Chàng khi ở trong địa đạo chẳng hề biết đến ngày giờ, nguyên lúc này trời không những sáng từ lâu mà đã đến giờ Tỵ rồi.

Mai Quân Bích hít sâu một hơi khoan khoái trong người, phóng mắt nhìn ra chung quanh mới thấy nơi đây núi non trùng trùng điệp điệp, nhấp nhô thấp thoáng trong vân vụ như cảnh thế ngoại tang bồng mà thường thấy trong tranh.

Chàng nhìn lại chỗ mình đứng, nguyên đây là một khe núi rộng có đến mười trượng, bên dưới chỉ thấy một màu mây trắng mang mang, quả nhiên nếu không phải mới từ dưới đó lên thì chẳng ai biết được dưới đáy khe núi này là gì?

Lại nhìn sơn đỉnh mình đang đứng, chung quanh toàn là quái thạch lởm chởm thành rừng, rêu phong cũ mốc, chừng như chưa từng có dấu chân người thậm chí dấu chân một con vật nào đặt lên đây.

Phong đỉnh rộng chừng hai mươi trượng vuông, chung quanh đầy những quái thạch lồ lộ đầy rêu phong, nhưng đáng chú ý nhất là ngay giữa phong đỉnh một cây cổ thụ già nua.

Thân cây không cao lắm, nhưng tán lá thì lại rộng, tỏa ra chung quanh như một cái dù khổng lồ, trên thân từng dây leo bám vào chằng chịt.

Mai Quân Bích lúc này mới ngộ hiểu ra ý nghĩa của câu “Thiên ngoại phù vân” trong bài kệ, thì ra là chỉ cảnh giới này đây, bên trên khe đá kia là một mảnh trời khác với mây núi bạt ngàn.

A! A! Đúng rồi “Cổ thụ chi căn” nhất định là chỉ cây cổ thụ này rồi, bên dưới gốc cây nhất định có điều bí ẩn!

Nghĩ thế trong lòng chàng phấn chấn hẳn lên, nghĩ chẳng đúng sao? Bốn câu kệ rõ ràng nói là “Nhất Quỳnh Nhất Vân”, hai thứ báu vật nằm dưới một gốc cổ thụ già, phải xuống hang động nằm sâu dưới một hang động khác, sau đó theo khe núi ra bên ngoài một vùng trời khác.

Giờ chỉ còn việc tìm đến dưới gốc cây là được, nghĩ thế chàng càng vui hơn nữa khi thấu triệt bài kệ, hít sâu một hơi, tinh thần sảng khoái, chàng cất bước đi nhanh về phía gốc cây.

Cây cổ thụ này chẳng những tán lá um tùm, mà dây leo chằng chịt, tính ra tỏa rộng phải có bốn năm trượng vuông. Trên mặt đất những rễ cây lớn có bằng cổ tay, lại đan nhau ngang dọc như một mạng lưới.

“Cổ thụ chi căn”? Khả năng là nằm ngay dưới những đám rễ cây này. Vì bốn câu kệ này lưu truyền trong giang hồ có mấy trăm năm nay, thế thì những gì nằm dưới gốc từ mấy trăm năm trước tất nhiên hiện tại không thể nhìn thấy được, đồng thời điều ấy cũng biết được gốc cổ thụ già nua này có đã mấy trăm năm rồi chứ chẳng nghi!

Cứ nhìn gốc cổ thụ to lớn có đến mấy người ôm không xuể, mấy trăm năm về trước đương nhiên nó cũng chỉ là một gốc cây nhỏ bình thường, mà rễ cây và dây leo cũng chưa có chằng chịt như hiện tại.

Như thế, “Nhất Quỳnh Nhất Vân, Cổ thụ chi căn” đương thời nằm dưới rễ cây là nơi nào hiện tại chứ? Chẳng lẽ vị cao tăng kia năm xưa đã chôn hai bảo vật ngay dưới gốc cây này?

Ai. Nếu đúng thế thì phải hạ thân cây cổ thụ này, đào gốc lên thì may ra mới có thể tìm được bảo vật!

Thôi vậy! Ta vốn không quan tâm gì lắm đến báu vật, huống gì muốn lấy phải mất bao nhiêu công sức đốn ngã gốc cây này tìm kiếm. Huống gì với một gốc cây to mấy người ôm thế này, chuyện đốn ngã đào gốc nó lên há là một chuyện đơn giản sao?

Nghĩ đến đó chàng định quay người trở về, nhưng bất giác ánh mắt chàng lại nhìn lên thân cây, chừng như nhận ra có dấu vết của những hàng chữ.

Tính tò mò khiến chàng bước chân đến gần ngưng mắt nhìn xem, nét chữ này nhìn rất giống với nét chữ lưu trên vách thạch động, cũng dùng Kim Cương chỉ lực để khắc sâu vào thân cây, chỉ có điều qua năm tháng giờ đây nét chữ không còn rõ ràng. Mai Quân Bích vừa chăm nhìn vừa dùng tay sờ mó phán đoán, qua một hồi chàng mới đọc ra được hàng chữ, ghi rằng :

“Thiệu Hưng thập thất niên, Trí Quả thủ thực”.

Hai chữ “Thiệu Hưng” chính là chỉ Đế hiệu của Nam Tống Cao Tông, tính ra cách đây có đến năm trăm năm.

Còn “Trí Quả”, hẳn phải là vị thần tăng năm xưa phát hiện ra bảo vật, lưu lại bài kệ để tặng.

