Dư Thọ Nhân cười ha hả, nói với giáo úy bên cạnh:
-Lấy tiền đi, tối chia cho các anh em, mọi người là đồng hương cũng không nên làm khó người nhà quá.
Giáo úy mừng rỡ, liền lệnh mấy tên lính mang hòm tiền lớn đi, trong lòng dự định để Dư tướng quân phần lớn nhất.
Lúc này năm con thuyền đi chầm chậm qua, trên thuyền ngồi đầy trẻ con, từ hai, ba tuổi tới mười một mười hai tuổi, cả nam cả nữ, đều là con cháu Tiêu gia, có khoảng hơn năm, sáu mươi người, do Tiêu Mạo quản gia trong phủ dẫn đầu, còn đi theo năm, sáu người phụ nữ chăm trẻ.
Dư Thọ Nhân âm thầm gật đầu, Tiêu gia thật rất có mắt nhìn, lại còn nghĩ đến việc đưa con cháu đi. Bất kể chiến tranh Giang Lăng đánh thảm như thế nào, chỉ cần con cháu bình an, vậy là Tiêu gia còn có hi vọng chấn hưng.
Gã ta vung tay lên.
-Mở cửa thành!
Chắn sắt thủy thành từ từ kéo lên, năm thuyền chạy nhanh ra khỏi thành, rời thành Giang Lăng đi nhanh về hướng mặt nước mênh mông của Trường Giang.
Tiêu Ngạn Khâm nhìn theo năm chiếc thuyền ra khỏi thành, lão ta vẫy vẫy tay tạm biệt con cháu của Tiêu gia…
Dương Nguyên Khánh trù tính sắp xếp chiến cục một đêm, tới canh ba mới đi ngủ, nhưng ngủ chưa bao lâu, khoảng canh năm, một tên thân binh ở ngoài trướng gọi hắn dậy.
-Điện hạ! điện hạ!
Dương Nguyên Khánh lập tức tỉnh dậy, hắn thấy ngoài trướng vẫn một màu đen, chắc là có việc gì gấp, liền hỏi:
-Có chuyện gì?
-Thám báo phát hiện năm thuyền cập bờ nam, là thuyền của Tiêu gia, nói gia chủ Tiêu gia có thư muốn đưa điện hạ, còn có một nhóm đông trẻ con.
Dương Nguyên Khánh ngẩn ra,
- Trẻ con?
Hắn lập tức nghĩ ra cười cười, bước nhanh ra khỏi đại trướng.
Lều lớn quân Tùy đóng quân sát ngay bờ sông, hơn sáu vạn lều lớn có mười mấy dặm, quy mô lớn những nóc trại không thấy giới hạn. Quân Tùy cũng chưa tiến hành đầy đủ phòng ngự đóng quân, cũng không có mâu thương tập trung, chỉ là phái hơn nghìn lính tuần tra trinh sát tuần tra xung quanh.
Trên cơ bản có thể khẳng định sẽ không có quân Đường đến tập kích trước. Quân Đường đã không thể qua Trường Giang, hơn nữa dù quân Đường từ phía đông đánh đến, huyện Công An cũng sẽ châm lửa báo tin.
Dương Nguyên Khánh cùng tên lính bước nhanh tới trước mấy ngôi lều lớn, một người đàn ông hơn ba mươi tuổi ở ngoài lều lớn lo lắng đi qua đi lại:
-Sở Vương điện hạ tới rồi.
Ông ta liền quay đầu, chỉ nhìn thấy một nhóm binh lính vây quanh một tướng lĩnh đầu đội nón trụ vàng đi tới. Ông ta liền tiến lên quỳ xuông.
-Tiểu dân Tiêu Mạo khấu kiến sở Vương điện hạ!
Dương Nguyên Khánh nghe tên người này, liền biết ông với Tiêu Tiển là một thế hệ, liền cười gật đầu:
-Mời đứng lên!
