Một hôm nọ, Phiêu Hương thức đến tận khuya, mượn ánh trăng đọc chiến báo. Hồ Nguyên Trừng mới hỏi:

“ Ngày mai là sinh thần của cháu, đang lo cho vua cha phải không? ”

“ Bác Trừng, nói thật cho cháu biết đi. Cha cháu có qua nổi cơn hung hiểm này hay không?? ” 

Hồ Nguyên Trừng không trả lời trực tiếp, mà nói:

“ Đều do ý trời. ”

Hồ Phiêu Hương nhìn thanh Lĩnh Nam, ký ức bất giác ùa về. Đấy là lúc cô còn bé, Hồ Hán Thương vẫn chưa thành hoàng đế của Đại Ngu. Trong mỗi buổi sinh thần, cha đều đặt cô lên vai cõng nhong nhong đi khắp cả hoàng thành. Đèn đỏ, lụa vàng, pháo bông bắn rung trời, hoa cỏ rải đầy hai bên lề phố. Song chẳng mấy khi cô bé để ý đến những thứ đó. 

Pháo bắn có to hơn cũng không giòn bằng tiếng cười của cha. Hoa có ngát thơm, cũng không át được mùi hương của bố. Chẳng biết bao nhiêu lần cô bé ngủ quên trên đôi vai hơi gầy, nhưng rắn rỏi vững chãi hơn bất cứ thành quách nào trên thế gian ấy.

Thế rồi, cô bé lớn lên. Địa vị của hai cha con cũng theo thời gian mà thay đổi. Những cái xoa đầu ôm ấp ít dần, thay vào đó là những bài học chán ngắt. Ánh nhìn của cha cô cũng khác dần đi. Ngọn lửa nơi đáy mắt nay đã lịm tắt, bị thay thế bằng đống tro tàn tuyệt vọng. Vật cuối cùng Phiêu Hương được Hồ Hán Thương tặng, tặng một cách đúng nghĩa như món quà của người cha dành cho cô con gái nhỏ của mình, chính là thanh Lĩnh Nam này đây. Thanh đao đồng đen nay nằm im lìm trong vỏ, lạnh lẽo đến lạ.

Cửa biển Kỳ La ( nay thuộc huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh)

Hồ Hán Thương dẫn theo chưa đến năm mươi tàn binh chạy được đến chỗ này. Những ngày qua bị quân Chiêm đuổi gắt, chủ tớ lạc nhau, thành ra đại quân đã tàn tạ nay càng thê thảm. Nhẩm ngày thì bây giờ đã là hai mươi tháng năm âm lịch.

Đứng trên ghềnh đá nhìn về phương bắc, sóng vỗ ì oạp dưới chân, gió biển thổi miên man tung bay tóc. Hồ Hán Thương thoáng chạnh lòng, nghĩ rằng chỉ mới hai tháng trước thôi, y còn là hoàng đế thét ra lửa cười ra sấm, nói có người nghe đe có người sợ. Thế mà nay bị người ta đánh cho chạy thất điên bát đảo như con chó mất nhà, dọc đường đám bộ hạ chỉ còn mấy tướng là thực tâm với mình. Y thở dài, cảm thán thời cuộc xoay vần sao mà li kì. Thoắt cái đã là bãi bể nương dâu, lên voi xuống chó.

Một tướng Đại Ngu là Nguỵ Thức lên, khuyên:

“ Thánh thượng chớ có đau lòng. Giờ trăm họ bị thủ đoạn của giặc che mắt, nên mới như vậy. Đợi dăm ba năm nữa giặc lộ vuốt nanh, người dân ắt sẽ biết khổ tâm của thánh thượng mà hồi tâm chuyển ý. Quan trọng bây giờ là phải giữ mình. Chúng thần nguyện cùng Đại Ngu còn nước còn tát, nhưng phải có gầu mới được. ”

Hồ Hán Thương lắc đầu, thở dài:

“ Âu cũng là tại ta ấu trĩ. Cứ tưởng dựa vào thành cao, hào sâu, hoả pháo, lâu thuyền thì có thể kê cao gối mà ngủ. Không ngờ… ”

Nói rồi y lại phóng mắt về phương xa, không thêm câu nào nữa. Có một nguyên nhân quan trọng nhất, y đã giấu mọi người, kể cả chính bản thân. Thực ra trong tiềm thức, Hồ Hán Thương quá tin vào cha và anh, thế nên mới lỏng lơi cảnh giác. 