Thế nhưng năm xưa người tự tay trồng cây này, vì sao lại còn lưu tự tích trên cây?

Trong đầu chàng đột nhiên lóe lên một ý nghĩ, có phải chăng hàng chữ này chính là để đánh dấu chỗ chôn bảo vật?

A! Xem ra không sai, sao ta không thử đào ngay tại hướng này xem?

Nghĩ thế, chàng liền rút thanh Côn Ngô kiếm ra, trước tiên chặt hết những dây leo bám dưới gốc cây, để lộ ra một khoảng trống rộng ngay dưới gốc cây, rồi mới bắt đầu đào xuống.

Nên biết, Côn Ngô kiếm là thanh bảo kiếm chém sắt như bùn, cho nên với đám rễ cây tuy to lớn này, nhưng chẳng đáng là gì. Chàng dùng thanh bảo kiếm vừa chặt vừa đào, chỉ sau một lúc đã đào được một chiếc hố sâu có đến ba bốn xích. Nhưng gốc cây này rễ chi chít, càng đào xuống lại càng nhiều hơn, rễ kết búi kết chùm như một mạng lưới, nếu như trong tay chàng chỉ là một thanh kiếm bình thường, thì chắc không làm gì nổi với đám rễ gốc cổ thụ này.

Mai Quân Bích dùng cả hai tay mà đào bới, chàng cố lần theo một rễ cây lớn nhất để đào sâu xuống dưới. Qua một hồi nữa chàng đã đào thành một chiếc hố sâu đến ngang ngực, rộng chừng ba bốn xích vuông.

Thế nhưng, rễ cây thì vẫn còn ăn sâu chưa biết tới đâu, Mai Quân Bích trên trán đã thấy râm rấp mồ hôi, chàng định nghỉ tay một lát, nhưng đúng lúc ấy đột nhiên mũi kiếm khựng lại vì chạm phải một vật gì khá cứng.

Mai Quân Bích chăm mắt nhìn, giữa đám rễ cây lộ ra một góc phiến thanh thạch, bất giác trong lòng thoáng động. Vì dưới sâu gốc cây này tuy là lớp đá núi nhưng màu của phiến thanh thạch này thì lại xem không giống như màu đá núi, hay chính là nơi này rồi?

Trong đầu nghĩ nhanh, tinh thần cũng phấn chấn hẳn lên, vừa tay vung thanh kiếm chặt đứt hết đám rễ cây chung quanh, tay còn lại thì cẩn thận cào đất đá vất ra ngoài. Giờ thì một mặt đá xanh nhìn như một chiếc hòm, dài chừng ba xích, rộng chỉ một xích. Mai Quân Bích sung sướng chừng như muốn reo lên, biết mình đã không tìm sai, chàng lại dùng kiếm moi hết đất chung quanh, cất kiếm vào vỏ, cuối cùng dùng hai tay nâng chiếc hòm đá lên rồi tung người nhảy lên khỏi hố.

Đặt chiếc hòm đá xuống đất, chàng phủi hết đất đá trên mặt hòm, giờ mới thấy hiện ra những hàng chữ. Nét chữ như rồng bay phượng múa, hiển nhiên cũng do vị Trí Quả thần tăng kia dùng Kim Cương chỉ lực mà viết. Viết rằng :

“Quỳnh vi Phong Tinh,

Công thắng huyền chân,

Văn viết A Nậu,

Kiếm trung chi thần,

Ngũ bách niên hậu,

Tặng hữu duyên nhân”

Mai Quân Bích đọc xong trong lòng không khỏi kinh ngạc lẫn vui mừng, sáu câu này đọc thì như thơ, nhưng lại giống kệ, bốn câu đầu là lời giải thích câu “Nhất Quỳnh Nhất Văn” trong bài kệ trên vách đá. Tuy lời giải thích không rõ ràng lắm, nhưng đọc lên cũng có thể đoán định được trong chiếc hòm đá này chứa một vật bằng ngọc thạch tinh anh và một thanh thần kiếm chứ chẳng nghi.

Thế nhưng còn hai câu sau, “Ngũ bách niên hậu, Tặng hữu duyên nhân”, chẳng lẽ Trí Quả thần tăng đương thời khi chôn hai bảo vật này đã biết trước phải năm trăm năm sau mới có người “hữu duyên” đào lên được sao?

Bấy giờ Mai Quân Bích cũng chẳng có nhiều thời gian để suy nghĩ, chàng lần đúng chỗ nắp hòm đá, hai tay vận lực giở mạnh, thế nhưng nắp hòm đá chừng như dính liền với đáy hòm thành một khối, không hề nhúc nhích chút nào.

Có lẽ vì chôn quá lâu năm dưới đất, cho nên không dễ mở ra. Nghĩ thế chàng liền vận thêm chân lực vào hai tay, nhưng nắp hòm vẫn y nguyên không một chút lay động, nếu như chàng vận thêm chân lực nữa thì e rằng cả chiếc hòm đá này bị vỡ tan như chơi.

Như thế thì di bút của Trí Quả thần tăng cũng bị hủy hoại, làm sao có thể như thế được?

Trong đầu suy nghĩ, chợt nhớ ra thanh kiếm trên lưng, chàng trở tay rút kiếm ra, cẩn thận dùng mũi kiếm rạch theo vết nắp hòm, sau đó mới dùng hai tay nhấc lên. Lần này thì quả nhiên chiếc nắp hòm được nhấc lên một cách dễ dàng.