Một gã thân binh nâng Tiêu Mạo đứng lên. Tiêu Mạo rút ra một phong thư đưa cho Dương Nguyên Khánh:
-Đây là là thư tay gia chủ gửi điện hạ, xin điện hạ xem qua.
Dương Nguyên Khánh mở thư xem một lượt, không ngờ là Tiêu gia nguyện giúp quân Tùy giành thành Giang Lăng, trong lòng hắn không khỏi mừng thầm, liền nói:
-Gia chủ các ngươi bây giờ thế nào? ta gặp bà ấy một lần năm Đại Nghiệp thứ tư, cũng đã hơn mười năm rồi không gặp.
-Đa tạ điện hạ quan tâm, gia chủ tất cả vẫn tốt. Bà rất biết ơn sự dìu dắt của điện hạ với Tiêu gia từ năm đó, để Tiêu Gia có trọng thần Đại Tùy như Tiêu Tấn!
-Ha ha! Đây là kết qủa tự mình nỗ lực.
Dương Nguyên Khánh quay đầu nhìn thấy trong lều lớn ngồi chật trẻ con, có khoảng bốn năm mươi người, có bốn năm người phụ nữ chăm sóc chúng, liền cười nói:
-Những người này đều là con cháu của Tiêu gia sao?
-Bẩm điện hạ, những người này đều là con cháu Tiêu gia, thật sự lo chiến sự thảm thiết, Sài Thiệu giết giết rất nhiều người rồi, họa cho dân thường, vì vậy trước tiên đưa con cháu dời đi, còn có một vài gia sản, khẩn cầu điện hạ bảo vệ.
Dương Nguyên Khánh biết đây thực ra là Tiêu gia lo sợ việc giúp đỡ quân Tùy bại lộ, bị tru diệt, vì vậy mới đưa con cháu đi, hắn gật đầu:
-Ta sẽ sắp xếp tốt cho bọn chúng, nhưng quân doanh không tiện, có thể tạm thời ở thuyền lớn hậu cần, ở đó cuộc sống tiện hơn, còn về gia sản, có thể cùng mang đến thuyền lớn.
Dương Nguyên Khánh lập tức lệnh binh lính đưa bọn họ đi thuyền lớn hậu cần, hắn lại nhìn màu trời phía đông, đã hơi hơi có chút sắc bình minh.
-Bây giờ là mấy giờ rồôi?
-Bẩm bệ hạ, vừa tới canh năm.
Binh lính vừa dứt lời, trong đại doanh quân Tùy lập tức vang lên tiếng trống trận ầm ầm, đây là trống trận xuất chinh. Những đội binh lính chạy ra từ trong lều lớn, các binh lính đều ngáp ngủ, có thể nhanh chóng tập kết. Hôm nay, quân Tùy chính thức vượt sông tấn công Giang Lăng.
Trời sáng rõ, mấy trăm thuyền chiến chở đầy binh lính Tùy bắt đầu nối nhau chạy về bờ bắc Trường Giang, chính thức mở màn tấn công thành Giang Lăng…
Kinh Tương, Kinh ở đây là chỉ Kinh Châu, Tương là Tương Dương. Trong đó, thành Giang Lăng là thành lớn thứ hai của Kinh Tương. Chu vi của thành gần bốn mươi dặm, tường thành cao lớn, dày rộng. Đầu thành có thể để cho hai con ngựa chạy song song. Tường thành dày ba trượng, cực kỳ rắn chắc.
Thành Giang Lăng cách Trường Giang chừng hai dặm. Ngoại trừ có một bến tàu nối thẳng tới quan đạo, còn có sông Kinh Thủy xuyên qua thành chảy vào sông Trường Giang.
Lúc này, việc phòng ngự trên thành Giang Lăng đang trở nên lộn xộn. Trong vòng một ngày, Sài Thiệu đã đưa ra rất nhiều mệnh lệnh khiến cho quan quân không biết phải nghe theo ai. Giống như một người vốn quen với sự nhàn nhã, bỗng nhiên một đống công việc ùn ùn kéo tới. Lúc đầu chỉ có thể mờ mịt không biết làm sao, sau đó là không đầu không đuôi bận rộn.