Nguỵ Thức nhìn vua đã chán chường thế này, cũng bất giác thấy bất lực, đang muốn lựa lời khuyên can, thì bỗng nhiên từ phía sau có người cất tiếng.

“ Bây giờ ông mới biết thì có muộn quá không!? ”

Nguỵ Thức lập tức tuốt gươm, quát:

]

“ Phạm thượng! Kẻ nào vừa buông lời vô lễ mau bước ra đây! ”

Chợt có một người đứng phắt dậy, sải bước đến trước mặt Hồ Hán Thương và Nguỵ Thức.

Hồ Hán Thương nhìn vào hắn, cái kẻ y vẫn trọng dụng cho làm đội trưởng đội cận vệ của mình vì võ nghệ cao cường và tài lãnh đạo xuất chúng. Hắn giờ đang chỉ ngón tay vào mặt Hồ Hán Thương, cười đầy vẻ khinh bỉ:

“ Sao?? Nó nói thì mày không phản bác, tao đồng tình với nó thì mày lại nói tao phạm thượng?? Anh em ở đây toàn là người từng có quyền to tước lớn, kẻ kém nhất cũng dẫn đầu trăm người. Mọi người hãy nói một lời công đạo xem sao, Hồ Hán Thương nhà ngươi hãy tự hỏi lòng hai câu xem sao. 

Thánh thượng cao quý của chúng ta đã từng ghen tị với tả tướng quốc ư?? Thánh thượng anh minh của chúng ta chưa từng dùng mưu tính kế để đẩy mấy vạn người ủng hộ tướng quốc vào chỗ chết đúng không?? ”

Hồ Hán Thương thở dài, không hề phản bác. Nguỵ Thức thì quát:

“ Vua muốn tôi chết, tôi mà không chết là bất trung! Ai còn trung với Đại Ngu thì chém đầu hắn ngay đi. ”

Gã nọ ngửa đầu, cười sằng sặc. Tiếng cười của hắn hoà cùng tiếng sóng vỗ ì oạp ngoài khơi, vọng mãi lên tận hòn núi ở xa xa. Y quát to:

“ Đại Ngu đã vong, Hồ Hán Thương bây giờ chỉ là ông vua không ngai, ông hoàng mất nước! Anh em nào còn muốn sống thì cùng ta trói gô cổ thằng này lại, nộp cho Đại Minh! ”

Mấy chục người cùng tuốt khí giới, hô vang:

“ Bắt Hồ Hán Thương, chém Nguỵ Thức! ”

Nguỵ Thức thấy tình hình chẳng lành, bèn kéo áo Hồ Hán Thương. Y ỷ vào võ nghệ, đánh thủng vòng vây cướp một con đường máu tẩu thoát, vừa chạy vừa nói:

“ Nước đã sắp mất, bậc vương giả không nên chết vào tay kẻ khác! ”

Khai Đại đế ngẩng đầu dậy, lần đầu tiên sau nhiều ngày, ánh sáng đã trở lại trong đôi tròng mắt y. 

Hồ Hán Thương hất đầu nhìn Nguỵ Thức, nói:

“ Kiếm! ”

Nguỵ Thức thấy y lấy lại tinh thầm, trong dạ mừng như mở cờ, bèn trao ngay gươm cho Hồ Hán Thương.

Phập!!