Chỉ thấy trong chiếc hòm đá một thanh đoản kiếm toàn thân đen sì dài chừng hai xích và một viên hổ phách hồng ngã vàng lớn bằng quả trứng vịt, nhưng chung quanh lại gồ ghề lồi lõm chứ không trơn tru láng bóng như những khối hổ phách thường thấy.

Đây chính là hai bảo vật võ lâm mà người trong giang hồ mấy trăm năm nay tranh nhau đi tìm ư?

Mai Quân Bích nhìn hai vật trong hòm đá, lòng chàng không khỏi có chút hồ nghi.

Bấy giờ chàng giơ tay nắm thanh kiếm lên xem, rồi thuận tay nắm thanh kiếm rút ra, nhưng thanh kiếm dính cứng ngắt trong vỏ. Thì ra chôn quá lâu năm khiến thân kiếm gỉ sét, nào giống như một thanh kiếm báu?

Mai Quân Bích nghĩ nhanh trong đầu, bên trong tất phải có nguyên do, chàng vận lực kéo ra, nhưng...

Hai thành, ba thành, bốn thành... rồi năm thành công lực, nhưng thanh kiếm vẫn bất động.

Quái! Ta vận đến năm thành công lực, dù là thép chăng nữa cũng phải dài ra.

Thế mà thanh bảo kiếm này và vỏ kiếm chẳng biết chế bằng thứ gì, mà vẫn không một chút suy suyển.

Đưa mắt nhìn kỹ lại, giờ mới thấy thanh kiếm nặng trịch đen sì này có hình thù cổ quái, trên đốc kiếm có khắc một hàng chữ nhỏ nhưng rất tinh tế ghi :

“Giáng ma hộ pháp A Nậu thần kiếm”

Tám chữ viết theo lối chữ Lệ cổ, ngoài ra không có bất cứ một hoa văn trang sức nào khác. Trên vỏ kiếm thì có khắc một số hoa văn, nhưng lâu năm gỉ sét ăn mòn, chẳng nhìn thấy rõ gì.

Mai Quân Bích trầm ngâm suy nghĩ, người trong võ lâm vì hai bảo vật này mà không tiếc hy sinh tính mạng, còn Trí Quả thần tăng thì cất giấu nó tận trên thâm sơn cùng cốc, đủ thấy nó không thể là một thanh sắt vụn! Có lẽ ta chưa hiểu thấu hết huyền cơ bên trong mà thôi.

A! Thử lão tiền bối kiến thức uyên bác, có lẽ biết được lai lịch của thanh A Nậu thần kiếm này chăng? Ta sao không mang thanh kiếm này đi tìm Thử lão tiền bối hỏi xem sao?

Nghĩ thế, chàng liền buộc thanh đoản kiếm vào người, rồi thò tay nắm lấy tiếp viên hổ phách lên xem, đó chỉ là một viên hổ phách thô sơ chưa qua trau chuốt, có gì mà quý giá chứ?

“Quỳnh vi phong tinh, Công thắng Huyền Chân”

Mai Quân Bích vừa chăm nhìn viên hổ phách, miệng vừa lẩm nhẩm hai câu này, mày chau lại vẻ suy nghĩ rất lung.

Hai câu này tất nhiên là nói về viên hổ phách.

A!...

Mai Quân Bích chừng như reo lên khi chàng chợt nhận ra giữa viên hổ phách kia còn có chứa một vật.

Nhìn kỹ một chút đã có thể nhận ra ngay là một con ong vàng lớn bằng ngón tay cái, trên đầu đôi mắt rất lớn, đôi râu lại như hai chiếc kim nhìn rất sống động.

- Í! Nó còn sống!

Mai Quân Bích Chừng như không tin vào mắt mình, chàng nghĩ là mình hoa mắt nhìn nhầm, nhưng định thần nhìn kỹ quả nhiên con ong nằm ngay giữa viên hổ phách đôi cánh rung rinh các chân ngọ nguậy không ngừng.

Trời sinh vạn vật, không biết bao thứ ly kỳ mà không có, bấy giờ chàng thuận tay cho viên hổ phách vào trong áo, đậy nắp hòm đá lại rồi cho xuống hố như cũ, sau đó vùi đất lấp chiếc hố trở lại bình thường.

Chàng làm xong xuôi mọi việc, đến khi nhìn lại thì trời đã quá ngọ từ lâu. Tính ra từ khi chàng rời thạch động đến giờ thì cũng đã hơn một canh giờ, ba người kia hẳn cũng đã tỉnh lại rồi. Nghĩ thế trong lòng chàng nôn nóng quay trở lại xem bọn như thế nào, chàng vội vàng trở lại miệng khe đá rồi thi triển khinh công lướt xuống.

Không như khi lên đây, Mai Quân Bích trở xuống một cách nhẹ nhàng nhanh chóng, chẳng mấy chốc thì chàng đặt chân trở lại trong thạch động.

Điều đầu tiên chàng nhận ra là ba người kia vẫn còn nằm ngủ mê man trên giường đá chưa hồi tỉnh lại, chàng thở phào ra một hơi rồi thả người ngồi xuống bên giường. Cởi thanh cổ kiếm ra ngắm nghía lần nữa, giờ nhìn kỹ mới nhận ra những hoa văn trên đốc kiếm ẩn hiện hình nhân, nhưng vì quá lâu ngày nên không nhìn thấy rõ nữa.

