Ngay khi Tôn Đình dẫn quân xuất phát từ Lâm Truy, Đạm Thai Mục đã đợi được Vân Thâm từ Kế đô đến, cả hai hợp quân để nam hạ, thẳng đến Lỗ Dương Thành.

Quân đội của Du Huyền Chi là bộ binh đến từ nhiều khu vực khác nhau nên tốc độ hành quân có chênh lệnh. Nhưng nhờ quân của Đạm Thai Mục vẫn bất động ở Yến Bắc nên ông có thời gian đến vùng Lỗ Dương trước, bố trí hoàn hảo công việc phòng ngự. Ông ra lệnh đào hào sâu, phối hợp với “Bình Di Vạn Toàn trận” do Kinh Vô Song bày ra khiến phòng thủ thêm kiên cố, ông ta càng thêm tự tin. Cường địch sắp đến tuy là Đạm Thai Mục tự mình dẫn binh nhưng không có Ninh Giác Phi giúp đỡ nên ông cũng chẳng sợ. Thắng lợi của Kinh Vô Song và Du Hổ ở Toại Thành càng củng cố thêm niềm tin cho Du Huyền Chi.

Đạm Thai Mục đem mấy chục vạn quân chia làm 2 đội trước sau, hành quân cách nhau một ngày đêm. Đội trước do hắn dẫn, gần 20 mươi vạn trọng giáp kỵ binh, đi thì cát bụi mù mịt, thanh thế khổng lồ, đồ sộ. Bách tính Nam Sở ven đường đều chạy hết, nhưng lúc này ngoái đầu nhìn lại cũng không nhịn được run sợ trước đoàn quân này.

Vân Thâm dẫn quân đi ở phía sau, y có dụng ý khác.

Sau khi Đạm Thai Mục đến Lỗ Dương, nhìn thấy hào sâu, rào cao, trận địa sẵn sàng đón địch thì cũng chỉ khinh miệt cười nhạt.

Vừa thấy tung tích địch, quân Nam Sở thổi kèn lệnh, tướng tá đều vào vị trí, chuẩn bị nghênh chiến.

Chỉ chốc lát sau, đoàn quân như một con rắn dài trườn tới. Tất cả quân binh Nam Sở thấy được vô số kỵ binh dàn theo hình cái chêm mà phi nước đại tiến đến, trên người kỵ binh mặc áo giáp, ngựa cũng mang giáp, nhưng có vẻ cực kỳ nhanh nhẹn dũng mãnh, tạo ra một hơi thở áp lực quỷ dị khiến binh lính Nam Sở đều run sợ đến không thể thở nổi.

Du Huyền Chi và Kinh Vô Song nhất tề giục ngựa trong thành chạy ra, từ bên này hào, nhìn ra xa xa.

Đạm Thai Mục dẫn quân đến gần hào rồi ghìm cương ngựa.

Chủ soái hai bên cách nhau ba trượng, đánh giá nhau, tất cả đều mặt trầm như nước, mắt như tóe lửa.

Đạm Thai Mục trầm giọng quát: “Du Huyền Chi, đương sơ ngươi dẫn quân công Bắc Kế ta, bị chúng ta đánh cho hoa rơi nước chảy, bại thảm không gì nói nổi, không còn chút thanh danh nào. Ngươi thân là chủ soái, lại vứt bỏ hơn mười vạn tướng sĩ, một mình mà chạy. Ninh tướng quân khoan hồng độ lượng, niệm ngươi tuổi già không giết, mở một mặt lưới, thả ngươi một con ngựa, cho ngươi trở về mà an hưởng tuổi già. Ngươi là một bại tướng, không niệm ân tha mạng mà còn vô liêm sỉ, lấy oán trả ơn, còn dám dẫn quân xuất hiện trước mặt ta sao? Có phải ngươi lại muốn đem ném mấy vạn binh sĩ này cho chúng ta mà chạy nữa không?”

Âm thanh Đạm Thai Mục hùng hồn vang xa khắp vùng đồng không mông quạnh, trong quân Nam Sở nhất thời xuất hiện tiếng lao nhao không nhỏ.

Du Huyền Chi giận dữ: “Câm miệng”. Ông còn chưa nói thêm gì đã bị tiếng cười to của Đạm Thai Mục cắt ngang.

“Du Huyền Chi, ta dự định trả lại cho ngươi 20 vạn hàng binh, nhưng ngươi nhất quyết không nhận, ngươi vì tư lợi của mình mà bỏ mặc họ cho người khác xâu xé.” Đạm Thai Mục trung khí mười phần, âm thanh càng thêm vang dội: “Thế nhưng, Bắc Kế ta từ bi, nhân nghĩa, không chỉ không ngược đãi, giết chóc bọn họ mà còn ưu đãi mười phần. Hôm nay, trẫm đã mang họ đến đây, trả lại cho ngươi, tha về quê cũ.”

