Dương Nguyên Khánh thực ra không đi đâu xa. Giống như lên cao là vì muốn nhìn xa hơn, Dương Tướng quân rời khỏi chiến trường, cũng là vì muốn nhìn rõ ràng hơn chiến cuộc của toàn bộ Đại Châu.
Lúc này, hắn và kỵ binh U Châu đứng cách chiến trường khoảng hai mươi dặm, đã không còn là năm ngàn kỵ binh, cộng thêm một ngàn quân Dương Lượng đầu hàng và năm trăm kỵ binh mà Hầu Mạc Trần dẫn đến, lại trừ đi hơn bốn trăm người bị thương hôm trước, hắn bây giờ có tổng cộng sáu ngàn kỵ binh tinh nhuệ, là một lực lượng đủ để đối đầu với quân Đại Châu.
Thám báo đã báo với Dương Nguyên Khánh các loại tình huống, bao gồm cả quân chủng Dương Lượng, nhân số binh lực và tình hình trang bị. Hắn cần phân tích hết tất cả những tình báo này, từ đó tìm được lỗ hổng của quân Kiều Chung Quỳ.
Sáu ngàn kỵ binh ở trên một mảnh đất rộng cạnh rừng tùng, binh lính đều trang thủ thời gian nghỉ ngơi. Trên một tảng đá bằng phẳng có một nhóm mười mấy quan quân ngồi quanh, bọn họ đang nghe Dương Nguyên Khánh phân tích chiến thuật.
Trên một bàn đá lớn, Dương Nguyên Khánh dùng cành cây làm doanh trại quân đội, dùng đá làm quân binh, lại dùng một số hòn đá bôi đen làm kỵ binh.
- Từ những người tù binh, ta được biết tình hình chính xác, quân địch khoảng từ ba mươi lăm đến ba mươi bảy ngàn quân, trong đó có ba mươi lăm ngàn bộ binh, hai đến ba ngàn kỵ binh. Sau đó từ bố trí quân xuất trận của Kiều Chung Quỳ, chúng ta có thể đẩy lùi được một bộ phận quân ở trong đại doanh. Bọn chúng chỉ để lại trong đại doanh tám ngàn quân, tám ngàn quân này có lẽ dùng để đối phó với chúng ta, đồng thời cũng dùng để phòng ngự trong đại doanh.
Dương Nguyên Khánh lấy mấy viên đá bình thường đặt vào trong đại doanh, lại tiếp tục nói:
- Tám ngàn quân này có ba ngàn bộ binh trường mâu và năm ngàn người sử dụng cung tên, trong đại doanh cũng chỉ có hai ba chục con ngựa, cũng không có chiến mã.
Nói đến đây, Dương Nguyên Khánh cười với quan quân:
- Mọi người có cách nào hay không?
Mọi người cùng suy nghĩ, Hầu Mạc Trần nhướn mày nói:
- Ý của Tướng quân, chẳng lẽ là muốn dương đông kích tây?
Từ khi Dương Nguyên Khánh dùng thủ đoạn nhánh chóng giết chết Hạ Lan Nghị và Triệu Thập Trụ, Hầu Mạc Trần rất bội phục tích cách quyết đoán và thủ đoạn nhanh gọn của Dương Nguyên Khánh. Quan trọng hơn nữa là sự tín nhiệm của Dương Nguyên Khánh đối với y, khiến y hoàn toàn kiềm chế sự cao ngạo của người có chức vị cao, trong lúc nói chuyện, giọng điệu cũng kính cẩn hơn.
Dương Nguyên Khánh thấy Hầu Mạc Trần quả nhiên có chút mưu lược, không ngờ lại hợp với suy nghĩ của hắn, liền cười nói:
- Tướng quân Hầu Mạc Trần tiếp tục nói đi.
