Người phàm có câu thơ, nói rằng ngày xuân ngắn ngủi, gọi là “Điểu ca hoa vũ thái thú túy, minh nhật tửu tỉnh xuân dĩ quy*”

Năm đó Phượng Cửu từ người cha thích viết văn của mình nghe được lời này, cảm thấy khó có khi có cơ hội thể hiện ngộ tính viết văn của mình nên đã nói phàm nhân cảm giác ngày xuân ngắn ngủi, là bởi mùa xuân là mùa đẹp nhất trong bốn mùa, thứ tốt thường khiến người ta sa vào, không cảm nhận được thời gian trôi qua, chợt hiểu ra quay đầu lại nên mới có cảm giác ngắn ngủi.

Nàng nói ra lời này, khiến cha nàng như thể gặp được tri âm, ánh mắt nhìn nàng lúc đó có chút an tâm hơn. *Ý của câu: Chim ca hoa khoe sắc, thái thú (một chức quan) say (rượu), ngày mai tỉnh rượu, xuân đã qua. Hôm nay Tức Trạch Thần Quân vốn đang nghỉ ngơi đã ra khỏi phủ, nhìn bóng lưng Thần Quân đi xa, Phượng Cửu có chút phiền muộn nhớ lại câu thơ này.

Khi tỉnh rượu thì ngày xuân đã qua, nàng và Tức Trạch lần này gặp nhau mặc dù không đến nỗi ngắn ngủi như vậy, nhưng sáu bảy ngày này trôi qua rồi lại biến mất, giống như một cuộc xuân say. Nàng thực tâm muốn Tức Trạch lưu lại lâu hơn một chút, nhưng như vậy khó tránh khỏi đối với Mạch Thiếu có chút tàn nhẫn.

Hôm qua Mạch Thiếu gửi cho Tức Trạch một phong thư dài, vô ý bị nàng nhìn thấy, trong thư, tội nghiệp hắn phải một mình làm pháp bảo kia đến lúc gần kết thúc, loại pháp khí tuyệt diệu này, ngày hoàn thành nhất định sẽ rất hung ác, nếu không xử lý tốt, không cần nói tới trước đây đã hao tổn tinh lực cho nó, còn có thể bị nó cắn trả, sự tình hiện giờ gấp gáp, mời Thần Quân phải sớm ngày trở về Thần cung lo liệu.

Cuối thư còn xót xa rớt nước mắt hỏi một câu, mấy ngày trước đây hắn tổng cộng đã gửi cho Thần Quân mười một phong thư dài, Thần Quân là không nhận được hay đã mang đi đốt đèn cầy rồi. Nàng lúc ấy liền nhớ lại mấy ngày qua vào ban đêm, trong ánh đèn như có mùi mực thơm bay ra, trong lòng không khỏi dâng lên chút cảm thông đối với Mạch Thiếu.

Căn cứ vào sự cảm thông và tấm lòng đại nghĩa, ngày hôm sau, nàng để Tức Trạch trở về. Tức Trạch rời đi thật có chút đáng tiếc, mấy ngày nay ở cạnh Tức Trạch, cuộc sống trong phủ cũng có mùi vị hơn, thú vị hơn rất nhiều so với trước kia. Thí dụ Tức Trạch dẫn nàng đi thả câu, nàng thật ra thì không có hứng thú với chuyện câu cá này, vốn là muốn chiều theo ý hắn, nhưng vừa thử một lần đã cảm thấy vô cùng hăng hái.

Tức Trạch chuẩn bị một chiếc thuyền nhỏ, mũi thuyền trang bị đầy đủ một chiếc lò, bình đựng dầu, muối, tương, giấm, mang theo nàng đi du thuyền, thưởng thức thịnh cảnh ngày xuân ở ngoại thành. Đến trưa, hắn câu cá, nàng hâm rượu, cá vừa câu lên nàng sẽ nhận lấy, làm một bữa tiệc vô cùng thịnh soạn, sau khi dùng xong bữa trưa, hắn sẽ cho thuyền tiến vào hồ sen gần đó.

Được lá sen che chắn, hắn đọc sách, nàng nằm trong lồng ngực hắn ngủ trưa, ánh nắng rực rỡ xuyên qua lá sen càng chiếu thẳng vào mặt nàng, nàng sẽ tựa đầu càng sát vào ngực hắn. Hắn thích cầm sách nhẹ vỗ lên tóc nàng, trước kia nàng là một tiểu hồ ly ở Thái Thần cung, Đông Hoa Đế Quân cũng thích hành hạ da lông của nàng như thế, lúc đó nàng là một sủng vật, rất an tâm hưởng thụ, lúc này Tức Trạch lại có động tác như vậy, chẳng hiểu vì sao lại khiến nàng cảm thấy ngoài an tâm ra còn có sự thân mật.

Nàng suy nghĩ ước chừng là do trước kia nàng và Đông Hoa tâm ý không tương thông, càng cảm thấy tâm ý tương thông là bốn chữ vô cùng kỳ diệu. Bởi vì Tức Trạch là người coi việc bị người khác bôi tro trát trấu giống như mây trôi, ví dụ như dẫn nàng đi câu, đưa nàng đi ngắm hoa, xem xiếc, ảo thuật, hắn đều rất thoải mái làm, cũng chưa từng nghĩ tới chuyện cải trang che giấu gì cả, nên khó tránh khỏi việc đụng phải người quen nhận ra họ.

Với tộc Tỷ Dực Điểu mà nói, cặp phu thê quý tộc đi chơi xuân hiện tại cũng không phải là chuyện gì ly kỳ, nhưng hai người bọn họ lại không giống với mấy cặp phu thê thích phô trương khoe khoang. Không mất mấy ngày, sau khi câu chuyện Thần Quân đại nhân và công chúa điện hạ phu thê tình thâm truyền khắp cả Vương đô, lúc Phượng Cửu vào cung, ánh mắt quân hậu nhìn nàng đã có sự khác biệt.

Chuyện này, trong cung truyền đi như thế nào Phượng Cửu không để tâm, nhưng nàng chỉ mơ hồ lo lắng, không thể để cho Trầm Diệp biết được. Phượng Cửu cảm thấy, theo một câu tục ngạn ở phàm trần, loại hành vi này của nàng chính là ăn trong chén, nhìn trong nồi, là hành động vô liêm sỉ.

Nhưng nàng đã đáp ứng Mạch Thiếu, trong lòng cho dù là áy náy, cũng chỉ có thể toàn tâm toàn ý làm một kẻ vô liêm sỉ hoàn hảo. Vô liêm sỉ hoàn hảo là dạng gì? Các tiên sinh mặc dù chưa từng dạy, nhưng có thể gặp Liên Tam điện hạ để được giảng giải cặn kẽ. Ngày thứ ba sau khi Tức Trạch đi, sau giờ ngọ, Trầm Diệp cho lão quản sự gọi nàng tới.

Phượng Cửu vừa từ giấc ngủ trưa tỉnh dậy, đối với lời gọi này có chút không hiểu ra sao. Trong lời kể chuyện của Mạch Thiếu, hình như Trầm Diệp chưa từng chủ động mời A Lan Nhược tới Mạnh Xuân viện mà? Hay là trước kia thực ra Trầm Diệp đã từng mời A Lan Nhược, nhưng Mạch Thiếu không biết, hoặc là đã quên kể với nàng? Nàng cất nghi vấn này đi, dựa vào sự bình tĩnh của bản thân, vòng qua Tiểu Thạch lâm, lên Ba Tâm đình.

Trong đình không một bóng người, trên bàn đá trống trải lại đặt một chiếc bình lưu ly. Ánh nắng sau giờ ngọ chiếu tới, khiến sương mù trong bình phát ra những ánh sáng bạc xen lẫn ánh vàng lấp lánh, ước chừng là trong bình có bày kết giới, sương mù trong bình không có cách nào thoát ra khỏi cái bình.