Các đại tướng đều đang điều binh khiển tướng, an bài phòng ngự ở khu vực của mình. Thỉnh thoảng có va chạm tranh đoạt đám dân phu, mấy chục viên đại tướng lại cãi nhau tới mặt đỏ tai hồng. Ai cũng hiểu được, có càng nhiều dân phu trong tay, vậy thì nước luộc kiếm được càng lớn.
Muốn đưa con cháu về nhà, có thể giao tiền đến mang về. Đây là con đường phát tài, trong lòng đám quan quân đều hiểu rõ.
Dù sao Sài Thiệu cũng là danh tướng có chức vị cao của triều Đường. Ở thời khắc mấu chốt, y liền đưa ra quyết đoán. Dựa vào binh lực lớn nhỏ trong tay các đại tướng mà phân chia dân phu. Như vậy đã nhanh chóng ổn định tranh cãi giữa cái đại tướng. Mọi người bắt đầu đi bố trí phòng ngự.
Binh lực của quân Đường Giang Lăng có khoảng bảy mươi nghìn người. Ngoại trừ mười ngàn quân bố trí ở trên bến tàu làm phòng tuyến thứ nhất ra, số binh lực còn lại đều có rút vào trong thành. Sáu mươi nghìn quân bố trí ở khắp nơi trên tường thành. Cùng với sự giúp đỡ của năm mươi nghìn dân phu, hiện tại thành Giang Lăng đã được bố trí chắc chắn như tường đồng vách sắt.
Trời vừa mới sáng, Sài Thiệu liền đi lên đầu thành. Tâm tình hiện tại của y bây giờ rất tốt. Ngày hôm qua đi một vòng thăm hỏi, không ngờ lại thu hoạch được hai trăm ngàn thạch lương thực. Cộng với hai trăm ngàn thạch lương thực tồn trữ ở trong kho, khiến số quân lương trong tay y đã lên tới bốn trăm ngàn thạch. Số lượng này đủ để y thủ vững thành một năm.
Ngay từ lúc bắt đầu, Sài Thiệu đã lập ra kế hoạch phòng ngự. Lợi dụng tường thành chắc chắn của Giang Lăng và binh lực, quân lương đầy đủ để đối kháng với quân Tùy, giúp Trường An tranh thủ thời gian. Chỉ cần có thể kiên trì được nửa năm, triều Đường có đủ thời gian phục hồi, chuẩn bị tranh đoạt thiên hạ với triều Tùy.
Trước khi rời khỏi Trường An, Thánh Thượng đã đưa ra chỉ thị như vậy cho y. Cho dù chiến dịch Kinh Tương không thể thủ thắng, cũng phải giằng co với quân Tùy. Thời gian càng dài càng tốt. Hơn nữa, Sài Thiệu cũng biết, quân Tùy nhất định không chịu nổi chiến tranh lâu dài.
Trên đầu thành, binh lính quân Đường đang khẩn trương chuẩn bị chiến tranh, chuẩn bị các loại binh khí. Dưới chân họ đã xếp đầy các bó tên. Nhiều đội dân phu hỗ trợ binh lính, mang các đồ vật tư phòng thủ lên thành.
Sài Thiệu hiền lành chào hỏi với bọn lính. Nhìn thấy tinh thần phấn chấn của binh lính, y rất là vui mừng. Sĩ khí là yếu tố quan trọng nhất. Nghe nói chính vì sĩ khí của quân đội Lý Mật bị giảm xuống, khiến quân Tùy chỉ cần một trận chiến đã bình định. Dương Nguyên Khánh là người rất giỏi về công tâm chiến.