Hầu Mạc Trần cũng nhặt lên hai hòn đá bỏ vào quân doanh, cười nói với mọi người:
- Dương Tướng quân vừa rồi nói… Trong đại doanh không có kỵ binh, điều này chứng tỏ quân binh của quân địch chỉ có thể phòng thủ trong đại doanh, vậy chúng ta chỉ cần cử một ngàn quân đi, đóng giả thành sáu ngàn quân chủ lực, hấp dẫn sự chú ý của chúng ở đại doanh.
Y lại đặt một viên đá lớn ở bên cạnh quân Kiều Chung Quỳ,
- Quân chủ lực của chúng ta thì phối hợp với quân chủ lực của Dương Nghĩa Thần, tấn công quân chủ lực của Kiều Chung Quỳ từ một bên, trận này quân địch chắc chắn thất bại.
- Vậy nhất định phải để quân chủ lực của địch rời xa đại doanh!
Một quan quân khác cũng nói lên suy nghĩ của mình… Ta một tiếng, ngươi một tiếng, kế hoạch dần được hoàn thiện. Dương Nguyên Khánh đã sớm phát hiện điểm yếu của quân Kiều Chung Quỳ, đó chính là kỵ binh không đủ, bởi vì Kiều Chung Quỳ đến Đại Châu là phá thành, nên chỉ dẫn theo năm ngàn kỵ binh.
Trong trận chiến ngày hôm trước với gã, năm ngàn kỵ binh đã tiêu hao hết một nửa, kỵ binh không đủ khiến cho Kiều Chung Quỳ trở nên lúng túng… Gã vừa phải bảo toàn đại doanh, lại phải để lại đủ số lượng quân để đối phó với hắn, vì vậy gã đành để lại tám ngàn quân trường mâu và cung tên ở đại doanh… Cứ như vậy, lỗ hổng của quân địch thể hiện ra rõ ràng. Giống như Hầu Mạc Trần nói, dùng một ít binh lính giả làm quân chủ lực, còn quân chủ lực của họ thì ra chiến trường chính, trận chiến này, Kiều Chung Quỳ nhất định thất bại.
Mọi người tản đi, Dương Nguyên Khánh giữ Dương Gia Thần lại, hắn còn có chuyện quan trọng muốn nói với y.
- Một ngàn kỵ binh tấn công đại doanh này do người thống lĩnh, phô trương thanh thế… Dụ dỗ chứ không tấn công, chỉ cần níu chân được quân trong đại doanh, coi như ngươi đã lập công lớn.
- Thuộc hạ hiểu!
Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát, rồi lại nói:
- Chờ cho trận chiến của Dương Lượng kết thúc, ngươi cứ ở lại U Châu làm tướng, đây cũng là ý của ông nội, để lại chín người anh em trong tổ Giáp (còn 9 người nữa ở tổ Ất – giải thích của BTV) cho ngươi… để cho mọi người cùng có tiền đồ!
Dương Gia Thần yên lặng gật đầu. Trước khi y rời Kinh thành, chủ nhân Dương Tố cũng đã nói với y, sau khi loạn Dương Lượng kết thúc, nhóm người bọn họ sẽ ở lại U Châu làm tướng. Mười tám kỵ binh Thiết Ảnh đã đi theo Dương Tố mười mấy năm rồi, chủ nhân cũng phải sắp xếp con đường tương lai cho họ.
Dương Nguyên Khánh vỗ vỗ bả vai của y, cười nói:
- Trước tiên không cần nghĩ nhiều như vậy, tập trung sức lực đánh một trận đã.
‘Đinh! Đinh! Đinh!’, tiết tấu tiếng trống trận bắt đầu nhanh hơn, đại chiến Đại Châu sắp bắt đầu, điều này liên quan đến thắng bại của trận chiến Dương Lượng. Nếu phía Bắc chiến bại, sẽ làm lệch hướng cuộc chiến ở phía nam Tịnh Châu của Dương Lượng. Trong tay Dương Lượng mặc dù có hơn hai trăm ngàn binh lực, nhưng quân tinh nhuệ chỉ có một trăm ngàn, mà chỉ với trận chiến Đại Châu, y đã phải bỏ ra năm mươi ngàn quân tinh nhuệ, bây giờ chỉ có ba mươi bảy ba mươi tám ngàn quân, trận quyết chiến cuối cùng cũng đã bắt đầu.
