô không ngủ được,” tôi nói. “Vì thế cô quyết định mình nên làm gì đó có ích.”

“Vâng,” nó nói. Nó vẫn đứng ở cửa, tiến thoái lưỡng nan. Tôi rót một cốc nước từ vòi và đưa cho nó.

“Cảm ơn cô,” nó nói. Khi nó bước tới để đón lấy cốc nước từ tay tôi, nó mang theo mùi đặc trưng của nó vào bếp, mùi thiếu niên phảng phất mùi kim loại trong một ngày lạnh giá. Tôi có thể nghe tiếng òng ọc đều đều mà cổ họng nó tạo ra khi nó uống nước.

“Bobby,” tôi nói.

“Dạ?”

“Bobby, chúng ta có phải là bạn không? Cô nghĩ chúng ta là bạn với nhau, cô và cháu ấy.”

Nó suýt làm rơi cốc. Nó cười trong sự lo lắng cực độ và nói: “Ồ, đúng vậy ạ. Ý cháu là, cháu nghĩ, cô biết đấy, là cô rất tuyệt vời.”

“Cảm ơn cháu. Cô vui khi cháu nghĩ vậy. Nhưng dạo này cô cháu mình không gặp nhau nhiều đúng không?”

“Vâng,” nó nói. “Dạo này cháu, cô biết đấy, khá là bận…”

Tôi không thể ghìm được một tiếng cười chế nhạo.

“Cháu đâu phải là chủ tịch hội đồng quản trị của công ty General Motors,” tôi nói. “Đừng cố đánh lừa cô, nghe không? Chỉ lãng phí thời gian thôi.”

Nụ cười của nó méo xẹo, và nó nhún vai bất lực. “Ồ,” nó nói. “Cô biết đấy, Jonathan…”

“Jonathan làm sao?”

“Dạ, cậu ấy hơi… Cô biết đấy. Cô… kiểu như là… mẹ cậu ấy.”

“Nghe có vẻ đúng đấy,” tôi nói. “Cô giống như mẹ nó. Cô giống như một người nào đó có thể dễ dàng bị lừa bởi những lời giải thích khập khiễng.”

Bobby lại cười méo mó, như thể tôi vừa nói đùa. Tôi nhận ra rằng không ích gì khi kéo dài vấn đề này với nó. Nó chỉ tuân theo mệnh lệnh mà thôi. Tôi đứng trước mặt nó, hai tay khoanh lại trước ngực. Đáng lẽ tôi có thể dễ dàng nói: “Ra khỏi nhà này ngay và đừng có quay lại đây nữa.” Đáng lẽ tôi có thể xác nhận trạng thái tình cảm của nó.

Cố gắng thấy rõ để thay đổi chủ đề, Bobby hỏi: “Cô đang làm gì thế?”

“Làm gì à? Ồ, một cái bánh nướng. Cô đang làm vài cái bánh hồ đào cho ngày mai.”

“Cô quả là một đầu bếp tuyệt vời,” nó say sưa nói. “Cháu chưa bao giờ được nếm thức ăn nóng sốt như thế, ý cháu là giống như ở một nhà hàng vậy.”

“Chẳng có gì to tát cả,” tôi nói. Rốt cuộc thì tôi cũng có thể nhận ra qua khuôn mặt nó rằng đấy không chỉ là một lời bắt chuyện xã giao. Nó thực sự hứng thú khi thấy tôi xuống bếp để làm bánh lúc nửa đêm.

“Cháu muốn mai này có thể mở một nhà hàng,” nó nói. “Ý cháu là, cháu nghĩ sẽ rất thú vị khi biến một căn nhà cũ rộng lớn ở đâu đó thành một nhà hàng.”

Nó nhìn như bị thôi miên vào cái vỏ bánh, một miếng bột hình tròn trăng trắng lấp lóa trên tấm ván lăn bột.

“Cũng chẳng có gì ghê gớm cả,” tôi nói. “Cô có thể dạy cháu nấu ăn. Đó chỉ là một quy trình theo từng bước, không có gì là ảo diệu cả.”

“Cháu không biết,” nó nghi ngờ nói.

“Nhìn đây,” tôi nói. “Cô vẫn chưa cán cái vỏ thứ hai, sao cháu không thử nhỉ?”

“Được không ạ?”

“Lại đây. Cháu sẽ ngạc nhiên khi thấy nó dễ đến mức nào, một khi cháu học được vài ngón nghề.”

Nó đến đứng gần tôi ở quầy bếp. Tôi bỏ miếng vỏ bánh đã được cán vào một cái khay thiếc, rắc bột lại vào tấm ván, và đổ chỗ bột còn lại vào đó.

“Bài một,” tôi nói. “Cháu càng nhẹ nhàng với nó càng tốt. Nó không như bột bánh mì – với bột bánh mì thì cháu phải giã cho đến khi nào xong thì thôi. Còn vỏ bánh nướng thì ngược lại, nó đòi hỏi một sự khéo léo nhẹ nhàng hơn. Nào. Lăn từ phía cháu ra. Đừng có san phẳng nó.”

Nó cầm lấy thanh cán bột và ấn vào đống bột mềm mại.

“Hãy nhẹ nhàng với nó,” tôi nói. “Tốt. Đúng rồi.”