Phượng Cửu trong lòng hiếu kỳ, đưa tay xoa xoa thân chiếc bình, cảm giác lạnh thấu xương lập tức xông thẳng lên não. Nàng run lên, muốn rút tay về, nhưng chiếc bình lại giống như là dính trên tay nàng. Phượng Cửu có chút kinh ngạc, nhất thời chỉ có một mình nàng ở đây, nàng lúc đến cũng không để ý tới xung quanh không có ai qua lại, mãi cho đến khi có tiếng bước chân vang lên: “Cảm thấy quen thuộc sao?”.

Phượng Cửu ngẩng đầu, đón nhận mâu quang nhàn nhạt của huyền y thiếu niên. Trầm Diệp. Nàng thực cảm thấy có chút quen thuộc, bởi vì chiếc bình này có vài phần giống với chiếc bình hồi nhỏ nàng hay dùng để chơi dế. Nhưng nàng mơ hồ cảm thấy, Trầm Diệp hẳn là không hỏi nàng cái này.

Nàng chú ý tới, Trầm Diệp đưa tay lên khởi động ấn, ngay lập tức, kết giới trong chiếc bình lưu ly đã biến mất. Phương xa có tiếng sấm vang lên, tựa như tiếng quỷ gào khóc, bầu trời rộng quang đãng trong chốc lát phủ đầy mây đen. Ánh chớp lóe lên trên nền trời, mặt trời ẩn trong mây, lại lộ ra hình trăng bạc không tròn vẹn.

Ánh trăng khuynh thành. Không giống với sắc trời yêu dị này, trong chiếc bình, sương trắng mờ ảo dần dần dâng lên, tựa như đập vỡ vụn những sợi mây, từng tia từng luồng lượn lờ ở đầu ngón tay Phượng Cửu. Từng đợt lạnh băng xuyên vào xương ngón tay nàng. Khung cảnh như vậy, nhất định là có chuyện không lành, hoặc là có yêu quái đang bị thu phục, hoặc là bởi vì ai đó đang bày pháp thuật nghịch thiên.

Nàng cố nén sự mê muội đang dâng lên trong đầu, nhìn về phía Trầm Diệp: “Đây là… Đây là pháp thuật gì?”. Huyền y Thần quan chăm chú nhìn vào làn sương trắng đang tiến vào thân thể nàng, nhẹ giọng nói: “Ngươi có nghe nói, thần tiên sau khi chết, cũng có thể giống như người phàm trần, dùng đèn kết phách hoặc cách khác để tạo ra một hồn phách mới?”, chỉ dừng chốc lát, nhìn về phía nàng nói: “Cho dù hồn phách đã đốt trành tro bụi, ngay cả đèn kết phách của tiên giới cũng vô dụng, nhưng có người nói cho ta biết, nếu có thể tạo ra được cảnh này, chẳng những có thể lặp lại lịch sử từ lúc đầu, mà còn có công dụng giống như đèn kết phách bình thường, tạo một hồn phách mới cho người đã chết”.

Phượng Cửu ngẩn ra, nàng mơ hồ có một ấn tượng, chính mình tựa hồ đã từng hoài nghi, Trầm Diệp chính là người tạo ra thế giới này, nhưng sau này không có chứng cứ gì, lại vô luận như thế nào cũng không nghĩ ra. Hôm nay hắn hào phóng thừa nhận như vậy, nàng cảm giác mình cũng không có kinh hãi như trong tưởng tượng.

Nàng và Tô Mạch Diệp cùng tạo ra một vở diễn, vốn là có chút áy náy, thực không biết, Trầm Diệp cũng là đang diễn trò. Trong đầu nàng duy chỉ còn dư lại một chút thông minh, nàng hiểu rằng ít nhất phải giả trang bộ dạng khiếp sợ không biết gì hết, để chắc chắn rằng Trầm Diệp chính là người tạo ra A Lan Nhược chi mộng này.

Nhìn dáng dấp, có vẻ như hắn đối với bộ dạng đó của nàng không hề có chút hoài nghi. Tầm mắt đã có chút mơ hồ, nàng nghe được thanh âm hắn nhẹ vô vùng: “Sai lầm rồi, sai lầm rồi, ta chưa bao giờ nghĩ sẽ lừa gạt nàng ngay từ lúc đầu, nhưng vô luận như thế nào, nàng phải trở về, hận ta cũng được, xem ta như người lạ cũng được, đây cũng là kết quả, vì ngày này, ta đã chờ 230 năm rồi”.

Mỗi một lời nói ra, sắc mặt lại trắng thêm một phần, tựa hồ như mỗi câu nói này đều khiến hắn vô cùng thống khổ, hết lần này tới lần khác trong thanh âm đều là sự lạnh lùng. Đợi hồn phách màu bạc kia hoàn toàn tiến vào thân thể Phượng Cửu, nàng cảm thấy trước mắt tối sầm, vang lên bên tai một câu nói sau cùng, phảng phất như là đến từ thế giới bên ngoài: “Bọn họ nói, thế giới này là tâm ma của nàng, nhưng chỉ có ta biết, nàng không có tâm ma gì hết, người có tâm ma là ta*”.

*Giải thích thêm một chút về câu nói này: Ở Phạn Âm cốc (thực sự), người trong tộc Tỷ Dực Điểu cho rằng A Lan Nhược chi mộng là do chấp niệm của A Lan Nhược tạo ra (thường gây bất lợi với người rơi vào trong đó nên mới gọi là tâm ma), nhưng thực chất, A Lan Nhược chi mộng là do Trầm Diệp tạo ra, trong lòng hắn có tâm ma, còn A Lan Nhược hoàn toàn vô tội.

Phượng Cửu không hiểu được, lâm vào một cơn ngủ say, chính xác là một cơn thống khổ. Theo lý thuyết, ngất đi tốt ở chỗ, bản thân sẽ vô tri vô giác. Thân thể nàng lúc này đúng là không có tri giác, nhưng không hiểu sao lại vẫn có ý thức. Nàng trơ mắt nhìn hồn phách của mình cãi nhau với hồn phách của một người khác, loại thể nghiệm này, đối với ai mà nói, cũng coi là mới lạ.

Phượng Cửu lúc đầu thật ra thì không kịp phản ứng, lại đứng ở một bên xem náo nhiệt, cho đến khi hai luồng khí trạch trước mắt dây dưa càng mãnh liệt, thậm chí cắn nuốt lẫn nhau, nàng bắt đầu cảm thấy đau đầu, mới giật mình nhận ra trước mắt là hai hồn phách đang ở trong một trận chiến.

Nàng cảm thấy bản thân hôm nay vô tích sự đến ngạc nhiên, nàng thậm chí không có đủ sức lực để ngăn cản hai hồn phách kia, chỉ có thể khổ sở đau đớn, ngay cả chuyện vừa rồi ngón tay nàng bị dính trên chiếc bình lưu ly, nàng không có sức đánh trả, cũng là ly kỳ. Đầu đau giống như có một trăm tám mươi cái chiêng lớn đang đồng loạt gõ mạnh trong đầu, Phượng Cửu nhịn đau, phân thần suy nghĩ, vừa có cảm giác như nghĩ ra điều gì đó, lại thấy linh hồn của mình đột nhiên trở nên mạnh mẽ, bất ngờ nuốt lấy hồn phách của A Lan Nhược, mà trong lúc hồn phách A Lan Nhược tan biến, trong phút chốc, rất nhiều lông ngỗng và tuyết rơi ngập tràn trước mắt, trong chốc lát đã tích thành một trường kính trước mặt nàng.