Hai quân đội đã triển khai trận thế, quân kỳ phấp phới, mũi giáo như rừng, ánh mắt Dương Nghĩa Thần chăm chú nhìn gần ba mươi ngàn quân địch ở cách đó hai dặm. Trong ánh mắt y lộ ra sự vui mừng, đối phương chỉ có ba mươi ngàn, kỵ binh chỉ có năm ngàn, đây chính là cơ hội mà Dương Nguyên Khánh cho y.
Dương Nghĩa Thần vung chiến đao lên, lớn tiếng hô:
- Bộ binh chuẩn bị đao giáp, tiến lên!
Năm hàng đầu tiên gồm bốn ngàn bộ binh trường mâu cầm đao giáp lên, bắt đầu đánh về phía quân địch, tiếp theo đó là hai ngàn quân cầm cung nỏ, tiếp theo đó lại là bốn ngàn quân bộ binh cầm trường mâu, bốn ngàn quân cầm cung tên, bốn ngàn kỵ binh phân thành hai cánh hộ vệ. Hai mươi tư ngàn quân binh xếp nhóm chỉnh tề, đằng đằng sát khí.
Trong thế tiến công long trời lở đất, quân Sóc Châu xuất kích trước, quân địch đối diện cũng gióng một hồi trống. Lúc này, trong lòng Kiều Chung Quỳ có chút chắc chắn, cho dù có thêm năm ngàn quân U Châu, tổng binh lực của đối phương cũng vẫn ít hơn y. Nhưng đối phương lại có chín ngàn kỵ binh, còn y chỉ có ba ngàn, số lượng quân kỵ binh rõ ràng vượt xa y. Tác chiến trên một cánh đồng rộng lớn, kỵ binh có một ưu thế rất lớn, so sánh thực lực, y nằm ở thế hạ phong, khá bất lợi.
Càng nguy hiểm hơn là, năm ngàn quân kỵ binh của Dương Nguyên Khánh không biết ở đâu? Kiều Chung Quỳ có thể khẳng định, Dương Nguyên Khánh nhất định sẽ ra quân trong thời điểm quan trọng nhất, còn phải dựa vào tám ngàn quân mà y để lại có trụ vững được với bọn họ không.
Kiều Chung Quỳ quay đầu nhìn về phía đại doanh, đại doanh của y nằm cách đó ba dặm, đây lại là một khoảng cách quá nửa vời. Y không khỏi thở dài trong lòng, y đã tận hết sức lực, thành bại là do ý trời.
- Trụ quốc, quân địch đã tiến công!
Một tên lính hô lớn, cắt đứt suy nghĩ của y.
Kiều Chung Quỳ chăm chú nhìn về phía xa, y cũng lạnh lùng hạ lệnh:
- Nỏ binh chuẩn bị nghênh chiến!
Tiếng trống lớn dần, cờ chiến bay phấp phới, năm ngàn nỏ binh dàn trận thành ba hàng, năm ngàn cung tên được xếp ngay ngắn nhắm thẳng về phía quân Sóc Châu.
Trong tác chiến của quân Trung Nguyên, nỏ phát huy năng lực nhiều hơn trong tác chiến của người Hồ, có một nguyên nhân rất lớn là vì quân đội Trung Nguyên không những có tên nỏ sắc bén, năng lực phòng hộ cũng rất mạnh, bọn họ không những thân mang áo giáp bằng sắt, mà tấm khiên chắn của họ còn có thể ngăn được cả tên. Nếu so sánh ra, người Hồ coi trọng để kỵ binh tiến quân, năng lực phòng ngự yếu kém, điều này khiến uy lực của cung nỏ được phát huy đến trình độ cao nhất.
