Ninh Giác Phi vẫn mê man, cả người lúc như trên lò lửa, lúc như đọa hầm băng, lúc lại như cưỡi mây đạp gió chao đảo không ngừng, có khi bị sóng lớn cuốn trôi, thần trí thỉnh thoảng lại thanh tỉnh, không còn mơ hồ như trước.

Trong quay cuồn, hắn thoáng nghe tiếng người trò chuyện.

Vị lão giả trầm ổn nói: “Người này mang tâm bệnh, tâm bệnh cần tâm dược.”

Một âm thanh trẻ trung êm tai vang lên: “Đại sư, ngài có thể nhìn ra đó là tâm bệnh gì không?”

Lão giả chậm rãi nói: “Tất cả quy về tình, thay đổi khó dài lâu. Sống đời nhiều phiền muộn, mệnh cũng chẳng thể sâu. Vì yêu mà phiền, vì yêu mà sợ, như ly được chữ yêu, không phiền cũng không sợ.”

Sau một lát, người thanh niên nọ khẽ hỏi: “Làm sao mới ly được chữ yêu?”

Lão giả bình thản đáp: “Vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng, nhi pháp tương uyển nhiên, tức vi ly vu ái giả.” (1)

Người thanh niên thở dài một tiếng: “Thế gian nhiều nghiệt duyên, cách nào để vượt qua?”

Lão giả đáp: “Mệnh do mình tạo, tướng do tâm sinh. Thế gian vạn vật đều là hóa tướng, tâm bất biến vạn vật bất biến, tâm bất động vạn vật bất động.”

Người thanh niên dường như còn chút phiền não nhưng vẫn ôn hòa đáp: “Việc này không dễ.”

Lão giả nhẹ giọng nói: “Yêu chia xa, oán lại gặp, buông tay quy tây, tất cả thành không, chẳng qua là ảo ảnh trước mắt mà thôi.”

Người thanh niên im lặng một lúc rồi lại hỏi: “Nếu như thế, phải làm như thế nào?”

Lão giả thản nhiên: “Tọa diệc thiền, hành diệc thiền, nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất bồ đề, xuân lai thảo tự thanh, thu chí diệp phiêu linh, vô cùng bàn nhược tâm tự tại, ngữ mặc động tịnh thể tự nhiên.” (2)

Người thanh niên không nói gì nữa.

Toàn bộ thế giới vắng vẻ vô biên.

Bên tai Ninh Giác Phi cũng không còn chút âm thanh nào nữa, hắn an bình mà ngủ.

Ngay khi hắn mở mắt tỉnh dậy thì liền thấy Vân Thâm đang u buồn ngồi cạnh giường.

Hắn cả kinh hỏi: “Sao vậy? Có phải tình hình chiến đấu có gì bất lợi?”

“Không, không phải.” Vân Thâm lắc đầu. “Hoàng thượng đã nam hạ, chạy tới Yến Bình Quan, theo kế hoạch của ngươi đem mấy vạn phong thư bắn vào thành, và ra ý chấp nhận trao đổi tù binh. Hiện tại, chỗ Toại thành đã đình chiến, nhưng chưa triệt vây. Trong triều Nam Sở ồn ào, tranh luận kịch liệt. Đảng Du Huyền Chi cho rằng, những tù binh này lâm trận đầu hàng, tang sư nhục quốc, vốn không xứng làm con dân Nam Sở, chết không hết tội, mà ở thiết kỵ Bắc Kế bị vây ở Toại thành đều là tinh binh, tuyệt đối không thể tha đi. Đảng Chương Kỷ lại kiên quyết phản đối lời của Du Huyền Chi, cho rằng hai mươi vạn binh sĩ đó đều có chiến lực mà không may bị bắt, đã rơi vào cảnh tù tội, nằm gai nếm mật. Mỗi người đều là con em Nam Sở, nếu như ngay cả địch nhân cũng tha cho họ mà quốc gia lại vứt bỏ như thế thì chỉ làm cho các tướng sĩ thất vọng đau khổ, không còn tín nhiệm triều đình nữa. Cứ như vậy, ngày ngày tranh đấu không ngớt mà vẫn chưa ra được kết quả. Nhưng có Đại Đàn Sâm ở Lâm Truy trợ giúp, liên lạc các đại thương hội, phát động vạn dân thỉnh nguyện, khẩn cầu thánh thượng từ bi, thương tình các binh sĩ vì quốc gia chiến đấu mà bị bắt, thương cho thân thuộc của bọn họ, chấp thuận điều kiện của Bắc Kế, cho bọn họ về lại cố quốc. Chúng ta cũng mới biết được, trong một nhà, phụ tử bốn người tất cả đều bị ép tòng quân, lần này cùng nhau bị bắt, đều còn sống cả. Người vợ dẫn mẹ già, con thơ quỳ trước cổng thành, ngày ngày khóc lóc, quỳ cho đến đầu gối ứa máu, bách tính cả thành đều ca thán, bách quan trong triều như đứng đống lửa, như ngồi đống than. Ta thấy Du Huyền Chi cũng chịu không được bao lâu nữa.”