Nàng không tính toán gì, đưa tay chạm vào mặt kính, lúc đầu ngón tay chạm vào mặt kính, một sức mạnh lớn bỗng nhiên kéo nàng vào bên trong. Còn chưa đứng vững, một đoạn trí nhớ bỗng nhiên gào thét kéo đến. Đó không phải là trí nhớ của nàng, là trí nhớ của A Lan Nhược. Phía sau trường kính kỳ diệu kia là cuộc đời của A Lan Nhược, A Lan Nhược đăm chiêu suy nghĩ, A Lan Nhược vui vẻ bi thương, trong phút chốc tất cả nàng đều có thể cảm nhận được.

Đoạn này giống như thể một chiếc đèn kéo quân, chở đầy những thế sự vụn vặt, di chuyển vĩnh viễn không ngừng nghỉ, nhưng không chuyển theo một vòng, mỗi lúc lại là một cảnh khác nhau. Phượng Cửu có chút ngạc nhiên, tình trạng này, chẳng lẽ là do hồn phách nàng nuốt hồn phách A Lan Nhược, khiến A Lan Nhược hóa vào bản thân nàng, thành một phần trong nàng sao? A Lan Nhược còn có thể sống lại theo lời Trầm Diệp đã nói ư, nếu như nàng sống lại, chính mình sẽ thế nào? Chuyện này liên quan đến vấn đề tính mạng, nàng suy tư trong chốc lát, cảm thấy loại chuyện nhàm chán này nên đợi lúc tỉnh lại suy nghĩ thì hơn, không nên lãng phí thời gian, trước mắt còn có… một chuyện cấp bách, vô cùng quan trọng cần nàng hao tốn sức lực và tinh thần.

Nàng nghĩ thông suốt điều này, lập tức đem nghi vấn kia vứt bỏ sau gáy, cõi lòng đầy hăng hái, toàn tâm toàn ý quan tâm một chuyện cấp bách khác đang chờ nàng khai quật – sau tình tiết A Lan Nhược gặp nạn với con khuyển đầu thú ở phía sau Kỳ Nam Thần cung, phát hiện ra chân tình của Trầm Diệp, vận mệnh của A Lan Nhược và Trầm Diệp, tiếp sau sẽ như thế nào? Nàng mất công suy tư tìm tòi trong trí nhớ, đánh thức nhiều chuỗi ký ức, thấy một số cảnh thực, là hai năm mà Mạch Thiếu nói có nhiều chuyện hắn không biết rõ.

Hai năm nặng nề đó, Phượng Cửu vui mừng vì mình đã đoán không sai, Trầm Diệp và A Lan Nhược quả thực có một đoạn chân tình. Bởi vì là ký ức của A Lan Nhược, tấm lòng A Lan Nhược đối với Trầm Diệp thanh bạch như nhật nguyệt, còn tấm lòng Trầm Diệp đối với A Lan Nhược, có lẽ ngày ấy A Lan Nhược không thấy rõ, cho nên hiện tại Phượng Cửu cũng không thấy rõ lắm.

Liên Tam điện hạ trên Cửu Trùng Thiên có câu danh ngôn, nói một đoạn tình thì thường là như thế nào, người khởi đầu vun vén cho đoạn tình đó nên là người như thế nào. Thí dụ như, thế gian có những đoạn tình oanh oanh liệt liệt, cũng có những đoạn tình tế thủy trường lưu*, còn có những tình yêu tương kính như tân*.

Có tình yêu sâu sắc nhưng lại nói mỏng, có tình yêu sâu sắc, nói sâu sắc. Không thể nói tình yêu của một người không giống với tình yêu của người khác, hay không thể nói tình cảm của người khác không được coi là tình. *Tế thủy trường lưu: làm một ít và kiên trì làm mãi; khe nhỏ sông dài (ví với làm đều đều, từng tí một không bao giờ ngừng) *Tương kính như tân: (vợ chồng) tôn trọng nhau; tôn trọng nhau như khách Nàng luôn luôn kính nể Liên Tam điện hạ là vị cao thủ chốn trăng hoa, lời đích thân Liên Tam điện hạ nói ra, đương nhiên sẽ quý giá như chân kinh.

Nàng đem chân kinh này thử nghiệm cho A Lan Nhược và Trầm Diệp, cảm thấy hai năm qua, Trầm Diệp có rất ít lúc thân cận với A Lan Nhược, trong lời nói không tìm ra được tình cảm lo lắng quan tâm nhiều lắm, nhưng có lẽ hắn chính là loại người tình cảm sâu sắc nhưng lại nói mỏng, tình yêu của hắn, là loại tương kính như tân.

Hồi ức hai năm quá mức vụn vặt, Phượng Cửu lười nhất là kiểm tra thực hư, tùy ý chọn lấy một chi tiết trong đoạn thời gian đó, mở ra. Cái đập vào mắt nàng là một hồ sen rộng rãi trong như gương, ở giữa có một ngôi đình đứng sừng sững, trên bàn đá trong đình đặt một bó hoa nhiều loài mà nàng không biết tên, bên cạnh bó hoa là một chiếc bình rộng miệng.

Trầm Diệp cầm một cuốn sách ngồi bên bàn đá, hai năm tối tăm, khiến cho một thân khí chất thanh đạm lạnh lùng lắng đọng lại nhiều hơn, ánh mắt hắn mải miết dán trên cuốn sách, thỉnh thoảng lại lật thêm một trang. A Lan Nhược ngồi bên cạnh hắn, chuyên tâm mân mê bó hoa trên bàn, thi thoảng đem cành hoa đã cắt tỉa vừa ý cắm vào trong bình, chốc lát lại đưa ra trước mắt hắn, để cho hắn xem xem nàng cắt có được hay không, có cần phải sửa lại gì hay không.

Liên tục như thế, Trầm Diệp đưa ánh mắt từ cuốn sách nhìn lên, nhàn nhạt nhìn nàng nói: “Ngươi tới ngồi bên cạnh ta, chính là đặc biệt tới quấy rầy ta đọc sách sao?”. A Lan Nhược giơ cành hoa hất hất cằm hắn: “Một người đọc sách đâu có gì thú vị, ta làm như vậy là đang chiếu cố đại nhân”, nàng cười, “Không phải là đại nhân một khắc cũng không muốn rời ta sao?”.

Trầm Diệp nghiêng đầu đi, đưa tay giật bỏ một chiếc lá có vẻ phiền phức trên cành hoa: “Bản lĩnh tự quyết của ngươi đúng là càng ngày càng tiến bộ, cành hoa này có vẻ hơi dài, lá cũng hơi nhiều”. A Lan Nhược thong dong cười một tiếng: “Đại nhân khen nhầm, ta chỉ là theo hiểu biết của mình mà phỏng đoán tâm tư của đại nhân thôi”.

Trầm Diệp đang nhận lấy chiếc kéo cắt hoa trong tay nàng, tay run lên nói: “Nếu ngươi còn gọi ta một câu đại nhân, tự xưng một câu ta nữa, ta sẽ ném ngươi ra ngoài đấy”. A Lan Nhược dịu dàng cười: “Đại nhân đã từng rất nhiều lần nói sẽ ném ta ra ngoài, nhưng cũng chưa từng ném lần nào”.

Nàng tháo bông hoa đang cài bên tai, ánh mắt hắn dừng lại trên khuôn mặt nàng một lúc lâu, nàng làm như không nhìn thấy, cắm cành hoa cuối cùng vào trong bình, lại nghe thấy hắn thấp giọng nói: “Quay lại”. Nàng quay đầu lại nhìn hắn, ánh mắt vẫn như mỉm cười: “Mới vừa rồi chỉ là câu nói đùa, chớ vì giận dỗi mà ném ta thật”.