Lúc quân Sóc Châu tiến lên được khoảng một trăm bước, tiếng trống phía quân địch dồn dập hơn, cờ bay phấp phới… Năm ngàn mũi tên cùng lúc bắn ra, nhất thời mưa mũi tên bao phủ trời đất, bắn về phía quân Sóc Châu. Bốn ngàn quân bộ binh với trường đao hô lên một tiếng, đồng thời giơ khiên chắn lên, mưa mũi tên dày đặc bắn vào đội quân, không ngừng vang lên những tiếng kêu thảm thiết. Mặc dù phòng ngự không chê vào đâu được, trong màn mưa mũi tên dày đặc cũng có đến gần trăm người bị bắn trúng, có người bỏ mình tại chỗ, có người bị tên bắn bị thương, lăn lộn trên mặt đất, không thể tiến quân.
Bốn ngàn quân bộ binh với trường đao cũng vẫn không dừng bước, vẫn chậm rãi giơ khiên tiến lên. Hai ngàn nỏ binh phía sau cũng đồng thời đánh trả, hai màn mưa mũi tên xen lẫn nhau trong không trung, che khuất bầu trời.
- Nỏ binh lui xuống, quân trường đao xuất kích!
Kiều Chung Quỳ thấy nỏ binh không thể sát thương của quân địch hàng loạt, y thay đổi chiến thuật, để quân trường đao xuất kích. Mấy ngàn nỏ binh lui xuống, tám ngàn quân trường đao bước ra nghênh chiến, trường đao dày đặc như rừng, mũi đao sắc nhọn lóe sáng.
Dương Nghĩa Thần thấy mưa tên trên bầu trời biến mất, lại dứt khoát hạ lệnh,
- Lệnh cho quân trường đao tấn công, hai cánh kỵ binh cùng xông lên!
Tiếng trống trận lại dồn dập vang lên, đây là mệnh lệnh đẩy nhanh tốc độ chiến đấu, bốn ngàn quân bộ binh Sóc Châu bước nhanh hơn, hướng về phía trận địa. Hai cánh kỵ binh cũng triển khai thành hai đường cong, đánh thẳng vào một bên quân địch. Hai đội quân trong tiếng trống dồn dập, mũi đao sắc nhọn chạm vào nhau, những tia máu văng khắp nơi, chiến mã hí vang, đao bổ như điện xẹt, tiếng kêu thảm thiết, đầu lâu vỡ nát, tứ chi tan tác, mấy chục ngàn đại quân hỗn chiến trong một đám bụi um tùm.
Kiều Chung Quỳ là phụng mệnh mà tấn công Đại Châu, y mang theo một lượng lớn lương thực và quân dụng, việc cấp dưỡng hậu cần có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với bốn mươi ngàn quân. Một khi kho lương thực của y bị quân địch đốt hết, đồng thời đường lùi bị cắt đứt, vậy quân đội của y trong ba ngày cũng sẽ bị sụp đổ hoàn toàn. Vì vậy, việc giữ vững đại doanh và lương thực, quân dụng cũng là nhiệm vụ quan trọng của y.
Đại doanh cách chiến trường cũng chỉ ba dặm, đây chính là điểm giới hạn của Kiều Chung Quỳ. Cho dù Dương Nghĩa Thần có dẫn dụ y về hướng Bắc thế nào, y cũng không chịu rời khỏi khoảng cách này, điều này có thể bảo đảm quân đội bất kỳ lúc nào cũng có thể quay về đại doanh, cũng có thể khiến những quân lính coi giữ đại doanh bất kỳ lúc nào cũng có thể xông ra chiến trường.
Kiều Chung Quỳ giữ lại tám ngàn quân trong đại doanh, năm ngàn nỏ binh và ba ngàn bộ binh trường đao, vào lúc đại chiến bùng nổ được hai canh giờ, kỵ binh U Châu rốt cuộc cũng xuất hiện ở khoảng cách cách đại doanh ba dặm về phía Nam, bụi đất bay lên, cờ bay phần phật, khiến quân binh trong đại doanh rất lo lắng, năm ngàn quân nỏ binh đã sẵn sàng nghênh đón quân địch.