Đúng lúc này, một người binh lính bỗng nhiên chỉ về hướng mặt sông ở xa xa hô lên:
- Mau nhìn! Là chiến thuyền của quân Tùy.
Ánh mắt của mọi người đều đồng loạt nhìn về hướng xa xa. Sài Thiệu cũng đã nhìn thấy. Chỉ thấy trên mặt sông xuất hiện mấy trăm chiến thuyền lớn, trùng trùng điệp điệp đi tới bờ Giang Bắc. Cánh buồm đông nghịt như muốn che khuất bầu trời.
Trong lòng Sài Thiệu trở nên khẩn trương. Y thực không ngờ, quân Tùy lại tới nhanh như vậy. Vừa mới buổi sáng hôm qua phá hủy thủy trại, hôm nay chủ lực đã đánh tới rồi.
- Gõ chuông cảnh báo, ra lệnh toàn quân chuẩn bị chiến đấu!
Sài Thiệu quát to ra lệnh.
- Đương! Đương! Đương!
Tiếng chuông điếc tai vang lên, vang vọng khắp tòa thành. Binh lính trên đầu thành bắt đầu giương cung lắp tên, khẩn trương nhìn về phía đoàn chiến thuyền.
Trong thành, người dân đã đóng kín hết cửa, mang theo vợ con đi tới trước bàn thờ của tổ tông dập đầu thắp hương. Cầu khẩn tổ tông phù hộ tính mạng của cả nhà.
Thuyền lớn của quân Tùy càng ngày càng tới gần. Lưu Phương Trí lên giọng đề nghị:
- Đại tướng quân, kỳ thực binh lực của quân Tùy nhiều lắm cũng chỉ là năm sáu mươi nghìn, mà trong đó có quân của Đỗ Phục Uy, quân của Tiêu Tiển đều không phải quân đội thiện chiến. Không bằng chúng ta mang binh ra khỏi thành, đấu với bọn hắn một trận.
Sài Thiệu lắc đầu nói:
- Quân Tùy không yếu như ngươi nghĩ. Bọn họ còn có năm nghìn kỵ binh của Vương Quân Khuếch. Chúng ta đánh không lại kỵ binh, chỉ biết là thua thiệt mà thôi.
Sài Thiệu lại hướng ánh mắt nhìn về phía mười nghìn quân đội coi giữ bến tàu. Hiện tại điều y lo lắng nhất là mười nghìn cung nỏ binh đóng ở chỗ này. Không biết bên đấy đã xây dựng xong hệ thống phòng ngự hay chưa…
Cách bến tàu khoảng năm mươi bước, quân Đường dùng bao tải, bên trong là cát, tạo thành một bức tường phòng ngự dài chừng ba bốn dặm, bao vây bến tàu lạiTường phòng ngự cao chừng sáu thước. Mười nghìn cung nỏ binh của quân Đường thì trốn ở phía sau tường phòng ngự, khẩn trương nhìn thuyền lớn của quân Tùy đang tới gần
Sở dĩ phải bố trí một đội cung nỏ ở bến tàu như vậy, chủ yếu là ngăn cản binh lính của Tùy rời thuyền. Bởi vì thuyền lớn của quân Tùy không có khả năng toàn bộ thả neo ở bến tàu. Chỉ có thể thay phiên nhau cập bờ. Như vậy mỗi lần nhiều nhất là có sáu bảy thuyền lớn đồng thời cập bờ. Mỗi một thuyền thì có khoảng hai ngàn binh lính đi xuống thuyền.
Như vậy, quân Đường bố trí mười nghìn cung nỏ là đủ để tạo ra lực sát thương thực lớn, ngăn chặn quân Tùy rời thuyền. Khiến cho chiến thuyền của quân Tùy không thể cập bờ.
Bờ bắc và bờ nam có chỗ bất đồng. Nước ở bờ bắc khá là cạn. Chỉ có trong vòng ba bốn dặm quanh bến tàu là khu vực nước sâu, có thể nâng được chiến thuyền trên năm nghìn thạch cập bờ. Khu vực bờ còn lại, lượng nước không đủ để chiến thuyền quân Tùy cập bờ. Những điều kiện như vậy mới tạo cho quân Đường có một lợi thế chiến đấu về địa hình.