Ninh Giác Phi nghe xong liền yên tâm: “Không ngờ Chương Kỷ lại quyết tâm giúp Bắc Kế như vậy, ta đúng là không nghĩ ra.”

“Ông ta giúp gì chúng ta chứ? Chẳng qua là giúp chính ông ta thôi.” Vân Thâm lạnh lùng cười: “Quan lớn Nam Sở đều thế cả, xem lợi ích cá nhân cao hơn tất cả. Lúc đó, Chương Kỷ muốn giúp Thuần Vu Triều đoạt vị, thế nên dự định mượn lực lượng chúng ta. Hiện tại, Thuần Vu Càn đã thân đăng đại bảo, bọn họ không còn cơ hội nữa nên mới nghĩ cách hạ bệ Du Huyền Chi, củng cố thế lực bản thân. Huống hồ, lúc còn ở Lâm Truy ta đã chính miệng hứa, nếu có ngày ông ta giúp Bắc Kế đạt được giang sơn Nam Sở thì liền phong vương cho ông. Chương Kỷ nguyên quán ở Tam Giang khẩu, đó vốn là nơi phồn hoa giàu có từ trước tới nay, ông ta mở miệng đòi chỗ đó làm đất phong, ta đã thay bệ hạ đồng ý. Nếu lấy được Nam Sở thì phong ông ta làm Nam vương, ban thưởng đan thư thiết khoán (3), thế tập đời đời, để con cháu muôn đời hưởng tôn vinh. Đây chính là phú quý cực đại, cho dù ông ta ở Nam Sở ép dạ cầu toàn cả đời cũng chưa chắc có được.” Nói đến đây, trên mặt Vân Thâm tràn đầy trào phúng.

Ninh Giác Phi nghe xong cũng không giật mình. Bán nước cầu vinh, từ cổ chí kim đời nào không có, cũng không có gì lạ. Cho dù là thời đại công nghệ cao cũng đâu có thiếu. Chẳng phải hắn cũng là do sĩ quan phụ tá của mình bán cho địch nhân sao? Mà thằng ranh đó có phải vì quyền thế giang sơn gì cho cam, chỉ là vì 10.000.000 USD với một tuyệt thế mỹ nữ mà thôi.

Hắn nằm thẳng trên giường nhìn nóc nhà mà suy tư, rồi hỏi: “Từ khi Đạm Thai tướng quân bị vây trong Toại thành đến nay đã bao nhiêu ngày rồi?”

Dường như ngày nào Vân Thâm cũng đều nhẩm đếm, lúc này nghe hỏi liền nói ngay: “Hai mươi bảy ngày rồi.”

Ninh Giác Phi lại suy tư. Nếu tạm thời ngừng chiến, hắn tự nhiên là lo lắng vấn đề lương thảo. May mà bây giờ là mùa xuân hoa nở, khắp nơi trên đất đều có rau dại cỏ xanh, cỏ cho ngựa không thiếu, còn về phần người, cứ giết ngựa mà ăn là được, đây cũng là cách làm của dân du mục từ trước đến giờ, chắc cũng không có khó khăn gì.