Trận chiến trên chiến trường đã bước vào hồi gay cấn, hai bên đã bắt đầu xuất toàn bộ binh lực, hai mươi bốn ngàn quân Sóc Châu thêm ba mươi ngàn quân tinh nhuệ Tinh Châu, mặc dù số lượng quân Tịnh Châu chiếm ưu thế hơn, nhưng quân Sóc Châu có nhiều hơn hai ngàn kỵ binh, đồng thời lại có nỏ binh, khiến thế lực hai bên cân bằng.
Trên chiến trường bụi đất mù trời, bụi vàng che lấp không trung, che luôn cả ánh mặt trời, khiến trời dần biến sắc, tiếng kêu la chết chóc vang khắp nơi, máu chảy thành sông, sự thảm thiết của chiến tranh khiến mỗi một binh lính đều như đang giãy dụa trước địa ngục. Thời gian trôi qua, thể lực của binh lính cũng trở thành điều quan trọng quyết định thắng bại trận chiến, mà thực lực thì phụ thuộc vào sự huấn luyện lúc bình thường.
Mặc dù binh lính ở hai bên đều là những binh lính tinh nhuệ, nhưng hai canh giờ ác chiến vẫn khiến cho các binh lính rơi vào tình trạng kiệt sức, đều bị bao quanh bởi một loại cảm giác thế lực sụp đổ, cuộc chiến đã tới thời khắc quan trọng.
Kiều Chung Quỳ lòng nóng như lửa đốt, nếu lúc này kỵ binh quân U Châu xuất binh, vậy y cũng không còn cách nào khác nữa. Y cuối cùng sẽ phải quyết định bỏ đại doanh, điều luôn tám ngàn quân sinh lực tham gia cuộc chiến.
Ngay lúc y đang muốn hạ lệnh, phương xa bỗng truyền đến tiếng kèn, ô…..
Tiếng kèn giống như cơn gió lốc trên thảo nguyên, tiếng sấm trên núi, bụi vàng bay mù mịt, tiếng vó ngựa vang trời. Năm ngàn kỵ binh U Châu nhất thời đánh tới trong thời điểm quan trọng nhất, khí thế ngất trời xuất hiện bên cạnh quân Tịnh Châu.
Chủ tướng Dương Nguyên Khánh dẫn đầu, trong tay cầm khiên và Phá Thiên Sóc, lông mao màu đỏ của chiến mã bay phấp phới. Sau lưng hắn, năm ngàn kỵ binh gào thét tiến lên trước, giống như sóng biển vỗ mạnh, nhiệt huyết chiến đấu đang sôi sục trong lòng mỗi người, giống như ngọn lửa thiêu đốt bọn họ, giơ cao ngọn giáo trong tay đánh về phía quân Tịnh Châu.
Trong lòng binh lính quân Tịnh Châu bắt đầu dao động, đại tướng Vương Bạt thấy tình thế nguy cấp, y liền hét lớn một tiếng,
- Theo ta nghênh chiến!
Y dẫn đầu một ngàn kỵ binh xông lên nghênh chiến, Vương Bạt múa may đại thương trong tay, đâm thẳng về phía Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh vứt tấm khiên xuống, ánh mắt lạnh lùng, chiến mã lao nhanh, Phá Thiên Sóc bộc phát sức nặng ngàn cân, mũi sóc nhanh như thiểm điện, nhanh hơn một bước so với thiết thương của Vương Bát. Một mũi sóc xuyên qua áo giáp của Vương Bạt, hai con ngựa đổi chỗ, chiến mã của Vương Bạt xoay vòng, thân thể khôi ngô của y nằm trước mũi sóc sắc nhọn của Dương Nguyên Khánh.
Kỵ binh U Châu đánh tới khiến quân Sóc Châu đón đầu, cũng khiến quân Tịnh Châu hoảng sợ vô cùng. Kiều Chung Quỳ biết sẽ có thời khắc này, mà khi nó thật sự đến, Kiều Chung Quỳ lại cảm thấy thực sự tuyệt vọng, tựa như y rơi vào một đầm lầy, và đây chính là thời khắc nước bùn ngập quá đầu y.