Chàng lại nhìn kỹ chỗ đính nhau giữa đốc kiếm và vỏ kiếm, rồi lại thử dùng sức rút kiếm ra, nhưng kiếm và vỏ cứ như được đúc thành một khối không làm sao kéo ra được, đồng thời cũng không hiểu được bí ẩn bên trong nó.

Chàng ngồi thừ người ra mà nhìn thanh cổ kiếm, trong đầu suy nghĩ rất lung về bí ẩn bên trong thanh kiếm này...

- Ư... ra! Mai ca ca!

Đột nhiên tiếng người gọi lên khiến chàng giật mình trở về với thực tại, ngoái đầu nhìn mới nhận ra là Thôi Huệ đang vừa mở mắt tỉnh lại.

- Huệ muội, ta đây...!

Thôi Huệ trở mình ngồi dậy lần bước xuống giường, ngơ ngác nhìn màn đêm tối đen chung quanh, miệng không ngớt kinh ngạc kêu lên :

- Ai...! Mai ca ca, hình như muội đã ngủ say rất lâu, sao trời vẫn chưa sáng nhỉ?

Mai Quân Bích cười nói :

- Hiện tại đã qua giờ mùi rồi, chỉ vì chúng ta đang ở một hang động sâu trong núi, cho nên không nhìn thấy ánh mặt trời đó thôi.

Thôi Huệ kinh ngạc nói :

- Sao? Quá giờ mùi rồi ư? Thế thì hôm nay chúng ta cũng không đi được rồi!

Thì ra nàng cứ ngỡ bọn họ chỉ vừa mới ra khỏi Thổ Lan tử cốc, cho nên nghe nói đã quá giờ mùi mới hoảng lên như thế.

Nhưng chính tiếng thốt thất thanh của nàng khiến cho Thượng Quan Yến cũng tỉnh lại theo, mở mắt ra chỉ thấy trời tối nghịt giơ tay trước mặt chẳng thấy năm ngón, cô ta la hoảng lên :

- Ai da! Căn phòng này sao lại tối thế, đến một chút ánh sáng cũng không có. Huệ thư thư nói sao, hôm nay chúng ta cũng không đi được sao?

Mai Quân Bích bật cười nói :

- Tiểu muội muội chớ hoảng lên như thế, hai vị muội muội và Chúc huynh tối qua đã uống Bổ Thiên Tủy của Miêu Cương Độc Phụ, cho nên ngủ một giấc ngon lành đến sáu canh giờ. Hiện tại công lực đã hoàn toàn hồi phục, chỉ chờ Chúc huynh tỉnh lại nữa là chúng ta có thể rời khỏi hang động này.

- Lão tiền bối, vãn bối đã tỉnh lại rồi!

Nào ngờ chàng vừa nói xong thì nghe tiếng Chúc Ưng Dương thốt lên.

Thực ra thì Chúc Ưng Dương tỉnh cùng một lần với Thượng Quan Yến, nhưng hắn trước tiên cố nhớ lại chuyện hồi đêm, trước tiên hắn trúng Ngũ Âm Tuyệt Mạch của người Huyền Nữ giáo, sau đó được một vị cao nhân tiền bối đả thông kinh mạch cho hắn, sau đó thì hắn hôn mê chẳng còn hay biết gì nữa.

Nhớ lại thế, hắn ngầm vận công lực thì khí huyết lưu thông, tinh lực dồi dào, xem ra còn sung mãn hơn nhiều so với trước khi hắn trúng thương.

Chính đang trong lúc lòng đầy kinh ngạc, thì nghe Mai Quân Bích nói mới biết là mình trong lúc hôn mê được cho uống một loại linh dược bổ tủy bồi chân nguyên, trong lòng vừa mừng vừa cảm kích mới thốt lên như vậy.

Mai Quân Bích nghe Chúc Ưng Dương xưng mình là “lão tiền bối”, bật cười nói :

- Chúc huynh thiên vạn chớ nên xưng hô như thế, tính ra thì tuổi tác tiểu sinh và Chúc huynh chẳng hơn kém nhau bao nhiêu, chớ nên khách khí mà cứ xem như bằng hữu cùng trang lứa!

Chúc Ưng Dương nghe thì càng kinh ngạc hơn nữa, vì trước đây hắn từng nghe sư phụ nói, thủ pháp Ngũ Âm Tuyệt Mạch rất bá đạo, người nào bị đánh trúng thì vô phương cứu chữa.

Trừ phi vài tay đại cao thủ nội lực tinh thâm hợp lực lại thì mới có thể dùng nội lực đả thông kinh lạc, mới may ra cứu được tính mạng. Nếu lấy bản lĩnh võ công của sư phụ hắn mà nói, thì còn chưa thể cứu trị, cho nên hắn mới nhận định người cứu mình phải là một cao nhân tiền bối.

Nào ngờ, nghe giọng của đối phương chỉ là giọng của một thiếu niên, lại nói đồng trang lứa với hắn, làm sao khiến hắn không kinh ngạc chấn động cho được.

Trong lòng vừa cảm kích vừa khâm phục vô cùng, Chúc Ưng Dương vội nói :

- Như huynh đài đã dạy, tiểu đệ nào dám không nghe. Không biết huynh đài xưng hô thế nào?

- Tiểu sinh là Mai Quân Bích, Thiên Thai phái.

- Thiên Thai? Huynh là... Thiên Thai phái, Mai Quân Bích!

Giọng Chúc Ưng Dương chừng như run lên vì xúc động khi nghe mấy tiếng Mai Quân Bích.