Bất thình lình, lưỡi gươm bén nhọn cắm ngập vào bụng y, xuyên rách áo choàng ra tận sau lưng. Mũi kiếm còn vấy máu đỏ lòm.

Cả đám tàn binh giờ mới đuổi tới nơi, trông thấy tình cảnh này thì đều thất thần ngơ ngác.

Chỉ nghe tiếng Hồ Hán Thương quát lên lanh lảnh:

“ Nguỵ Thức, giờ trẫm muốn ngươi chết, ngươi mau chết đi để tỏ dạ trung thành với trẫm! ” 

Nói rồi chuyển mình, tung cước đạp mạnh một cái. Nguỵ Thức cứ thế rơi tòm xuống biển, sóng chồm lên nuốt chửng bóng hình người tướng quân.

Gã cận vệ trưởng thấy thế, bèn quát:

“ Mau! Mau bắt lấy nó! Đừng cho nó tự sát!! ”

Nào ngờ, chưa cần ai động một ngón vào long bào của mình, Khai Đại đế đã chủ động buông gươm giang rộng hai cánh tay. Long bào đã lấm lem bùn đất đón lấy cơn gió mặn mòi vị biển tung bay, bất giác khiến Hồ Hán Thương trở nên oai phong đến lạ.

Cả đám tàn binh đều dừng bước chân, ngơ ngác nhìn. Lúc này Hồ Hán Thương uy phong lẫm lẫm, có khác gì con rồng cụt đuôi đang giãy dụa muốn bay lên chín tầng trời, đánh tan mây mù, bẻ gãy sấm chớp để mà hiên ngang dưới ánh bình minh.

Y cười vang, nói:

“ Ta thân là vua, há không ban thưởng được các ngươi mấy hồi hay sao?? Mau bắt ta dâng cho quân Minh mà hưởng phú quý vinh hoa của các ngươi đi!! ”

Thấy hoàng đế buông tay chịu cho bắt, ai cũng nghĩ hay y điên rồi, không thì ắt có sự mờ ám gì đây. Nhất thời ai cũng cẩn thận không tiến thêm bước nào nữa.

Cuối cùng, vẫn là cận vệ trưởng của Hồ Hán Thương dấn bước, bắt trói chủ cũ của mình. Khai Đại đế cứ thản nhiên để hắn trói tay chân, nhét vải vào miệng mình. Long bào cũng bị lột mất, thay bằng y phục bình thường.

Đám tàn quân dẫn Hồ Hán Thương bắc tiến chừng hai ngày, thì đụng phải cánh tiên phong của Mạc Thuý. Tên trưởng cận vệ lập tức ngỏ ý muốn hàng, mong được dẫn đến gặp Trương Phụ. Y giấu nhẹm việc có Hồ Hán Thương đang ở trong tay mình, muốn dựa vào Khai Đại đế để lập công với Trương Phụ.

Mạc Thuý thấy các quan cũ cùng triều quy hàng, lấy rượu thịt khoản đãi rất hậu. Suốt mấy tháng trời đánh đánh giết giết, chạy lên miền ngược trốn xuống miền xuôi vất vả trăm bề, đến nay đám hàng quan vốn quen ăn sung mặc sướng mới được một bữa tươm tươm. Thành thử ai nấy đều đánh chén đến say khướt quên cả đường về.

Đêm hôm đó tên cận vệ trưởng cũng chìm vào mộng đẹp, mơ về nhà cao cửa rộng, uy quyền mĩ nhân của hắn.

Song, đời chẳng đẹp như mơ…

Chẳng là chiều ấy, một tướng trong đám tàn binh vì nổi lòng tham, bèn mật báo cho Mạc Thuý biết tin về Hán Thương. Tên hàng tướng nghe tin này mừng rơn, bèn bí mật cho người bỏ thuốc ngủ vào rượu đãi tiệc. Cả đoàn ngủ say như chết, y mới lẻn vào lều giết quách cả bọn, cướp Hồ Hán Thương.