“Cháu chưa bao giờ làm thế này,” nó nói. “Mẹ cháu chưa bao giờ làm những thứ như bánh nướng.”

“Cháu sẽ là một học sinh giỏi,” tôi nói. “Cô có thể nhận thấy điều đó.”

“Cô có biết làm những cái diềm bánh xinh xắn không ạ?” Nó hỏi.

“Chắc chắn là biết chứ,” tôi nói.

Trong suốt năm kế tiếp, tôi đã dạy Bobby mọi điều tôi biết về nấu nướng. Chúng tôi có những buổi học dài trong bếp cùng nhau, chuyển từ bánh nướng sang bánh mì và từ bánh mì sang bánh xốp bơ. Khi tác phẩm của nó ra lò thành công, vàng ngậy và bốc hơi, nó lặng ngắm với sự ngạc nhiên tuyệt đối. Tôi chưa bao giờ thấy ai có phản ứng như thế với việc làm bánh. Dường như nó tin rằng từ những nguyên liệu thô tầm thường như bột, mỡ pha vào bánh và những gói men nhỏ, cuộc sống có thể được tạo ra.

Jonathan đôi khi cũng dự những buổi học làm bánh của chúng tôi, nhưng rõ ràng tâm trí nó lại để ở đâu đâu ấy. Nó không có đủ kiên nhẫn với việc đong đếm chính xác và việc làm tăng nhiệt độ một cách từ từ. Căn bản thì nó cũng chẳng mặn mà gì với đồ ăn thức uống. Ngay từ hồi bé nó đã thờ ơ với các món ăn.

Nó thường nấn ná một lúc trong bếp, rồi lên phòng và mở đĩa. Đôi khi nó mở Jimi Hendrix hay the Rolling Stones, đôi khi là một đĩa mới mà tôi chưa từng nghe.

Không đứa nào mời tôi lên nghe nhạc nữa. Thay vào đó, bây giờ Bobby thường chạy vào bếp và nói: “Cô nhìn này, cháu mới tìm thấy một công thức cho món, ờ, cá tẩm bột.” Hay: “Cô ơi, cô có biết làm bánh mì ngọt hình tròn không?”

Jonathan nộp đơn vào vài trường đại học và được trường Đại học New York và Đại học Oregon chấp nhận. Tất cả các trường mà nó nộp đơn đều cách xa Cleveland ít nhất là nghìn dặm.

Bobby không đăng ký trường nào cả - nó thậm chí còn không nhắc đến việc đó. Nó chỉ tiếp tục mang đến cho tôi những công thức nấu ăn và mua thêm những dụng cụ làm bếp phức tạp. Nó mua một cái máy chế biến thực phẩm hiệu Cuisimart, và một độ dao Đức mỏng và sắc đến nỗi chúng có thể tách lớp giấy dán tường nhà bếp ra mà không động đến lớp vữa bên dưới.

Vào tháng Sáu, Ned và tôi tham dự lễ tốt nghiệp của chúng cùng Burt Morrow, người chúng tôi đã không gặp hơn một năm qua. Burt không còn để kiểu râu dê như lần trước chúng tôi gặp nhau nữa, thay vào đó là kiểu tóc mai trải dài xuống hai bên má. Ông mặc áo khoác thể thao màu xanh lá và một cái áo len cổ lọ, với một cái huy chương vàng cỡ một đồng nửa đô đung đưa trên một cái dây đeo quanh cổ.

Chúng tôi ngồi phía cuối hội trường, một căn phòng rộng lớn màu cá hồi nhàn nhạt, ngay cả trong mùa này nó cũng có mùi xi măng âm ẩm và mùi của những bữa trưa đựng trong túi giấy màu nâu. Mỗi khi tên của một học sinh được xướng lên và chúng bước lên sân khấu để nhận bằng, bên người bạn học. Bạn có thể đánh giá mức độ được yêu mến của mỗi đứa dựa vào độ ồn ào mà tên chúng tạo ra. Cả Bobby lẫn Jonathan đều không tạo được tiếng ồn nào – có lẽ chúng là những kẻ vô danh với những người bạn cùng lớp, dù Burt đã bất ngờ huýt lên một tiếng còi lanh lảnh khi tên của Bobby được xướng lên.

Sau đó, Bobby và Jonathan lên xe buýt của trường cùng những đứa trẻ khác để đến tham dự một bữa tiệc thâu đêm tại một công viên giải trí. Ned và tôi đã mời Burt đi uống rượu, vì chúng tôi không thể để ông lái xe về nhà một mình.

“Đi uống à?” Ông nói. “Tuyệt, đi uống rượu với những người lớn sẽ rất tuyệt. Tôi nghĩ chúng ta nên làm thế, đúng.”

Mắt ông chẳng có chút ánh sáng nào. Có lẽ chúng được làm từ đá mã não.

Chúng tôi đến một quán yên tĩnh gần hồ, với những chiếc bàn bằng đồng và những cô phục vụ trẻ trung ăn mặc kiểu Mother Hubbard[36]. Tôi gọi một ly cocktail vodka, nó được đem đến cho tôi trên một cái khăn lót thêu ren thay vì khăn ăn thong thường.

[36] Kiểu váy dài, rộng lùng thùng, với tay áo dài và cổ cao.