Mai Quân Bích cười nói :

- Không sai! Chúc huynh hẳn cho rằng lệnh sư huynh Thập Nhị Kim Tiền Nhậm Long là do tiểu sinh giết. Thực ra bên trong chuyện này có nhiều tình tiết phức tạp, một lời nói không cùng. Chúng ta chờ ra khỏi hang động này rồi nói chuyện nhiều hơn.

Chúc Ưng Dương tuy hành cước giang hồ thời gian chưa nhiều, nhưng với một câu hàm chứa nhiều ẩn ý này thì hắn cũng nhận ra được, bấy giờ vội ứng thanh đồng ý ngay.

Lúc này Thôi Huệ đã lấy đá hỏa cơ bên người ra đánh lửa cháy lên, đưa mắt nhìn chung quanh thạch động một vòng, cất giọng kinh ngạc hỏi :

- Mai ca ca, chẳng phải chúng ta vẫn ở trong thạch thất ban đầu kia sao? Đây là nơi nào thế?

Thì ra giờ nàng đã nhớ ít nhiều khi hồi tỉnh lại trong thạch thất.

Mai Quân Bích chỉ tay lên miệng hang nằm chênh chếch trên đỉnh hang, nói :

- Chúng ta đang ở dưới huyệt động trong thạch thất, giờ sẽ ra theo con đường này!

- A!

Thượng Quan Yến và Chúc Ưng Dương đồng thanh la lên đầy kinh kỳ.

Đỉnh thạch động cách mặt đất có đến cả mười trượng, đừng nói là Thượng Quan Yến và Chúc Ưng Dương không có cách gì phi thân lên tới đó, mà ngay cả Thôi Huệ cũng tỏ ra lúng túng.

Mai Quân Bích mỉm cười nói :

- Đường huyệt động này thoai thoải như dốc núi, cứ nhảy lên được đó rồi là có thể bò đi một cách dễ dàng. Để tôi giúp các người lên đó!

Luận về võ công thì không thể khiên cưỡng được, ba người tự nhiên ai cũng hiểu điều này, biết tự lượng được sức mình như thế nào, cho nên bấy giờ nghe Mai Quân Bích nói thế thì đều đồng ý để chàng giúp mình.

Mai Quân Bích giúp từng người một bám lên đường hang, còn mình thì đi cuối cùng.

Qua một hồi, cả bọn bốn người đã bò quay trở lên thạch thất.

Thôi Huệ chừng như không kiên nhẫn được, vừa lên đến thạch thất lập tức nhìn Mai Quân Bích hỏi ngay :

- Mai ca ca, hồi tối huynh nói được Thử gia gia cho thuốc giải, vậy huynh gặp Thử gia gia nơi nào?

Mai Quan Bích cười nói :

- Đã muộn lắm rồi, giờ chúng ta vừa đi vừa nói chuyện!

Nói rồi chàng đi trước dẫn ba người ra khỏi thạch thất, đi hết con đường nhỏ, phía trước đã nhìn thấy địa đạo rộng lớn. Chàng vừa đi vừa đem chuyện từ khi bọn Thôi Huệ và Thượng Quan Yến trúng độc trong người phát tác, hôn mê bất tỉnh như thế nào, rồi chàng gặp được Xuyên Thiên Phi Thử cho thuốc giải Bách Độc tán ra sao, nhất nhất kể lại cho bọn họ nghe.

Rồi sau đó truy tìm tung tích Ôn Như Phong mới gặp được Tam tiểu thư Vu Thục Nhàn dẫn đến địa đạo này, tìm vào thạch thất tạm ẩn náu trị thương cho hai người.

Kế đó là chuyện bắt gặp Đăng Tâm hòa thượng dẫn Chúc Ưng Dương vào động truy lùng chàng, sau đó thế nào đều kể ra cho bọn họ nghe.

Những chuyện chàng kể thành một câu chuyện dài ly kỳ hấp dẫn, khiến cho cả ba người nghe đều kêu lên kinh ngạc lẫn thích thú.

Thượng Quan Yến là người vui mừng hơn cả, vội hỏi :

- Mai ca ca, cả hai bảo vật kia thực sự huynh đều lấy được rồi sao? Nhanh cho bọn muội cùng xem đi!

Mai Quân Bích nhún vai cười nói :

- Yến muội, muội thật nôn nóng, trong này tối vậy thì nhìn thấy được gì chứ? Chúng ta nhanh ra khỏi địa đạo này rồi xem còn chưa muộn, có điều ngay cả ta cũng không nhìn ra được hai thứ gọi là bảo vật võ lâm này có gì quý giá?

Thôi Huệ nghe thế liền tiếp lời chàng nói :

- Mai ca ca, nếu thế thì chúng ta đi nhanh đi!

Mai Quân Bích lại đem chuyện bọn họ gặp Thập Nhị Kim Tiền Nhậm Long trong ngôi miếu hoang ở Tuyết Phong sơn như thế nào kể lại cho Chúc Ưng Dương nghe.

Đồng thời còn kể lại chuyện hai hôm trước chàng tận mắt nhìn thấy Truy Phong kiếm khách bị người sát hại, trên thân cây bên đường còn đề hàng chữ bằng máu: “Đả sát Truy Phong kiếm khách là Thiên Thai Mai Tam công tử”.

Sau đó mới biết Thập Nhị Kim Tiền Nhậm Long cũng bị sát hại, đồng thời trên thân cây bên cạnh cũng có lưu dòng huyết tự: “Đồ sát Thập Nhị Kim Tiền là Thiên Thai Mai Tam công tử”.