Bên này hắn đang trầm tư khổ tưởng thì bên kia Vân Thâm đưa tay vào chăn, nắm lấy tay hắn.

Ninh Giác Phi kinh hãi, theo bản năng muốn tránh nhưng sức không đủ, không thể giãy ra. Hắn nghi hoặc nhìn về phía Vân Thâm: “Làm sao vậy?”

Vành mắt Vân Thâm đỏ lên, cúi đầu khẽ đáp: “Ta lo cho ngươi.”

“À.” Lúc này Ninh Giác Phi mới chậm rãi bình tĩnh lại, cười với y: “Ta không sao, sẽ khỏi ngay thôi.”

Vân Thâm cúi đầu: “Ngươi hứa chứ?”

Ninh Giác Phi cười nói: “Phải, ta hứa.”

Một lát sau, Vân Thâm mới ngẩng đầu lên, nước mắt lăn dài trên má. Y nhìn Ninh Giác Phi, sóng nước dâng tràn trong mắt, trên mặt là vẻ đau thương khổ sở: “Giác Phi, ta còn tưởng rằng.. lần này… sẽ mất ngươi… ta rất sợ…”

Trong lòng Ninh Giác Phi buốt giá, rỗng không, nhưng mặt vẫn mỉm cười: “Không cần sợ, ta còn chưa giúp ngươi lấy được giang sơn Nam Sở mà.”

Vân Thâm nhịn không được lại rơi lệ. Y nghiêng người qua, nhẹ nhàng dựa vào người Ninh Giác Phi, nhỏ giọng nói: “Nếu như giang sơn là của ta, ta cũng không cần. Chỉ cần có thể cùng ngươi sống bên nhau là đã mãn nguyện rồi.”

Ninh Giác Phi nghe vào trong tai lại như tiếng gió thổi qua, tiêu tán trong nháy mắt, vô tri vô giác. Hắn mỉm cười nói: “Sao vậy được? Ngươi là quốc sư của thiên hạ, ta sao có thể ích kỷ, một mình kéo ngươi lại được chứ? Tương lai nam bắc thống nhất còn cần ngươi giúp hoàng thượng tạo phúc muôn dân. Nguyện vọng của ngươi là dân giàu nước mạnh, thủ thổ khai cương, ta vẫn đều ghi tạc trong lòng, nhất định phải giúp ngươi thực hiện.”

Lúc này Vân Thâm mới bình tĩnh lại, ngẩng đầu, nhìn hắn nở nụ cười. Một lát sau, y cúi đầu hôn lấy hắn.

Ninh Giác Phi nghiêng người tránh đi: “Ta còn đang bệnh, sợ lây cho ngươi.”

Vân Thâm biết hắn luôn luôn săn sóc cho mình, nên không nghi ngờ, chỉ khẽ hôn lên má hắn, an ủi: “Chỉ gầy đi chút thôi, ăn nhiều một chút là trở lại như xưa mà.”

Ninh Giác Phi cười gật đầu.

Từ ngày đó trở đi, bệnh tình Ninh Giác Phi dần dần tốt lên, không còn sốt nữa. Mọi người trong phủ cũng thở phào nhẹ nhõm, Giang Tòng Loan càng thêm vui mừng, mỗi ngày đều nở nụ cười, như cây trong gió xuân.

Đến khi Ninh Giác Phi có thể cưỡi ngựa giương đao được thì bên Nam Sở cũng có chuyện bất ngờ xảy ra.

Thuần Vu Càn không chịu nổi áp lực triều đình lẫn dân chúng, rồi lại không cam lòng thả hổ về rừng.