Hắn không nói gì, đứng dậy hái một bông hoa nhỏ trong bình, khẽ cúi người, cài xuống bên tai nàng, ngón tay hắn dừng lại, nhẹ vuốt ve bên thái dương nàng rồi rút lại, cầm cuốn sách trong tay áo, ánh mắt lại nhìn lên cuốn sách. Trong khoảnh khắc yên tĩnh, hắn lại lật thêm một trang sách.

Nàng có chút sững sờ, đưa tay chạm vào bông hoa trên tai, hồi lâu sau, nhẹ giọng nói: “Ta có đôi khi cảm thấy chưa đủ, nhưng có đôi khi lại cảm thấy, ngươi như vậy cũng tốt”. Ánh mắt của hắn một lần nữa lại hướng lên, như thể có chút nghi ngờ: “Cái gì không đủ?”.

Nàng chỉ lắc đầu cười. Tia nắng ban mai nhuộm một màu ấm áp lên ngôi đình nhỏ, trời cao rộng, nước xanh thẳm, một mặt hồ trong veo, trong ánh nắng sớm hiện ra tư thái đẹp đẽ nhu hòa, hương hoa sen thoang thoảng. Ký ức về hai người trong đình dần dần nhạt đi, trong không gian núi cao nước rộng chỉ lưu lại một vết cắt đạm sắc.

Đoạn cắt này khiến cho Phượng Cửu xúc động, thậm chí còn cảm thấy, nếu chuyện của hai người họ có thể dừng lại mãi mãi ở thời khắc này thì thật tốt, nhưng theo như Mạch Thiếu nói, sử sách ghi lại kết quả của hai người sau hai năm đó lại vô cùng thê thảm. Phượng Cửu cảm thấy sách sử nhiều khi cũng không thể tin được.

Nhưng sau đó khi trải rộng trí nhớ ra, nàng kinh ngạc, những gì sử sách ghi lại về cái chết của Tướng Lý Khuyết cũng là không đáng tin cậy. Đêm ngày mười sáu tháng bảy, trong cung truyền ra tin tức, nói Thượng quân bệnh chết. Thân thể Thượng quân luôn luôn an kiện, cũng không biết là mắc bệnh gì, chỉ nói chết là chết.

Lúc tin tức truyền đến, A Lan Nhược đang cùng Trầm Diệp chơi cờ, quân đen rơi vào bàn cờ lách cách một tiếng, cục diện trở nên rối loạn, khuôn mặt Trầm Diệp trắng bệch không nói gì, đám người hầu vội vàng mang áo choàng tới khoác trên người nàng. A Lan Nhược bước nhanh ra cửa, vừa ra khỏi cửa liền quay đầu lại nói: “Vừa rồi mới chết vài quân, không tính là thua, thế cờ này tạm thời giữ lại, ngày khác ta sẽ cùng ngươi phân thắng bại”.

Trầm Diệp lên tiếng nói: “Chờ một chút”, đứng dậy hái một bông hoa trắng trong bình, chậm rãi đi tới bên cạnh nàng, gỡ ngọc trâm trên mái tóc nàng xuống, cài bông hoa lên tóc nàng, ngón tay khẽ vuốt ve trên thái dương nàng, sau đó dừng lại mới nói: “Đi đi”. Ba ngày sau A Lan Nhược rảnh rỗi trở về phủ, trong phủ hết thảy vẫn như thường, chẳng qua là vị Thần quan trường tạm trú hai năm ở Mạnh Xuân viện vừa mới được nghênh đón về Kỳ Nam Thần cung.

Lão quản sự lau mồ hôi lạnh trên trán hồi bẩm, nói đang muốn phái người vào cung truyền tin cho công chúa, không nghĩ công chúa đã trở về, Thần quan trường cũng vừa mới ra khỏi cửa được chốc lát, chắc cũng chưa đi được xa. Ngụ ý là công chúa nếu muốn nói lời tạm biệt với Thần quan đại nhân, lúc này đuổi theo vẫn còn kịp.

Lấy thân phận của A Lan Nhược, lúc này đuổi theo thì cũng không phải là chuyện có thể diện gì, lão quản gia vì nóng ruột nên không nghĩ tới, nhưng nàng lại rất bình tĩnh. Chẳng qua chỉ là thất thần trong chốc lát, cởi bỏ áo choàng, gỡ đóa hoa trắng đã khô trên tóc xuống, ngồi ngây ngốc một hồi.

Gió đêm thổi qua, cánh hoa bị gió thổi lạc, nằm trên mặt đất, lộ ra trên nền nhà bằng đá trắng được quét dọn không nhiễm chút bụi bẩn, giống như thể là vết bẩn trên đó. Nàng nhìn cuống hoa đã trụi lủi trong tay, cười khổ một tiếng: “Đêm đó ngươi đưa bông hoa này, thực ra là để nói lời từ biệt sao? Ta từ đầu tới cuối vẫn không phát giác ra”.

Vua nào triều thần nấy, quyền lực của bản thân trước mỗi vị quân vương khác nhau không phải là lúc nào cũng được giữ vững. Quyền hạn của Thần quan không can hệ tới tôn thất, nhưng là lúc Tướng Lý Khuyết còn tại vị đã tốn không ít sức lực để áp chế Thần quan, sắp xếp cho một người không có căn cơ lên làm thái tử, Tướng Lý Hạ.

Đây là nguyên do Trầm Diệp bị nghênh đón về Kỳ Nam Thần cung. Mặc dù đều là đế cơ một phương, những suy tính của Tướng Lý Hạ này, Phượng Cửu lại không thể hiểu được. Ở Thanh Khâu nhà nàng, ngũ hoang ngũ đế, mỗi nơi chỉ một đế vương, giống như nàng lên đổi vị thay cô cô.

Mà nàng còn nhớ cô cô nàng kể từ khi được nàng kế vị, mỗi ngày đều rất vui vẻ, ánh mắt nhìn nàng bao giờ cũng là sự cảm thông của một người từng trải. Vả lại các thần tử Đông Hoang phần lớn đều không có học, chỉ thích giả trang mình là dân chúng, đầu để tóc húi cua, bán hàng trên chợ.

Đối với bọn họ, Thanh Khâu là quốc gia thần tiên, tuy là nắm trong tay chức vị quyền hạn, nhưng há có thể giống với người phàm, để cho quyền lực che mắt mình? Mặc dù các thần tiên trên Cửu Trùng Thiên cũng tranh quyền tranh vị, nhưng đều là bởi vì cuộc sống nhàm chán, chưa từng trải nghiệm qua thú vui bán hàng, chỉ trải nghiệm cảm giác lộng quyền.

Phượng Cửu cảm thấy, những chuyện như vậy, tạm thời chưa nói đúng sai, nhưng đã giảm bớt đi chút ít hiểu biết của nàng về sự thực. Đoạn trí nhớ này khua chiêng gõ mõ, liên tiếp nối đuôi nhau, như thể là một dòng thác từ trên núi cao ầm ầm đổ xuống, đập vào đá vụn phía dưới đáy vực, khiến bọt nước lạnh băng bắn lên tung tóe.

Cái gọi là bi kịch, từ thuở khai thiên đến nay, luôn mang bộ dạng đột nhiên hoảng hốt rồi vô tình trở nên dữ tợn như vậy. Ký ức tiếp theo, giúp nàng giải thích rõ lời đồn trước kia Tô Mạch Diệp từng nói tới. Thì ra là, lời đồn kia cũng không phải là một câu vô căn cứ.

Ngày hai mươi hai tháng bảy, thời gian liệm Thượng quân đã sắp hết, ban đêm, phủ công chúa đột nhiên bị bao vây, A Lan Nhược bị khóa trong khóa sắt, áp giải vào Vương cung, còn tội danh gánh trên đầu nàng, chính là tội hành thích vua. Người xử án lần này chính là đệ đệ của Khuynh Họa phu nhân, cậu nàng.