Rõ ràng là có người đang vu oan giá họa cho mình, nhưng còn chưa biết kẻ kia là ai?

Chúc Ưng Dương nghe rồi gật đầu thở dài nói :

- Tiểu đệ cũng đã hoài nghi điều này, vì tệ sư huynh với Mai huynh vốn không thù không oán, thì làm sao lại ra tay hạ độc thủ được? Một điều nữa nếu như mình đã giết thì vì sao lại còn ghi tên mình báo cho thiên hạ biết mình là hung thủ? Mà cho dù một kẻ ngông chăng nữa cũng chỉ đề tên mình, chứ chẳng ai lại đề hiệu, thí dụ như phải ghi là “Mai Quân Bích”, chẳng ai tự ghi tên mình mà ghi hiệu “Mai Tam công tử”.

Cho nên tiểu đệ hoài nghi hung thủ khả năng là người có thù oán gì với Mai huynh, mà không biết đại hiệu của Mai huynh. Trên giang hồ từ khi Mai huynh đả thương Kiều Tiền Tứ Sát, độc đấu Hồng Đăng phu nhân, đại phá Ca Lạc sơn trang thì hầu như uy danh “Thiên Thai Mai Tam công tử” không ai là không biết. Kẻ này bày kế mượn đao giết người, nhưng kỳ thực không chỉ một kế mượn đao giết người mà thôi, đồng thời còn ném một viên đá trúng hai đích, khiến cho người hai phái Hoa Sơn, Thái Sơn truy tìm Mai huynh báo thù. Vạn nhất không giết được Mai huynh, mà ngược lại còn tổn nhân mạng dưới tay Mai huynh thì cũng tiêu hao lực lượng của hai phái. Tâm địa của người này thật đen tối độc địa!

Mai Quân Bích càng nghe càng chấn động kinh ngạc, gật đầu lia lịa.

Thôi Huệ vẩu môi hạnh chen vào nói :

- Kẻ thù nào chứ? Người này nhất định không ngoài số người hôm ấy có mặt tại phá miếu trên Tuyết Phong sơn, ngoại trừ lệnh sư huynh Thập Nhị Kim Tiền Nhậm Long và Truy Phong kiếm khách ra thì chỉ còn lại ba người là Kim Tú Ngân Đạn Phạm lão tam, Đăng Tâm hòa thượng và Âm Thế Tú Tài Công Tôn Khánh. Bọn họ nhân vì nghe phong phanh hai bảo vật võ lâm nằm trong tay Mai ca ca, cho nên mới lập kế mượn đao giết người, không phải chỉ một viên đá nhằm hai đích mà nhằm đến ba đích. Khiến cho các người tranh đoạt tàn sát lẫn nhau, đợi đến khi tàn cuộc hắn chỉ ra tay là thủ đắc toàn cục!

Mai Quân Bích ngẫm nghĩ một lúc, nói :

- Những lời Huệ muội nói thì cũng có lý, thế nhưng muội mới chỉ biết một mà chưa biết hai.

Thôi Huệ cứ nghĩ những lời suy luận của mình là chính xác, cho nên nghe Mai Quân Bích nói thế thì mở tròn hai mắt ngưng nhìn chàng, hỏi lại :

- Thế thì Mai ca ca nói “biết hai” là biết điều gì?

Mai Quân Bích trầm ngâm một lúc rồi nói :

- Huệ muội, có biết võ công của Thập Nhị Kim Tiền Nhậm Long và Truy Phong kiếm khách so với bọn Âm Thế Tú Tài Công Tôn Khánh, Kim Tú Ngân Đạn Phạm lão tam và Đăng Tâm hòa thượng ai cao ai thấp chứ?

Thôi Huệ không cần suy nghĩ cười đáp ngay :

- Bọn người này võ công mỗi nhà một khác nhau, cho nên ai cũng có sở trường riêng, mà người nào cũng có tên tuổi trong võ lâm. Cho nên muốn biết ai cao ai thấp thì quả không phải chuyện dễ.

Mai Quân Bích bất giác cười nói :

- Thế thì đúng! Luận võ công Thập Nhị Kim Tiền Nhậm đại hiệp, Truy Phong kiếm khách so với ba người kia thì thúc bá chẳng cao thấp bao nhiêu, cho nên nếu như muốn sát hại một người thì trong một trăm chiêu e khó phân thắng bại. Thế mà hung thủ lại chỉ trong một thời gian rất ngắn ra tay hạ thủ một lúc cả hai người này, còn lưu lại huyết tự ung dung ra đi. Đủ thấy hung thủ phải là một người võ công cao hơn bọn họ vài bực mới hạ thủ một cách dễ dàng như thế. Cho nên có thể thấy được hung thủ sát hại Thập Nhị Kim Tiền Nhậm đại hiệp và Truy Phong kiếm khách hẳn không thể là Kim Tú Ngân Đạn Phạm lão tam, Âm Thế Tú Tài Công Tôn Khánh hay Đăng Tâm hòa thượng.

Thượng Quan Yến nãy giờ vừa đi vừa lắng nghe bọn họ nói chuyện với nhau, lúc này mới lên tiếng chen vào hỏi :

- Mai ca ca, thế thì huynh cho ai là hung thủ?

Mai Quân Bích lắc đầu cười nói :

- Lúc này còn chưa thể đoán được, thế nhưng tôi nghĩ sớm muộn gì rồi cũng có ngày cây kim lòi ra khỏi gối!