Du Huyền Chi càng không muốn bỏ dở nửa chừng. Lần trước ông dẫn binh suất chinh thì bị đánh cho chật vật như chó trở về, địa vị trong triều ngày càng sa sút, lung lay sắp đổ, mỗi lần môi thương lưỡi tiễn đều bị đè xuống hạ phong. Bởi thế nên ông nóng lòng tái chiến, lấy lại danh vọng, một lần nữa xác lập uy thế bản thân. Hai viên đại tướng ở Yến Bình Quan và Toại thành lập được đại công, Kinh Vô Song và Du Hổ, lại là dòng chính của ông. Nếu có thể giết sạch địch nhân ở Toại thành, chắc chắn sẽ khiến Bắc Kế tổn thất nặng nề, khiến thiên hạ rúng động, phái Du thị nhà ông cũng sẽ như mặt trời ban trưa trong triều, không còn sợ bọn tiểu nhân đả kích ngấm ngầm hay công khai nữa.

Vì vậy, quân thần hai người tâm ý tương thông, một người ra hiệu ngầm, một người hiểu ngầm. Thuần Vu Càn phái sứ thần đến Yến Bình Quan, dưới thành đàm phán vấn đề tù binh. Còn Du Huyền Chi âm thầm phái người phi ngựa tìm Du Hổ, Kinh Vô Song bí mật bày mưu đặt kế.

Lúc này Na Ủng lần thứ hai vượt qua núi Áo Đặc bí mật trở về quân Bắc Kế đang bị vây khốn ở đỉnh Thanh Phong, đem chỉ dụ Đạm Thai Mục và tín hàm Vân Thâm đưa vào tay Đạm Thai Đức Thấm.

Hai người đều ân cần căn dặn vị hãn tướng vũ dũng có thừa mà trí mưu bất túc này, dặn y đừng xung động, kiên trì chờ kết quả đàm phán giữa họ và Nam Sở, chỉ cần tử thủ, bảo tồn thực lực, không được xuất chiến.

Bình tĩnh qua mấy ngày, trong quân Nam Sở lần thứ hai có chuyện xảy ra. Du Hổ và Kinh Vô Song ngày ngày ở dưới chân núi khiêu chiến. Hai mươi vạn đại quân hàng đêm đánh trống reo hò, mắng chửi không dứt, từ “Một đám rùa đen rút đầu, ba ba chỉ biết chui đầu vào đất’ đến ‘Liệt tổ liệt tông Bắc Kế đều nhát như chuột, cái thứ chết cũng là thằng hèn’, đủ loại vũ nhục không dứt bên tai. Binh sĩ Bắc Kế càng nghe càng tức, muốn đi ứng chiến. Đạm Thai Đức Thấm miễn cưỡng nhẫn nại, mắt điếc tai ngơ, tận lực đàn áp.

Như vậy qua ba ngày, rốt cục có một thiên phu trưởng không thể nhịn được nữa, dẫn đội của mình lao xuống núi, rơi vào khổ chiến. Thấy hắn thế nguy, hai hảo hữu của hắn cũng dẫn đội mình lao xuống tiếp viện, kết quả cũng bị bao vây.

Đạm Thai Đức Thấm nghe thấy mà kinh hãi, đứng ở trên núi nhìn xuống, chỉ thấy binh sĩ mình đang đánh giết không ngừng, còn Du Hổ và Kinh Vô Song dù bận vẫn ung dung đứng ngoài trận, hài lòng cười xem náo nhiệt.

Cuối cùng y cũng nhịn không nổi cục tức này, vác đao lên ngựa, xông xuống núi.

Đại Đàn Minh phi ngựa chạy tới, một tay kéo cương ngượng Đạm Thai Đức Thấm, la lên: “Nguyên soái, hoàng thượng có chỉ, chỉ có thể tử thủ, không thể xuất chiến.”

“Đại Đàn tướng quân, ngươi buông tay.” Đạm Thai Đức Thấm căm tức nhìn hắn. “Ngươi có thể mắt mở trừng trừng nhìn bộ hạ của mình chết trận mà không đi cứu viện sao? Đại trượng phu sinh ra trên đời phải đỉnh thiên lập địa, há có thể làm rùa đen rút đầu, trốn ở một bên nhìn người một nhà bị giết? Chết có gì sợ? Chẳng lẽ còn muốn ta chịu tiểu tặc nam triều sỉ nhục?”