Lời vừa dứt, quân Nam Sở lập tức sôi trào, không ít người kích động, hiển nhiên có thân nhân bạn cũ đã trở thành tù binh trong chiến sự lúc ấy.

Du Huyền Chi quát át lời: “Đạm Thai Mục, chớ có ở đây tà thuyết mê hoặc binh ta. Ngươi bịa đặt dối trá, chẳng qua là muốn loạn quân tâm ta, nhân cơ hội tấn công, muốn tàn sát quân dân Nam Sở ta, rắp tâm hiểm ác đáng sợ như vậy, Du mỗ tuyệt không để ngươi thực hiện.” Ông nói nghĩa chính từ nghiêm, leng keng hữu lực, quân tâm đang dao động cũng lập tức ổn định.

Đạm Thai Mục cười lạnh một tiếng, đảo mắt nhìn về phía Kinh Vô Song, thù hận đáp: “Ngươi giết huynh đệ ta, còn đem đầu y treo trên đầu thành, cừu này hận này, đương nhiên phải nhất nhất đòi lại.”

Kinh Vô Song nghiêm nghị không hãi sợ: “Đạm Thai tộc ngươi ở trên chiến trường biết bao nhiêu lần bại bởi tay phụ thân ta nên liền nghĩ tiện kế, diệt cả nhà Kinh gia ta. Ta mới giết một tên thì làm sao mà đủ? Hôn nay ta không những muốn giết ngươi mà còn muốn đem đầu ngươi treo lên tường thành, trả thù nước nợ nhà, an ủi vong linh tiên phụ trên trời nữa.”

“Kinh tướng quân, đại trượng phu đấu trí không đấu lực, chúng ta dùng kế thì sai chỗ nào?” Đạm Thai Mục trừng trừng nhìn anh, ngữ khí đã khôi phục được sự trầm ổn. “Ngươi là người thông minh, tự nhiên rõ ràng, nếu không phải chúng ta biết hoàng đế Nam Sở kiêng kỵ phụ thân ngươi công cao chấn chủ, hoài nghi lệnh tôn nuôi binh riêng tạo phản thì sao lại có mưu kế như vậy? Càng không thể thành công. Nếu như hoàng thượng quý quốc tin tưởng vững chắc lòng trung thành của Kinh gia thì cho dù chúng ta có ra kế sách gì, hắn cũng không hạ độc thủ như vậy. Kinh tướng quân, lệnh tôn hùng tài đại lược, võ nghệ cao cường, trên sa trường đánh bại quân ta, thực làm cho Bắc Kế bội phục. Hôm nay, ngươi mặc dù giết nhị đệ ta, nhưng trẫm biết ngươi với y là chính diện giao phong, y địch không lại ngươi mới táng mạng dưới tay ngươi. Trẫm mặc dù hận ngươi nhưng cũng kính ngươi chính đại quang minh. Kinh tướng quân, từ xưa có câu, chim khôn chọn cây lành mà đậu, tôi hiền tìm chúa thánh tôn thờ. Hôm nay ngươi vì triều đình ngu ngốc hủ bại mà chiến đấu quên mình, lại có ích gì? Ngươi để tay lên ngực mà tự hỏi, Kinh gia ngươi đời đời trung lương, đổi lấy cái gì? Hôm nay ngươi ra trận giết địch là vì quân? Hay vì dân? Ngươi hộ quốc, là hộ bách tính hay một nhà Thuần Vu thị?”

Lời Đạm Thai Mục như búa tạ ngàn tấn đánh vào lòng Kinh Vô Song, nhất là câu cuối cùng, làm cho anh ngay ngẩn mịt mờ. Quân tốt Nam Sở phía sau nghe thế, trong lòng cũng có điều suy nghĩ. Lúc này danh tiếng nhân nghĩa của quân đội Bắc Kế ở tiền tuyến phía tây đã lan truyền khắp thiên hạ, ai ai cũng biết, khiến tâm binh sĩ đã có phần lay động, không còn ý chí chiến đấu. Hơn nữa, hai mươi vạn hàng binh Nam Sở còn đang trong tay Bắc Kế, Du Huyền Chi lại vứt bỏ họ không để ý, khiến nhiều người sinh ra cảm giác thỏ chết cáo khóc, binh sĩ đã không còn phục tùng ông như xưa. Lúc này lại nghe những câu nói hùng hồn dõng dạc của Đạm Thai Mục đã nản lòng, đao thương cung tiễn trong tay cũng dần hạ xuống.