Bọn họ chỉ cần dùng cung nỏ phong tỏa khu vực bến tàu, vậy thì quân Tùy khó có thể đổ bộ.
Tướng chỉ huy ở khu vực bến tàu này là Lý Trường Viên. Y xuất thân từ gia tộc họ Lý ở Hà Tây. Thân cao sáu thước ba, dáng người khôi ngô, vai rộng eo thon, võ nghệ cao cường, cung mã thành thạo. Vũ khí của y là thanh đại phủ (búa lớn) nặng tám mươi cân. Lý Trường Viên là một thành viên mãnh tướng hiếm có của Sài Thiệu, đảm nhiệm chức Á Tướng.
Ánh mắt của Lý Trường Viên lạnh lùng nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào chiến thuyền của quân Tùy đang tới gần. Mặc dù y không giỏi về thủy chiến nhưng y rất giỏi trong việc chỉ huy đội cung nỏ. Trong lòng y đã sớm kìm nèn một cỗ khí thế, chỉ đợi quân Tùy tới là đánh cho một kích mạnh mẽ.
Có ba chiến thuyền của quân Tùy đã tới gần bến tàu. Đều là chiến thuyền trên mười nghìn thạch, quy mô cực kỳ đồ sộ, giống như một ngọn núi lớn đang chậm rãi đi tới. Còn cách bến tàu chưa tới ba mươi bước.
Ở mép thuyền bỗng nhiên xuất hiện mấy trăm tên lính. Bọn họ nâng lên nỏ bắn về hướng binh lính quân Đường. Một trận mưa tên nhanh như chớp bắn về phía đội cung nỏ của quân Đường đang trốn phía sau tường phòng ngự. Binh lính Đường không kịp đề phòng, đã có mười mấy tên binh lính trúng tên, kêu thảm ngã xuống đất.
Lý Trường Viên giận dữ, vung chiến đao lên ra lệnh:
- Bắn tên!
Tiếng mõ vang lên, hàng chục nghìn mũi tên đồng loạt được bắn ra từ quân Đường. Tên bay như như gió bão mưa rào hướng về thuyền lớn. Cũng có hơn mười người quân Tùy bị bắn trúng ngã xuống. Những người còn lại thì ngay lập tức cúi xuống né tên.
Mưa tên dày đặc bắn vào thân thuyền, ép tới binh lính Tùy không ngốc đầu lên được. Liên tiếp có thuyền lớn đến gần bờ, nhưng binh lính đều không thể rời thuyền. Mười nghìn cung nỏ binh của quân Đường tạo thành mưa tên, ngăn chặn quân Tùy đổ bộ.
Thuyền lớn phía trước không thể cập bờ, thì các thuyền nhỏ hơn phía sau càng không thể. Có vẻ như quân Tùy đang gặp phải một vấn đề không nhỏ.
Ở trên thuyền lớn thứ năm, Dương Nguyên Khánh khoanh tay đứng ở đầu thuyền, lạnh lùng nhìn về phía mưa tên của quân Đường. Chiều hôm qua, từ tin tức của thám báo gửi tới, hắn đã nắm rõ tình hình của quân Đường ở bến tàu. Cho nên kế hoạch của quân Đường cũng sớm nằm trong dự liệu của hắn.
Kỳ thực, trong kế hoạch của Sài Thiệu vẫn còn có một vài thiếu sót. Sài Thiệu muốn bố trí một đội cung binh ngăn chắn hắn cập bờ. Nhưng nếu là Dương Nguyên Khánh, hắn sẽ bố trí xác của những con thuyền cháy ở bến tàu, hoặc là vận chuyển đá lớn ném vào trong nước, khiến thuyền lớn không thể cập bờ. Mà trong đội thuyền của Dương Nguyên Khánh, số thuyền sông có trọng lượng ngàn thạch, có thể tùy ý cập bờ không nhiều. Như vậy việc vận binh vượt sông liền biến thành một nan đề.