Đại Đàn Minh bị những lời dõng dạc của y làm cho á khẩu, nhất thời nhiệt huyết xông lên tận đầu, cũng vác đao lên ngựa: “Được, vậy chúng ta cùng đi, có gì thì chết là hết chuyện, còn có thể xảy ra chuyện gì nữa, hai mươi năm sau lại thành một hảo hán.”

Đạm Thai Đức Thấm nghe vậy, cười ha ha, ra lệnh trọng giáp kỵ binh theo mình tấn công, Nhạn Kỵ tiếp ứng, Ưng quân tùy cơ phối hợp tác chiến, rồi vác đao vọt lên trước.

Trận quyết chiến này là do Kinh Vô Song và Du Hổ cố ý gây ra nên vừa thấy Bắc Kế trúng kế liền chia quân vây khốn chặn đường.

Kinh Vô Song mục tiêu đã xác định, xông thẳng đến bên Đạm Thai Đức Thấm còn Du Hổ thì cản Đại Đàn Minh.

Kinh Vô Song mặc ngân y ngân giáp, kim thương trong tay giương cao tựa như du long, khí thế như hồng. Trong tay Đạm Thai Đức Thấm là một bảo đao, thế như mãnh hổ, đấu với anh.

Đây là trận chiến ác liệt nhất từ khi Bắc Kế nhập quan đến nay, binh sĩ chém giết đến thiên hôn địa ám, nhật nguyệt vô quang, thi thể như núi, máu chảy thành sông.

Kỵ binh Bắc Kế vốn nhanh nhẹn dũng mãnh, lúc này đều lấy một chọi mười, xông lên như hổ điên, cường hãn không sợ chết. Quân đội Nam Sở cũng là đoàn quân tinh nhuệ do hai đại tướng huấn luyện mà thành, có trận pháp, nhân số lại nhiều, ý chí chiến đấu cao vô cùng, không giống những đoàn quân khác sợ địch, khiếp chiến. Binh sĩ Nam Sở người trước ngã xuống, người sau tiến lên, vây giết địch không ngừng. Từ giữa trưa đánh giết đến tận chạng vạng, song phương tử thương thảm trọng.

Đại Đàn Minh tay cầm đại đao, đấu đến khó phân thắng bại với Du Hổ, bỗng nhiên Liên Châu nỏ bên cạnh bắn ra, y không kịp phòng bị, người bị trúng mấy mũi tên, rớt khỏi ngựa.

Du Hổ đang muốn tiến lên giơ tay chém xuống lấy tính mạng của y nhưng thân binh của Đại Đàn Minh như không muốn sống lao lên, vài người cùng liều chết với Du Hổ, còn những người khác thì mang Đại Đàn Minh lui ra khỏi trận.

Du Hổ không thể truy theo, chỉ đành định thần, đem đại đao múa nhẹ như tơ hồng, lả lướt mấy chiêu, binh sĩ Bắc Kế chết không ít.

Du Hổ nhìn chung quanh một chút rồi phóng ngựa chạy về phía Kinh Vô Song giúp sức.

Hai đấu một, khiến vị dũng tướng vị Bắc Kế này đỡ trái hở phải, khó chống đỡ. Chiến thêm một khắc nữa, Kinh Vô Song ra chiêu như điện, một thương quật Đạm Thai Đức Thấm rớt ngựa, Du Hổ vung đao, trảm một nhát, vị vương đệ Bắc Kế này liền đầu mình hai chỗ.

Kinh Vô Song dùng mũi thương cắm vào đầu Đạm Thai Đức Thấm, giơ lên thật cao, quát to: “Nguyên soái quân địch đã chết, chúng binh sĩ anh dũng giết địch, theo ta diệt sạch địch nhân.”

Binh lính Nam Sở cao giọng hoan hô, tinh thần đại chấn, từng làn người như sóng, từng cơn từng cơn vây lấy kỵ binh Bắc Kế.