Mọi người vừa đi vừa đàm tiếu với nhau, chẳng mấy chốc đã ra tới cửa địa đạo, phía trước nhìn thấy ánh nắng mặt trời chiếu vào.

Khi Mai Quan Bích, Thôi Huệ, Thượng Quan Yến và Chúc Ưng Dương ra đến động khẩu, từ chỗ ánh sáng mặt trời chiếu vào tới nơi bọn họ nhìn thấy người viết chữ lưu lại rất nhiều.

Thôi Huệ là người đầu tiên reo lên :

- Í! Có người viết chữ để lại kia,...

Vừa nói nàng vừa tranh chạy nhanh tới, lúc này thì cả bốn đều đã đọc được rõ ràng, ghi rằng :

“Khối đá ngoài cửa đã bị Cát Lan lão đầu bôi lên một loại kịch độc, khi ra khỏi động tuyệt đối không được chạm vào nó. Ta đi trước một bước, hi hi!”

Tuy không lưu lại tên người viết, nhưng chỉ nghe ngữ khí cũng nhận ra ngay là Xuyên Thiên Phi Thử lão gia gia chứ chẳng nghi.

Mai Quân Bích hốt nhiên hiểu ra hồi tối hôm qua Cát Lan tiên sinh rỉ tai với Kim lão nhị, thì ra lão ta vội vàng bỏ đi là để bôi độc lên khối đá lấp động này.

Nếu như người trong động không biết mà chạy ra ngoài, dùng tay đẩy khối đá thì thế nào cũng trúng độc.

Đọc mấy câu này thì cũng biết Xuyên Thiên Phi Thử đã đi từ lâu rồi.

Ai! May mà ông ta đi trước, nếu không đinh ninh ta xin được ba viên Bổ Thiên Tủy từ chỗ Miêu Cương Độc Phụ thì chẳng biết ăn nói làm sao đây!

Chàng trong lòng trầm tư, ánh mắt thì lại nhìn ra ngoài động khẩu, quả nhiên bên ngoài có một tảng đá rất lớn đã bị đẩy xê dịch qua một bên chừng ba xích, vừa đủ một người lách đi qua. Chàng liền quay đầu lại dặn mọi người thêm lần nữa, rồi mới cất bước đi trước.

Một đoàn bốn người lách qua khối đá ra bên ngoài, chỉ thấy cỏ cây chen lẫn trong quái thạch phủ kín con đường núi, thế nhưng một hàng cây cỏ bị dấu chân người giẫm đạp nằm rạp xuống, rõ ràng đã có nhiều người đi qua theo con đường này.

Mai Quân Bích nhớ lại hồi đêm bọn Cát Lan tiên sinh, Đăng Tâm hòa thượng mấy người bị Xuyên Thiên Phi Thử lão gia gia dùng hai câu lệnh của Câu Hồn bút lệnh hù chạy dài. Chàng không hiểu nổi hai câu “Diêm Vương đã định canh ba chết, ai dám lưu lại đến canh năm” sao lại có uy lực ghê như thế, đến những tay cao thủ như bọn Đăng Tâm hòa thượng mà nghe cũng thất hồn tán đởm.

Mai Quân Bích dẫn đầu đoàn đi theo con đường ngập cỏ, chàng vừa đi vừa hỏi :

- Chúc huynh, Huệ muội, Yến muội, các người từng nghe trên giang hồ nói đến cái tên Câu Hồn Luật Lệnh chứ?

- Câu Hồn Luật Lệnh?

Cả bọn Chúc Ưng Dương, Thôi Huệ và Thượng Quan Yến chừng như cùng thốt lên một lần vẻ ngạc nhiên, rõ ràng bọn họ lần đầu tiên nghe thấy mấy tiếng này.

- Không biết!

Chúc Ưng Dương lắc đầu đáp.

Thôi Huệ cũng liền lắc đầu đáp theo :

- Muội trước giờ chưa từng nghe gia gia nói đến.

Bấy giờ cả bốn người rơi vào im lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng áo lướt gió và tiếng bước chân đạp xào xạc trên cây cỏ.

Qua một hồi, bốn người đã ra khỏi sơn đạo, bên trái là con đường núi thông đến Thổ Lan tử cốc.

Mai Quân Bích dẫn cả bọn đi nhanh về hướng Thổ Lan tử cốc, khi vừa đến nơi thì đã nhìn thấy Cầm, Kiếm hai tên tiểu đồng ngồi trên phiến đá bên đường nét mặt rầu rầu, đến khi bọn chúng nhìn thấy chủ nhân thì mặt mày rạng rỡ, reo lên vui mừng chạy ùa đến đón.

Mai Quân Bích đưa mắt nhìn quanh thì không thấy tên thư đồng Lam Nhi của Văn Hương giáo chủ Ôn Như Phong đâu cả, bất giác hỏi :

- Í! Lam Nhi đâu?