- Quân trong đại doanh xuất kích!
Y hô lớn:
- Bỏ đại doanh, toàn quân xuất kích!
Ngọn cờ màu sẫm phấp phới, lệnh cho quân coi giữ đại doanh xuất kích, tám ngàn quân từ trong đại doanh chạy ra, nhưng lại bị một ngàn kỵ binh U Châu chặn lại. Chặn binh lính đại doanh lên tiếp việc, cũng là cắt đứt hy vọng cuối cùng của quân Tịnh Châu.
Năm ngàn kỵ binh U Châu như sóng thần quét tới, đánh vào quân Tịnh Châu từ một bên, hai bên tả hữu của quân Tịnh Châu tháo chạy, ngay sóng đó ngọn sóng tháo chạy lan khắp toàn quân, toàn tuyến quân Tịnh Châu tan tác. Dương Nghĩa Thần nhân cơ hội thúc quân tiến công, quân Tịnh Châu đại bại, quân lính giẫm lên nhau, tranh nhau chạy trối chết, chiến trận tơi tả, quân lính chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát, hoặc quỳ xuống đất khấu đầu xin tha thứ.
Trận chiến này, liên quân Sóc U giết mười ngàn quân địch, bắt giữ hơn hai mươi ngàn người, cướp được ô số lương thực và quân dụng, chủ tướng Kiều Chung Quỳ chết trong đám loạn quân.
Đại Châu thảm bại không chỉ khiến năm ngàn quân tinh nhuệ của Dương Lượng hoàn toàn tuân phục, đồng thời còn khiến thế cục toàn bộ Tịnh Châu bắt đầu phát triển theo hướng bất lợi cho Dương Lượng. Mười chín châu ủng hộ Dương Lượng sau cuộc đại chiến Đại Châu, có mười một châu đã quay ngược lại về với triều đình, không ủng hộ Dương Lượng nữa. Còn ba mươi ba châu vẫn luôn xem chừng tình hình thì đều ca thán, trách cứ Dương Lượng phản nghịch.
Nhận được sự cổ vũ từ đại thắng Đại Châu, Tổng quản hành quân Hà Nội là Sử Tường dẫn hai mươi ngàn quân, đánh bại ba mươi ngàn quân địch Ký Châu tại Tu Thủy, khiến kế hoạch vượt núi Thái Hành, tiến quân vào Hà Bắc của Dương Lượng tan biến.
Tin tức này loan khắp Kinh thành, cả triều cùng ăn mừng. Dương Quảng hạ chỉ trọng thưởng đội quân trong trận chiến Đại Châu năm mươi ngàn khoanh lụa, năm mươi ngàn lượng bạc, đồng thời phong Đại tướng cho Dương Đại Nghĩa, thứ sử Tương Châu, thưởng hai ngàn khoanh lụa, kỹ nữ mười người; Phong cho Lý Cảnh làm Trụ quốc, Hữu Võ vệ Đại tướng quân, ban thưởng ba ngàn khoanh lụa, một bộ nhạc nữ.
Phong Thiên tướng Dương Nguyên Khánh làm Thành chủ của hai thành Đại Lợi và Cửu Nguyên, thăng chức Thượng trấn Tướng quân, ban thưởng chức Nghi Đồng tam ti, thành Tử tước huyện Phi Hồ, thưởng mười ngàn khoanh lụa, năm ngàn lượng bạc trắng.
Những tướng có lập công còn lại đều có thưởng, Dương Nguyên Khánh lập tức phân chia phần thưởng của hắn cho những quan binh dưới quyền, bản thân hắn không giữ lại vật gì, nhất thời năm ngàn kỵ binh U Châu hoan hô như sấm dậy, trong lòng mỗi người đều thấy cảm kích!
Quyển 3: Nhất Nhập Kinh Thành Thâm Tựa Hải