Thượng quân đã băng hà, theo lý thuyết thì thái tử sẽ lên ngôi kế vị, nhưng thái tử Tướng Lý Hạ trước giờ luôn là kẻ không được coi trọng, với cái ghế thái tử ấy, tương lai chỉ có thể làm một Thượng quân bù nhìn mà thôi, còn quyền hạn tất cả đều sẽ rơi vào tay Khuynh Họa phu nhân.

Mà trong triều ai cũng hiểu được, vị quan xử án lần này chính là tâm phúc của Khuynh Họa phu nhân. Nói cách khác, người đặt ra tội danh này cho A Lan Nhược chính là mẫu thân của nàng, người sinh ra nàng, cũng là người muốn đẩy nàng vào chỗ chết. Ngày thứ bảy sau khi A Lan Nhược bị giam trong lao, Khuynh Họa phu nhân hạ mình vào trong lao thăm hỏi nàng.

Trong lao bẩn thỉu, một đống cỏ khô được dùng làm giường ngủ cho nàng, ở bên cạnh cửa lao đặt một chiếc bàn bằng gỗ mục, bên mép bàn là một ngọn đèn mờ mịt. A Lan Nhược một thân tố y, dựa vào bên bàn nhỏ luyện chữ, bên ngoài cửa lao đặt một chậu than, nàng viết xong một tờ, lính gác cửa đốt đi một tờ.

Khuynh Họa phu nhân quần là áo lượt bước trên thềm đá u tối trong nhà giam, nàng nghe được trên mặt đất truyền tới một thanh âm xột xoạt, ngẩng đầu nhìn người tới, lông mày nhướng lên: “Mẫu thân lại có ý muốn tới thăm ta, chứng tỏ mọi chuyện trong cung đều đã xử lý ổn thỏa rồi”, giọng nói hòa hoãn, như thể lúc này hai người không phải là đang gặp nhau trong lao ngục, mà là ở hoa viên trong Vương cung, gửi một lời chào hỏi bình thường.

Khuynh Họa mặc cung trang diễm lệ, dừng ở trước cửa lao hai bước, binh sĩ mở cửa lao rồi lui xuống. A Lan Nhược cầm trong tay một tờ giấy vừa viết xong, nói tiếp: “Trong lao khá bình yên, lúc đầu ta có chút không hiểu vì sao mẫu thân lại cho ta tội danh như vậy, nhưng giờ ngẫm nghĩ ra, có lẽ cũng đã rõ được phần nào nguyên nhân của nó”.

Khuynh Họa đạm thanh nói: “Ngươi luôn luôn thông tuệ”, ánh mắt dừng trên khuôn mặt nàng trong chốc lát, lấy ra một kiện văn thư kèm theo một bình sứ, suy nghĩ chốc lát, đặt lên trên mặt bàn đã mục: “Xem cái này một chút đi”, trong thanh âm nghe không ra tâm tình gì cả, nhưng so với những khi nàng thỉnh an trước kia, đã không còn có thứ tình cảm đáp lại lấy lệ.

Ánh nến mơ màng, chiếu trên tờ giấy, mơ hồ hiện ra nét mực. A Lan Nhược mở tờ giấy ra, ánh mắt lướt qua nét chữ cứng cáp bên trong. Ánh mắt lướt qua mỗi một chữ, sắc mặt lại trắng thêm một phần. Một lúc lâu sau, ngẩng đầu nhìn mẫu thân nàng, ngoại trừ sắc mặt có chút tái nhợt, ngón tay út có hơi run run, vẻ mặt vẫn thong dong, thậm chí khóe môi vẫn còn hiện ra nụ cười: “Trầm Diệp đại nhân viết những lời này, cấu tứ mạch lạc, đúng như văn phong thường ngày của hắn, không thừa không thiếu lời nào”.

Khuynh Họa nhìn nàng, ánh mắt giống như thương hại, một lúc sau, hỏi nàng: “Ở đây có quen hay không?”. A Lan Nhược tựa như cúi đầu suy nghĩ, một hồi lâu, cười nhẹ một tiếng, giải đáp nghi vấn: “Phụ thân cả đời quyết đoán, không ngờ cả đời lại thua ở một chữ tình.

Hắn ước chừng không thể ngờ tới, cho tới ngày hôm nay, mẫu thân ngươi vẫn chưa thôi nhớ tới phụ thân ruột của Quất Nặc. Quất Nặc quả thực là cái gai trong mắt phụ thân, phụ thân đuổi nàng ra khỏi Vương đô, xóa bỏ tiền đồ của nàng, lúc đó cũng chỉ vì cầu cảm giác thoải mái cho bản thân, không ngờ lại dẫn tới họa sát thân.

Nhưng mẫu thân ngươi ẩn nhẫn nhiều năm, chính là người chuẩn bị đại sự, đương nhiên không thể dừng bước tại đó, mẫu thân cuối cùng vẫn là muốn đưa Quất Nặc lên kế vị, đem quyền hạn của phụ thân nàng đoạt về, có đúng không?”. Nhìn ánh nến bên cạnh, lại nói: “Thái tử, ta, còn có Thường Lệ, chúng ta ngăn cản đường đi của Quất Nặc.

Thái tử không phải do mẫu thân sinh ra, đương nhiên mẫu thân sẽ không lưu tình. Trong đầu Thường Lệ trống trơn, trừ kiêu căng ra thì cũng không có gì, có lẽ khiến cho nàng phát điên là một cách tốt, tôn thất cũng không thể tôn sùng một cô nương bị điên lên làm Thượng quân. Nhưng hai nữ nhi nếu cùng bị điên sẽ khiến người khác hoài nghi, nhất định phải chết một người, mẫu thân bảo vệ Thường Lệ, ta đương nhiên không thể không chết”, nàng miễn cưỡng cười một tiếng: “Ta không biết mẫu thân cũng làm tới bước này, kế hoạch này của mẫu thân, một chút đường lui cũng không chừa lại cho ta”.

Trong lao một mảnh yên tĩnh như chết chóc, A Lan Nhược đặt tờ giấy xuống một bên, mở ra một tờ giấy trắng, chấp bút, một giọt mực rớt trên tờ giấy, nàng nhẹ giọng nói: “Mẫu thân hỏi ta ở đây có quen hay không, ngày đó bị mẫu thân vứt bỏ bên trong hang rắn, ta cũng đã từng chịu đựng như vậy.

Lần này mẫu thân giam ta trong ngục, còn nhớ tới ta thích luyện chữ, phá lệ mang mực giấy tới cho ta, để ta giết thời gian, làm sao có chuyện không quen chứ?”. Hồi lâu, Khuynh Họa nói: “Ngươi biết rõ, chuyện này không chỉ do một mình ta làm”. Cây bút trong tay A Lan Nhược run lên, tám chữ “Phù sinh đa thái, thiên mệnh định chi*” trên giấy vốn viết rất đẹp, cuối cùng vì một chút run rẩy mà trở nên xấu đi.

*Ý của câu: Kiếp phù du muôn hình vạn trạng, số trời đã định. Nhưng nàng vẫn viết tiếp. Khuynh Họa đưa mắt nhìn dòng chữ nàng viết, nhẹ giọng nói: “Trầm Diệp hắn từ nhỏ đã ở địa vị cao, ngay cả Thượng quân cũng phải kiêng kỵ ba phần, sinh ra đã là một hài tử rất có chủ kiến, ngay cả chuyện cứu Quất Nặc có thể khiến hắn tự hủy tiền đồ của mình; nhưng chuyện thế gian, mưu kế tốt nhất chính là không hướng tới tiền đồ của mình, chủ ý ban đầu của hắn vốn là có thể tính kế lâu dài khỏi chuyện bị lưu vong, ngươi lại tự ý chiếm hắn thành của mình, có biết, đây chính là phạm vào tối kỵ của hắn?”, nhìn nàng một cái rồi nói tiếp: “Mới vừa rồi ngươi than thở cho phụ thân của ngươi, nói hắn thua cũng bởi một chữ tình.