Cái này nói lên rằng kinh nghiệm chiến trận của Sài Thiệu còn chưa phong phú. Mà những chiến tướng bản địa có kinh nghiệm lại không nhắc nhở y. Từ điểm này nhìn ra, Dương Nguyên Khánh cảm giác được, nội bộ của quân Đường cũng không đoàn kết một lòng như bề ngoài. Chắc hẳn các tướng lĩnh địa phương đang có ý khác.
Nếu là như vậy, Dương Nguyên Khánh rất chờ mong…
Trên đầu thành, Sài Thiệu hưng phấnường. Y thực không ngờ, mình bố trí mười nghìn cung nỏ lại phát huy tác dụng lớn như vậy. Khiến cho chiến thuyền của Tùy không thể cập bờ.
Đứng bên cạnh Sài Thiệu là phó tướng Lưu Phương Trí. Chỉ thấy môi y giật giật, như muốn nhắc nhở cái gì đó. Nhưng cuối cùng lại nhịn xuống. Y là người gốc ở đây nên rất rõ cách chống lại những chiến thuyền lớn như vậy. Thuyền của quân Tùy phần lớn đều là thuyền đi biển. Mặc dù đi lại trong sông Trường Giang không có vấn đề nhưng nếu muốn cập bờ ở bờ bắc của Giang Lăng, vậy thì sẽ gặp phải vấn đề lớn.
- Lưu tướng quân có phải muốn nói gì?
Sài Thiệu nhìn ra Lưu Phương Trí muốn nói lại thôi, có chút không vui hỏi y.
Lưu Phương Trí chỉ về phía Kinh Thủy đạo cách vài dặm ở phía tây nói:
- Đại tướng quân, nếu chiến thuyền của quân Tùy từ Kinh Thủy đạo sát nhập, thì có thể có phiền toái.
Câu này nhắc nhở Sài Thiệu. Nếu chiến thuyền của quân Tùy theo Kinh Thủy đạo tới gần tường thành. Đây chẳng phải là có thể trực tiếp từ chiến thuyền trèo lên thành hay sao?
Vậy phải làm sao bây giờ? Sài Thiệu lập tức toát mồ hôi đầy trán, nhất thời không nghĩ ra được đối sách.
Lưu Phương Trí nhắc nhở y, nói:
- Có thể dùng dầu hỏa theo đường sông đổ ra. Chỉ cần chiến thuyền của quân Tùy tới gần, là có thể phóng lửa đốt cháy.
Sài Thiệu gật đầu. Biện pháp này không tồi. Khi bọn họ tấn công Kinh Tương từ Ba Thục, đã mang tới rất nhiều dầu hỏa rồi để ở trong thành Giang Lăng, tùy ý có thể sử dụng. Sài Thiệu liền hạ lệnh:
- Chuyển một nửa số dầu hỏa trong kho đi tới cửa sông chờ lệnh.
Đúng lúc nay, bỗng nhiên vang tới một tiếng sầm rền từ phương xa khiến mặt đất như muốn chấn động. Sài Thiệu đột nhiên nghĩ tới điều gì. Y xoay người nhìn về hướng đông, khuôn mặt trở nên trắng bệch. Chỉ thấy ở phía đông có một đội kỵ binh đông nghìn nghịt đang hướng bến tàu đánh tới.
Đây là năm nghìn kỵ binh do Vương Quân Khuếch thống lĩnh. Tối hôm qua, ở phía đông năm mươi dặm, bọn họ vượt sông, rồi một mạch chạy tới. Năm nghìn gót sắt của kỵ binh chạy chồm tới, sát khí ngập trời. Giống như một mũi tên nhọn lao tới, xuyên thẳng phía sau của bến tàu
Đội cung nỏ ở bến tàu lập tức trở nên hỗn loạn. Không đợi chủ tướng hạ lệnh, liền đào ngũ, bỏ chạy như điên về hướng thành trì. Lý Trường Viên lớn tiếng quát:
- Ổn định! Ổn định! Xếp thành hàng chống lại.