Cầm Nhi vội đáp :

- Sau khi công tử gia đi rồi, bọn tiểu nhân ba người bỗng thấy trong người ngứa ngáy khó chịu, rồi sau đó thì hôn mê lúc nào chẳng hay. Không biết qua bao nhiêu lâu, chỉ thấy bụng đau quặn lên rồi đi tả đến mấy lần mới tỉnh người dậy, phát hiện ra bọn tiểu nhân ba người nằm trên cỏ. Trước mặt là một lão nhân mặt choắt mắt hí, dáng người trông rất buồn cười, cứ nhìn bọn tiểu nhân nhe răng như cười cợt. Tiểu nô vì thấy người này quá lạ, chưa biết là bạn hay thù, cho nên định vùng ngồi dậy. Nào ngờ, tiểu nô cảm thấy người mình mềm nhũn ra, tay chân rã rời không một chút khí lực, tiểu nô nghĩ ngay mình đã bị ám toán. Tiểu nô trong lòng tức giận, định mở miệng chửi cho lão ta một trận, nhưng nào ngờ lão như biết được liền xua tay, cười nói :

- Tiểu oa nhi, các ngươi cả ba sau khi uống thuốc xong, trùng độc tuy đã được giải hết, nhưng không được cử động, phải nằm nghỉ ngơi qua sáu canh giờ chân lực các ngươi mới hồi phục lại. Công tử các ngươi chốc nữa sẽ quay lại, cứ ở yên đây chờ, lão phu còn có việc phải đi đây.

Tiểu nô không biết lời lão ta là thật hay giả, nhưng đúng là thấy toàn thân vô lực, đành để mặc cho ông ta bỏ đi.

Mai Quân Bích nghe đến đó, liền gật đầu nói :

- Ưm! Đó chính là Thử lão tiền bối, ông ấy đã cho các ngươi uống Bách Độc tán. Nhưng ta muốn hỏi Lam Nhi đâu rồi?

- Dạ! Dạ!

Cầm Nhi ứng thanh dạ liền hai tiếng, rồi nói tiếp :

- Bọn tiểu nô cứ thế nằm chờ đợi cho đến trưa hôm nay, quả nhiên khí lực trong người hồi phục, tay chân cử động lại bình thường. Cả bọn vệ sinh thân thể xong, thì thấy Ôn công tử từ trong cốc núi đi ra, mặt mày tiều tụy như người mới ốm dậy.

- A! Ôn đã hồi phục rồi?

Mai Quân Bích thốt lên, đồng thời lại thấy kỳ quái vì Văn Hương giáo chủ Ôn Như Phong tuy đã phục Bách Độc tán nhưng làm sao có thể hồi phục chân lực nhanh như vậy?

Cầm Nhi nói :

- Đúng, đúng! Tiểu nô nhìn thấy Ôn công tử chỉ trở lại một mình, trong lòng thấy kỳ mới hỏi về tin tức công tử gia. Ôn công tử nói lạc nhau trong Cửu Đạo loan, sau đó tìm suốt đêm nhưng chẳng thây, ông ta tức giận liền nổi lửa đốt căn nhà gỗ của Cát Lan tiên sinh, rồi giết luôn cả tên tiểu đồng, sau đó còn đi quanh tìm kiếm một hồi nữa đến trưa mới quay ra đây. Theo như ý Ôn công tử thì muốn bọn tiểu nô theo ông ta rời khỏi đây, nói để từ từ tìm công tử gia. Nhưng bọn tiểu nô vì nghe lời căn dặn của lão nhân gia kia, bảo công tử gia sẽ quay trở lại, bảo bọn tiểu nô phải chờ ở đây. Ôn công tử nghe nhắc đến vị lão nhân gia kia, liền gật đầu nói: “Nếu lão Thần Thâu đã bảo các ngươi chờ ở đây, vậy các ngươi cứ chờ đi.

Khi nào thấy Mai huynh trở lại đây, cứ nói ta có việc gấp đi trước một bước”.

Nói rồi Ôn công tử mang Lam Nhi đi.

Mai Quân Bích nghe xong gật đầu dặn bọn Cầm Nhi, Kiếm Nhi hai đứa đi chung một ngựa, còn một con ngựa trao cho Chúc Ưng Dương.

Bấy giờ mọi người lên ngựa lục tục theo nhau đi về hướng Thạch Bản kiều. Chúc Ưng Dương nóng lòng hồi sơn phục mệnh sư phụ, cho nên vừa ra khỏi Thạch Bản kiều liền chia tay bọn Mai Quân Bích trở về Thái Sơn.

Mai Quân Bích ngược lại lo cho ngoại tổ của Thượng Quan Yến là Thiết Bối Thương Cù Võ Công Vọng đang bị Huyền Nữ giáo bắt giam trên Lục Thiệu sơn, cho nên nghĩ muốn cùng Thôi Huệ, Thượng Quan Yến nhị vị cô nương nhằm hướng Lục Thiệu sơn đi cứu người.

Nhưng còn lại bọn Cầm Nhi, Kiếm Nhi hai tên thư đồng, nếu như đem theo chẳng những không ích gì mà còn vướng tay chân.

Chàng nhớ lại thư thư của Thôi Huệ là Thôi Mẫn từng hẹn với Thôi Huệ gặp lại nhau ở Kiềm Dương.

Mà Kiềm Dương cũng nằm trên đường đi Thái Sơn, hay là cho hai tên thư đồng theo chân Chúc Ưng Dương, khi tới Kiềm Dương bọn chúng chờ mình trong Duyệt Lai khách điếm, nơi mà cả bọn hôm trước trọ lại, như thế là tiện nhất.

Nghĩ vậy, chàng liền bảo hai tên thư đồng theo chân Chúc Ưng Dương, bao nhiêu hành lý của cả bọn thì đem qua hết ngựa của mình.

Chúc Ưng Dương thấy Mai Quân Bích ân cần chu đáo, ơn cứu mạng lại như tái sinh, chia tay mà không khỏi bùi ngùi xúc động, bái tạ lần nữa mới dẫn theo hai tên thư đồng ra đi.