Phụ thân ngươi thủ đoạn, khiến ta sống không bằng chết, lại chỉ có thể ở bên cạnh hắn. Nhưng còn ngươi, mặc dù ngươi thông tuệ, nhưng ở chuyện này, so với phụ thân của ngươi thì còn xa mới bắt kịp. Trầm Diệp chỉ là góp vui lấy lệ, ngươi lại tưởng đó là chân tình, rơi vào tình thế này, không phải là bại bởi một chữ tình sao?”.

Ánh nến thưa thớt trải dọc trên tờ giấy. Trước kia cũng là nét chữ ấy, viết trên tờ giấy trắng, hỏi A Lan Nhược, hắn tìm được mấy hũ rượu ủ trong viện, có phải là của nàng hay không. Hôm nay vẫn là bút tích ấy, nhưng viết trên giấy lại là những lời hoang đường: “Tướng Lý A Lan Nhược hôm nay hành thích cha, lòng dạ ác độc, hung ác tàn bạo, việc ác rõ ràng, không bằng loài lang sói,…”.

Nét chữ rõ ràng trên tờ giấy tuyên thành, phía sau tám chữ mới viết, lại thêm một câu tám chữ nữa: “Ưu sầu úy phố, tự hữu tẫn thì*”. Gặp phải chuyện thống khổ không chịu đựng nổi, nàng thường an ủi mình như vậy. Tám chữ cứng cáp vừa viết xong, nàng thu bút, thấp giọng nói: “Mẫu thân nói góp vui lấy lệ, là ý gì?”.

*Ý của câu: Ưu sầu sợ hãi sẽ tự kết thúc. Ánh mắt Khuynh Họa nhìn nàng càng thấy thương hại, nói: “Hắn hướng Vương huynh của ngươi cầu một mối hôn sự”. A Lan Nhược chậm rãi ngẩng đầu. Khuynh Họa nói: “Không phải là cô nương có gia tài thân phận gì cả, được ở cái đoan trang trong sạch, là một tiên sinh trong học phủ.

Nghe nói cô gái này là từ trong phủ của ngươi đề cử ra, tên Văn Điềm, Văn Điềm, nghe cái tên thôi cũng thấy nhã nhặn lịch sự”. A Lan Nhược nhắm chặt hai mắt, một lúc lâu, nói: “Ta có chút mệt mỏi, mẫu thân về đi”. Khuynh Họa xoay người đi được hai bước, ngoảnh đầu lại nói: “Án tử của ngươi sáng nay đã được định, ba ngày sau hành hình, Trầm Diệp trưa nay đưa thư tới, nói muốn đem quyền hành hình chuyển cho Thần cung.

Ngươi phải tới Thần cung là chuyện tất yếu, những hình phạt của Thần cung so với trong lao này khắc nghiệt hơn rất nhiều, ta biết ngươi nguyện chịu hồn phi phách tán cũng không chấp nhận sự sỉ nhục này, nếu như thật sự chịu không nổi, thì dùng thuốc trong bình sứ tự kết liễu đi.

Ta đây là mẫu thân, có thể cho ngươi sự thương hại cuối cùng này”. Đợi thân ảnh của Khuynh Họa biến mất sau ánh nến nhàn nhạt, thân thể A Lan Nhược đột nhiên run lên, một ngụm máu tươi phun ra khiến tờ giấy trắng bị nhuộm đỏ loang lổ, ngọn đèn bé nhỏ tối tăm trong ngục đung đưa một hồi, rốt cuộc cũng bị dập tắt.

Thân ảnh của Khuynh Họa ngừng lại trên mặt đất, không bước đi nữa, A Lan Nhược ở trong lao bỗng nhiên lên tiếng, giọng nói khàn khàn: “Mẫu thân đối với ta, nói thương hại gì chứ?”. Sau một trận ho khan lại nói: “Mẫu thân còn nhớ được năm ấy Mạch sư phụ cứu ta ra khỏi hang rắn, lần đầu tiên ta thấy ngươi, bọn họ nói ngươi là mẫu thân của ta, ta thật cao hứng, bởi ngươi xinh đẹp như vậy.

Ta thấy ngươi đi về phía ta, liền vội vàng chạy tới phía ngươi, muốn xin ngươi một cái ôm, lại không cẩn thận vấp ngã. Ngươi đi qua ta, giống như không hề nhìn thấy ta, giống như ta là một gốc cây, một cây hoa, hoặc một tảng đá. Quần dài lướt qua mặt ta, ta dập đầu khiến cánh tay bị thương, ánh mắt ngươi nhìn thẳng xuống, cũng giống hệt như buổi tối hôm nay”.

Ngón tay Khuynh Họa cầm đóa mộc lan bên cạnh. Lại là một trận ho khan, nàng nhẹ giọng nói tiếp: “Kiếp này ta không biết yêu là gì, mẫu thân tiếc rẻ cho ta, cái chính mình giành được, mẫu thân lại hủy diệt, thật ra thì ta không hiểu được, vì sao mẫu thân có thể nhẫn tâm như vậy? Chẳng lẽ ta là kẻ thù của mẫu thân, thấy ta đau đớn là một chuyện rất thú vị sao?”.

Khóe môi Khuynh Họa giật giật, một hồi sau mới nói: “Nếu ngươi có thể luân hồi, kiếp sau ta sẽ trả lại ngươi”. A Lan Nhược cười nhẹ một tiếng, mệt mỏi nói: “Trần duyên với mẫu thân, nên kết thúc ở kiếp này thôi, nếu như còn có thể luân hồi, ta cũng không van xin gì cả, chỉ cầu sau khi luân hồi, sẽ không gặp lại mẫu thân nữa”.

Không gian tràn ngập trong sự trầm mặc, cước bộ của Khuynh Họa mỗi lúc một xa, âm thanh rất nhỏ, nhưng có thể nghe ra được trong bước chân thận trọng kia có chút hỗn loạn. Đợi thân ảnh Khuynh Họa biến mất sau cửa lao, một tên lính gác vội vàng chạy tới, thắp đèn. Cảnh tượng cuối cùng của đoạn ký ức này là A Lan Nhược ngồi bên một bàn với những tờ giấy trắng nhuốm máu, chậm rãi thắp lên một ngọn đèn, ngọn lửa chiếu lên những vết máu mơ hồ, tro bụi rơi xuống bàn gỗ mục, mang theo những đốm lửa nhỏ.

Tô Mạch Diệp từng hỏi nàng, nếu như có một ngày nàng vì Trầm Diệp mà cảm thấy phẫn hận thì sẽ là có chuyện gì xảy ra, lúc đó nàng chỉ nói giỡn một câu, rằng nếu vậy nhất định là bởi nàng bị phản bội, thí dụ như hắn yêu nàng, sau đó lại bỏ nàng yêu người khác. Lại không ngờ tới một lời như sấm, hắn thậm chí có lẽ chẳng bao giờ yêu nàng, ngay cả những thứ nàng cho là trân quý cũng đều là giả dối.