Nhưng quân tâm của quân Đường đã loạn. Không có người nào nghe theo sự chỉ huy của y. Kỵ binh của quân Tùy đã lao nhanh tới, chỉ một thoáng là tới bến tàu. Lúc này cho dù đã tổ chức xong phòng ngự cũng đã muộn.
Mấy trăm binh lính của quân Đường chạy trốn, nhưng sao có thể nhanh hơn kỵ binh của Tùy. Nháy mắt bọn họ đã bị thiết kỵ nuốt sống. Đội kỵ binh của quân Tùy tạo thành một đường dài phân cách, cắt đứt đường chạy trốn của quân Đường. Hiện tại, quân Đường chỉ còn có hai con đường, hoặc là tử chiến, hoặc là đầu hàng.
Vương Quân Khuếch nhìn thấy chủ tướng của quân địch, y hét lớn một tiếng:
- Tướng địch, để mạng lại cho ta!
Vương Quân Khuếch thúc dục chiến mã, vung Thanh Long Yển Nguyệt Đao lên. Lý Trường Viên thấy mình đã tuyệt lộ, y cũng hét lớn một tiếng, giục chiến mã xông tới, vung đại phủ lên ngăn chặn. Đại phủ mang theo lực lớn như khai sơn phá thạch đánh về phía Vương Quân Khuếch…
Vương Quân Khuếch là người kiêu ngạo tự phụ. Bình sinh y hận nhất một việc, đó là không được xếp vào mười vị mãnh tướng của thiên hạ. Ngay cả bại tướng dưới tay y là Đơn Hùng Tín còn được xếp vào đó, mà y lại không có phần. Điều này khiến Vương Quân Khuếch vẫn canh cánh trong lòng.
Vương Quân Khuếch nổi tiếng với danh xưng ‘Tiểu Quan Vũ’, bởi vì bộ dáng của y giống với Quan công Vân Trường, có bộ lông mày cánh én, mắt xếch, dưới hàm có để ba chòm râu dài. Hơn nữa vũ khí trong tay y cũng là Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Đao pháp mà y sử dụng cực kỳ mạnh mẽ, không hề thua kém tiền nhân. Ngay ngày đầu tiên đi vào trại Ngõa Cương, y đã đánh bại ba mươi sáu vị tướng của Ngõa Cương. Đến cả Đơn Hùng Tín cũng bị y đánh bại trước mặt bao nhiêu người.
Nhưng nguyên nhân mà y không nổi danh thiên hạ, bởi vì y đắc tội rất nhiều đại tướng của Ngõa Cương. Giống như một người mới vào công ty làm việc, lại quá ngang ngược càn rỡ, không đem những người khác để ở trong mắt. Ngay cả phó giám đốc cũng bị y đập bàn mắng chửi.
Cho nên mới vài ngày Vương Quân Khuếch đã bị đuổi ra khỏi Ngõa Cương, còn mang theo một tiếng xấu là ‘Thái Hành tặc’. Trải qua nhiều lần nhấp nhô, cuối cùng mới đầu nhập vào Dương Nguyên Khánh, tiền đồ bắt đầu sáng lạn.
Mà điều khiến Vương Quân Khuếch cảm kích nhất chính là: Dương Nguyên Khánh mặc kệ ngươi xuất thân là gì, chỉ cần có tài, lập nhiều công lao là có thể lên chức. Mặc dù nhân duyên của Vương Quân Khuếch trong quân không được tốt lắm, nhưng y vẫn được phong tới chức Võ Hầu Vệ đại tướng quân, huyện công Ung Khâu.