Binh Bắc Kế vừa thấy chủ soái bị giết, bi phẫn không ngớt, trong lòng không còn ý muốn sống nữa mà chỉ còn liều mạng trả thù.

Đại Đàn Minh mặc dù bị thương nặng nhưng tâm trí vẫn thanh minh, âm thanh yếu ớt ra lệnh: “Toàn quân lui lại.”

Lính liên lạc lập tức thổi lên kèn lệnh.

Trong quân Bắc Kế, Ưng quân nhân số chỉ còn hơn ngàn người nhưng cực kỳ dũng mãnh. Chiến lực bọn họ rất mạnh, luôn luôn kết thành đội hình chiến đấu, hô ứng cho nhau, khiến quân Nam Sở vô pháp tách ra mà diệt.

Nghe được tiếng kèn lui quân, bọn họ lập tức tung hoành ngang dọc trong trận quân Nam Sở, ra sức chém giết, cứu ra kỵ binh Bắc Kế đang bị vây khốn rải rác trong trận. Dần dần, đội ngũ đó tựa như quả cầu tuyết, càng lúc càng lớn, lực lượng cũng càng ngày càng mạnh.

Kinh Vô Song thấy không thể giết được bèn ra lệnh kết trận chặn lại, không để họ thoát.

Thống lĩnh đội Ưng quân này xuất thân từ bộ tộc họ Vân, tên là Vân Đinh. Hắn theo Ninh Giác Phi tập luyện, mưa dầm thấm đất, đã học được vài phần chiến lược, nên xem xét thời thế, biết bây giờ không thể mạo hiểm, bèn dẫn đội phản thân, xông vào tâm trận. Kinh qua một trận chém giết đẫm máu, bọn họ rốt cục cũng thoát khỏi trận, lên được đỉnh Thanh Phong hiểm trở.

Cùng lúc đó, Na Ủng lần thứ hai thừa loạn thoát ra, trèo đèo lội suối về Yến Bình Quan báo tin.

Hết chương 64

(1) Ngã tướng, nhơn tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng là bốn tướngtrong tâm, phân biệt thành:

Ngã tướng: bản thân

Nhơn tướng: người

Chúng sinh tướng: người khác

Thọ giả tướng: mạng sống trên đời

Vô ngã tướng, vô nhơn tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng: không vướng tâm cho mình, không vướng tâm cho người, không vướng tâm cho nhân loại thế gian, không vướng tâm cho mạng sống trên đời.

Nguồn: Nhiều nguồn

(2)

(*) Tọa diệc thiền, hành diệc thiền: Ngồi cũng thiền, đi cũng thiền (Trích Phật Tâm Ca _ Tuệ Trung Thượng Sĩ)

(**) Nhất hoa nhất thế giới, nhất diệp nhất bồ đề: mỗi cành hoa là một thế giới, mỗi chiếc lá là một cõi Bồ Đề = Lúc một cánh hoa nở cũng là lúc vũ trụ bắt đầu chuyển động; Chiếc lá mọc rồi cũng sẽ có lúc rơi rụng.

(***) Xuân lai thảo tự thanh, thu chí diệp phiêu linh: Xuân tới cỏ sẽ tự xanh, thu tới lá sẽ tự rụng.

(****) Vô cùng bàn nhược tâm tự tại, ngữ mặc động tịnh thể tự nhiên: Tâm chỉ cần không vướng bận, nói dù cử động cũng thấy an nhiên (Trích Vĩnh Gia Chứng đạo ca _ Sa Môn Huyền Giác)
  • Ngắn gọn: 8 câu này được trích từ 4 phân đoạn khác nhau trong các trích đoạn Kinh Phật. Nghĩa chung là chỉ cần tâm thanh tịnh, xem vạn vật như điều hiển nhiên, có tới cũng sẽ có đi, tâm không vướng bận thì dù nói dù làm gì cũng sẽ an nhiên.
Nguồn: Nhiều nguồn

(3) Đan thư là văn thư viết bằng son, thiết khoán là khoán ước chế bằng sắt, dùng để ban cho bề tôi có công mà truyền cho con cháu được miễn tội.