Nàng đưa mắt nhìn ngón tay bị ngọn lửa liếm, một hồi lâu, lẩm bẩm: “Thấy bộ dáng hôm nay của ta, có phải sẽ khiến cho ngươi hết giận hay không, Trầm Diệp?”. Hồi lâu, lại nói: “Ngươi có biết trả thù như vậy, đối với ta, có chút quá nặng rồi hay không?”. Ngọn đèn chiếu bóng dáng đơn bạc của nàng lên bức tường đá, dáng vẻ đoan trang thẳng tắp, nhưng lại vô cùng cô độc.

Thế sự khúc chiết, khó đoán như lòng người. Khó khăn đối với A Lan Nhược, cũng chưa chắc đã hợp ý Khuynh Họa. Một ngày trước khi bị dời đến Kỳ Nam Thần cung, A Lan Nhược bị cướp đi. Sắc trời phía sau Kỳ Nam sơn ấm áp, mặt trời chiếu ánh nắng chan hòa, trong rừng thi thoảng truyền tới vài tiếng chim hót, cách đó không xa, con khuyển nhân thú trong Thạch Lâm khoan thai phanh bụng phơi nắng, tất cả đều tường hòa yên tĩnh, giống như tất cả những thay đổi bất ngờ bên ngoài núi đều chỉ là phù vân.

Phượng Cửu nhìn thấy một bạch y thanh niên ngồi trên phiến đá cùng A Lan Nhược như đang giảng đạo, nhưng nàng không nhận ra được hắn là ai. Mái tóc đen của thanh niên vấn tùy ý bên trong mũ quan, khuôn mặt lạnh lùng như băng, trong tay cầm một cây gậy làm bằng thân cây ngô, bộ dạng giống như hận không thể dùng thân cây ngô gõ thẳng vào phía sau gáy A Lan Nhược: “Chuyện đã đến nước này, trong vương cung kia còn gì đáng giá để ngươi nhung nhớ? Ta thật vất vả mới cứu được ngươi ra, ngươi lại vội vàng muốn trở về, là vì Trầm Diệp sao?”, nói tới chỗ này liền có chút trầm ngâm, cầm cây gậy trong tay gõ gõ lên trên phiến đá: “Không đúng, đến lúc này mà vẫn quay trở về gặp hắn, không phải là tính cách của ngươi, ngươi xuống núi, rốt cuộc là muốn làm gì?”.

Bên cạnh phiến đá, hai cây đại thụ xanh tốt cao lớn, che bóng khiến cho phiến đá có thể trở thành một chiếc giường nằm, A Lan Nhược đưa mắt nhìn ra cảnh sắc phía ngoài rừng xa tắp, ôn tồn nói: “Ngươi từ trước tới giờ vẫn nói một câu, phù thế phù sinh, bất quá chỉ là một cuộc thể nghiệm*, ta cảm thấy rất có đạo lý, thể nghiệm nhiều năm là thọ dài, ít năm thì thọ ngắn.

Ta gần đây hiểu được, đoạn nhân sinh này của ta, thoạt nhìn có vẻ ngắn, nhưng thật ra cũng coi như là dài”, dừng một lát rồi nói tiếp: “Nếu như nói trong Vương cung còn có người nào đáng giá để cho ta nhớ, có lẽ là Vương huynh. Huynh ấy tính tình thường thường, không ham gì địa vị Thượng quân, trận chiến với Dạ Kiêu tộc, tuyệt nhiên không phải tình cờ mới có, đương nhiên là… kế sách của Khuynh Họa phu nhân, muốn mượn đao giết người, diệt trừ Vương huynh.

Vương huynh là người hiền lành, tất không ngăn được địch, một khi ra chiến trường sẽ không còn đường sống quay trở về”. *Ý của câu: Đời người là một kiếp phù du, suy cho cùng cũng chỉ là một cuộc trải nghiệm sự đời. Bạch y thanh niên cau mày nói: “Mặc dù Tướng Lý Hạ đối tốt với ngươi, nhưng đây là số mệnh của hắn, dưới tình huống này, ngươi có thể bảo vệ mạng sống cho hắn sao? Ngươi lúc này vừa mới ra khỏi đầm nước xoáy, cần gì phải tự dấn thân vào một lần nữa như vậy”.

A Lan Nhược chậm rãi đáp: “Ngươi hiểu tính của ta, đương nhiên biết ta không thể vứt bỏ Vương huynh không để ý. Ta sẽ ra chiến trường đổi vị trí cho Vương huynh, đến lúc đó cần ngươi chú ý coi chừng. Ngươi yên tâm, ta tiếc mạng vô cùng, đắn đo cân nhắc, so với Vương huynh, không phải khắp nơi đều là đường chết, ta còn có cơ hội sống”, nhìn sắc mặt sa sầm của bạch y thanh niên, cười nói: “Sắc mặt này của ngươi ta chưa thấy nhiều, cũng may mà kiếp này, những người đối tốt với ta cũng không nhiều, ngươi và Mạch sư phụ không xui xẻo như Vương huynh của ta, không cần ta mạo hiểm cứu giúp như thế”.

Bạch y thanh niên ngưng mắt nhìn nàng chốc lát, nói: “Ngươi luôn luôn ngoan cố, ta lúc này có nói gì cũng không giữ được ngươi, nhưng chiến trường hung hiểm, lỡ như lần này ngươi không trở về được?”. Thần sắc nàng bình tĩnh: “Nếu như lần này không trở về được, mặc dù ta chết, cũng là lấy danh nghĩa chết trận của Vương huynh, so với chuyện Khuynh Họa phu nhân ép ta tự sát, cái chết này có ý nghĩa hơn nhiều.

Đến lúc đó phiền ngươi đổi lại tên họ cho Vương huynh, mang đến nơi an toàn, để cho huynh ấy sống cuộc sống bình thường thôi”. Một lúc lâu lại nói tiếp: “Ta từng viết cho Trầm Diệp hai mươi phong thư, làm phiền ngươi lấy trở về giúp ta, những tâm ý chân thật ấy, nếu tồn tại ở chỗ của hắn sẽ có chút buồn cười”.

Bạch y thanh niên thở dài một tiếng: “Những gì ngươi phó thác cho ta, ta sẽ nhớ, chỉ mong tới lúc đó không cần tới ta phải đích thân làm. Khi nào ngươi xuống núi?”. Nàng nằm ngửa ra trên phiến đá, tay đặt phía sau gáy, khóe môi nở ra một nụ cười: “Gió êm dịu, thời tiết ấm áp, hôm nay là ngày để ngủ, cho ta xin thêm nửa ngày rảnh rỗi nữa thôi”.

Cảnh đào nguyên phía sau Kỳ Nam sơn dần dần biến mất dưới ánh hoàng hôn nhàn nhạt, Phượng Cửu đè nén tâm tư nặng trịch, cố gắng gợi lên đoạn ký ức cuối cùng. Cô cô Bạch Thiển của nàng rất thích đọc thoại bản*, nàng từ nhỏ ở bên cạnh, đương nhiên cũng đã từng đọc qua khá nhiều.

Những chuyện xưa đau thấu tâm can như thể lấy ra từ trong những bình chứa nước mắt, nàng đã đọc không biết bao nhiêu, nhưng so với chuyện trước mắt này, lại không thể sánh được. Đoạn ký ức này thậm chí không có lấy một nửa giọt lệ, nhưng lại giống như một thanh kiếm tuyệt thế, vô cùng lãnh đạm, vô cùng âm u, lúc đoạt đi tính mạnh con người ta thì gọn gàng linh hoạt, tuyệt không có sự ướt át bẩn thỉu.

Đau thương của A Lan Nhược thật yên lặng, đau đến vô cùng tĩnh lặng, ngay cả khi chết, cũng rất yên lặng. *Thoại bản: một hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này (có thể hiểu là truyện dân gian).