Lúc này Du Huyền Chi nhìn quanh tả hữu, biết quân tâm đã đại loạn, vội vã quát: “Câm miệng, Đạm Thai Mục, ngươi dẻo lưỡi như lươn, đổi trắng thay đen, đều là nói bậy. Từ xưa quân là trời, dân là đất, dân trung với quân, quân vì dân cống hiến, đó là thiên kinh địa nghĩa…”

Đạm Thai Mục không đợi ông nói xong, đã ngửa mặt lên trời cười to: “Du Huyền Chi, trẫm thương cảm ngươi tuổi đã cao, lại vẫn hồ đồ như vậy. Hôm nay, đại thế Nam Sở đã mất, ngươi ở chỗ này cho dù hy sinh trăm nghìn vạn tướng sĩ chẳng qua cũng chỉ là châu chấu đá xe, Lệnh lang Định Quốc tướng quân, Du Hổ, là kẻ thức thời, vì phúc vạn dân đã dứt khoát tìm tân quân khác, lệnh lang đã ra lệnh toàn quân buông khí giới đầu hàng ở Kiếm môn quan rồi, Thần Uy đại tướng quân của trẫm cũng dùng lễ mà đãi lệnh lang, không thương không nhục. Du Huyền Chi, miệng ngươi đầy chuyện thiên địa quân thần, nhưng hành động làm ra lại khiến người khác khinh thường. Khiến Nam Sở diệt vong, chính là vì những quan lại như ngươi, chớ có ở đây mà oán trời trách đất.”

Du Huyền Chi vừa nghe nói thế, nhớ tới những gì ông đã đối xử với Ninh Giác Phi, trong lòng chột dạ, không muốn đấu ba tấc lưỡi với Đạm Thai Mục nữa mà chỉ nói: “Đạm Thai Mục, muốn đánh liền đánh, đừng nhiều lời.”

Đạm Thai Mục hào khí tận trời, vung đao hướng thiên, cất cao giọng: “Được, vậy thì chiến.”

Mười vạn trọng giáp kỵ binh phía sau hắn cùng đáp: “Chiến.” Âm thanh hùng tráng như sấm sét ầm ầm nổ vang.

Binh lính Nam Sở mắt thấy quân uy lẫm lẫm, sát khí tận trời thì người người biến sắc.

Du Huyền Chi quát: “Chuẩn bị nghênh chiến.”

Kinh Vô Song không nói một lời, theo ông vào trận.

Tấu chương hai đường đại quân đông tây đã tiếp địch vừa đến Lâm Truy thì trong triều còn đang vì chuyện có dời đô hay không mà tranh luận không ngớt.

Các văn thần do Tôn Minh Sưởng dẫn đầu kiến nghị cấp tốc dời triều đình về phía nam, kỵ binh không thiện thủy chiến nên triều đình có thể tiếp tục chống lại quân địch.

Còn các võ tướng phe Chương Kỷ thì chỉ trích đám quan văn sợ chết, muốn tử thủ Lâm Truy, đợi binh mã Cần vương phía Nam cứu viện.

Lúc này lòng Thuần Vu Càn đang rối loạn, hai bên ai cũng đều có lý, y nhất thời không thể quyết định được.

Đúng lúc này, bỗng nhiên có tiếng chuông từ xa vang đến, âm thanh gấp gáp thanh thúy, như mưa rào vong khắp Lâm Truy.

Quân thần trên điện chưa từng nghe tiếng chuông như thế bao giờ, nhất thời im lặng, nghiêng tai lắng nghe, trên mặt tràn đầy nghi hoặc.

Chỉ có Chương Kỷ nghe xong thì thần sắc đại biến: “Chuông báo động, có đại địch đột kích.”

“Hả?” Chúng thần đều kinh hãi rồi lại hoài nghi: “Sao lại thế?”

Thuần Vu Càn đang muốn gọi người đi thăm dò thì có người ngoài điện chạy vội vào.

Một vị tá lĩnh cấm quân xông vào nghị điện, quỳ xuống cấp báo: “Bệ hạ, đại quân Bắc Kế đột nhiên xuất hiện, đã vây khốn Lâm Truy ta.”

“Cái gì?” Thuần Vu Càn ngẩn ra rồi vỗ mạnh ngự án. “Không phải vừa mới nhận được tấu chương, hai đại quân đông tây của ta đang tiếp chiến với địch sao? Đội quân này từ đâu mà đến?”

Tá lĩnh cúi đầu: “Quân kỳ của Bắc Kế là … Ưng kỳ?”

Thuần Vu Càn hoắc mắt đứng dậy: “Ưng?”

Chúng thần Nam Sở hạ mắt nhìn xuống đất, sắc mặt vàng như đất.

Dưới thành Lâm Truy, hơn mười vạn thiết kỵ đã bao vây lấy đại thành phồn hoa cẩm tú này.

Ninh Giác Phi giục ngựa đến cửa chính phía nam, chậm rãi bước ra trước trận, huyền y như thiết, bảo mã như hỏa, đại kỳ mang chữ “Ninh” phấp phới trong gió.