Tô Mạch Diệp nói với Phượng Cửu, sử sách ghi lại năm ấy, Tướng Lý Hạ ngự giá thân chinh, chống cự với kẻ địch mười bảy ngày, lực yếu hơn, chết trên chiến trận. Nhưng sự thực sau cùng che giấu phía sau tờ giấy mỏng, Phượng Cửu đã thấy hết trong đoạn hồi ức này. Chết trận không phải là Tướng Lý Hạ, mà là A Lan Nhược.

Cùng Dạ Kiêu tộc đánh một trận, nguyên nhân là do tộc Tỷ Dực Điểu dung túng dân chúng vượt biên săn thú, hai tộc khai chiến, chiến trường này đương nhiên nằm ở biên cương, nơi có sông Tư Hành xuyên qua, chảy xuôi tới vùng đất phía nam, vượt qua nhiều núi đồi, hòa dòng chảy vào với biển.

Đoạn sông hay được nhắc tới trong thơ ca, chính là đoạn Nam Tư Hành, bên cạnh sông có rừng cây trồng toàn những cây nhạc âm. Tỷ Dực Điểu và Dạ Kiêu hai tộc dùng nơi này làm biên giới phân chia. Ngày bảy tháng tám, A Lan Nhược ra chiến trường. Chiến sự nổ ra, chỉ mới sáu ngày, tộc Tỷ Dực Điểu đã mất một bộ phận lãnh thổ lớn, bị đẩy lui về phía nam sông Tư Hành.

Tám vạn đại quân tổn thất hai, ba vạn, năm vạn binh sĩ cùng mười hai vạn hùng binh của Dạ Kiêu tộc đứng cách một con sông, đối mặt với nhau. Từng đạo quân lệnh cầu binh trợ giúp liên tiếp được đưa vào Vương thành, Khuynh Họa lại làm như không nghe thấy, án binh bất động.

Trước có hùng binh, sau không ai giúp đỡ, tinh thần binh lính giảm sút, chưa dừng chiến đã lộ ra dấu hiệu thất bại. Lúc ấy, A Lan Nhược lẻn vào trong quân trướng, đánh ngất Tướng Lý Hạ, đưa đi rời khỏi quân doanh, bản thân mình mặc khôi giáp của hắn, trấn giữ trong trướng. A Lan Nhược dẫn năm vạn binh mỏi mệt, lấy lợi thế sông Tư Hành tạo Bán Nguyệt trận, đẩy lùi Dạ Kiêu tộc, ngăn cản bên ngoài thiên hà.

Giữa dòng Tư Hành máu chảy xuôi thuyền, trên bờ phía nam thây xác chất đầy, vốn là cuối mùa hạ, ban đêm từ bờ sông có gió mát thổi qua, lại chỉ thấy những thi thể thối rữa đầy mùi máu tanh. Trận Bán Nguyệt ngăn kẻ địch trong bảy ngày, khiến Dạ Kiêu tộc tổn thất năm vạn binh, nhưng bởi vì lương thảo không đủ mà lâu ngày không có cứu binh, tộc Tỷ Dực Điểu không chống chọi được với việc Dạ Kiêu tộc liên tiếp tấn công, cuối cùng tới nửa đêm ngày thứ bảy, trận pháp bị công phá tại lỗ hổng đầu tiên.

Sao hôm trên trời tỏa sáng, Vương tử Dạ Kiêu tộc vô cùng vui mừng, đang chuẩn bị nhận quân qua sông lại thấy dưới ánh trăng bạc, nhìn ra xa phía ngoài sông, trong tay quân chủ của kẻ địch bỗng hóa ra một cây cung sắt, một thanh âm xé gió lạnh ngắt đến thấu xương vang lên phá vỡ bầu trời đêm, vô vàn mũi tên dài bay thẳng tắp hướng về phía lòng sông, hóa thành ba cột trụ sắt khổng lồ, xếp thành một hàng trên mặt nước.

Chiêu Hồn trận. Sao hôm chợt bị mây đen cuốn đến che phủ, một luồng kim quang bắn ra từ nơi ba cột sắt dựng đứng giữa lòng sông. Sau khi vút lên bầu không trung, luồng kim quang ngưng tụ lại thành một con chim tỷ dực khổng lồ, lượn vòng quanh hai bên bờ sông, cánh chim như quạt gió, đánh đổ người ngựa đang trong tư thế hào hùng.

Cây cung sắt bên thân vẫn chưa được chạm tới, cơn gió mạnh thổi bay mũ sắt trên đầu, mái tóc đen dài xõa tung ra, để lộ một khuôn mặt lãnh đạm mà diễm lệ. Trong tiếng ngựa hí đầy tuyệt vọng, con chim tỷ dực màu vàng dừng lại trên cột sắt giữa sông, cánh chim bao trùm hơn nửa lòng sông, đôi cánh vỗ thêm một lần nữa, quanh thân tản ra vô vàn ngọn lửa.

Lửa cháy hừng hực thiêu đốt, giống như là lửa giận, chặn cả sông Tư Hành, làm thành một bức tường che chắn trước kẻ địch. Gió đêm thổi qua khiến cả cánh rừng nhạc âm leng keng rung động. Có tiếng nhạc truyền tới, chính là bởi rừng cây bị gió thổi tạo nên. Vì để mãi mãi ngăn trở kẻ địch bên ngoài thiên hà, A Lan Nhược sử dụng Chiêu Hồn trận, dùng hết linh hồn của mình.

Đây cũng là nguyên nhân khiến nàng hồn phi phách tán, là nguyên nhân thực sự. Bầu trời đen đặc như mực, trên dòng sông chảy xiết, lửa cháy cuồn cuộn, tiếng kêu gào thảm thiết của tộc Tỷ Dực Điểu xuyên qua rừng nhạc âm, trong rừng tấu lên tiếng ca kỳ diệu, phảng phất như có ai đang than khóc cho cái chết của vị công chúa.

Mà mịt mù trên dòng sông dài, những bông hoa nhạc âm nho nhỏ màu trắng cũng không sợ cơn gió nóng, giống như những con chim nhỏ bay lượn giữa sông, lại như một cơn mưa tuyết nhẹ nhàng. Có một đóa hoa cố chấp, bất chấp khó khăn bay tới đáp xuống bên tóc mai A Lan Nhược, nàng giơ tay lên, đem nó gài vào bên tóc mai, ngón tay khẽ vuốt ve bên thái dương một lát rồi ngừng.

Đó là thói quen thường làm của Trầm Diệp mỗi khi cài hoa lên tóc nàng. Nàng ngẩn người, một hồi lâu, lại nở nụ cười. Con chim tỷ dực màu vàng cuối cùng hét lên một tiếng, nàng mân mê bông hoa cài bên tóc, chậm rãi nhắm hai mắt lại. Cảnh tượng nơi dòng sòng yên lặng như một bức tranh điêu khắc, chỉ có ngọn lửa không tắt, mà vị công chúa có mái tóc dài đã dựa vào cây cung sắt, tiêu hao hết tính mạng, đi vào cõi hư vô.

Đại hỏa ba ngày không tắt, lúc dập tắt, công chúa và cây cung sắt đã hóa thành cát bụi, chìm vào trong dòng sông dài. Đây cũng chính là đoạn kết thúc cuộc đời A Lan Nhược. Phượng Cửu trước sau vẫn không thể hiểu được, khi nở nụ cười cuối cùng kia, A Lan Nhược đang suy nghĩ điều gì.

Ra khỏi đoạn ký ức này, trường kính phía trước đã phủ đầy tuyết rơi. Phượng Cửu đưa tay đẩy mặt kính, bỗng dưng trước mắt tối sầm, một khắc trước lúc bản thân mất đi ý thức, nàng cảm thấy, bản thân mình đã muốn ngất đi từ lâu, nếu sớm ngất đi như vậy thì thật tốt.