Tinh Trầm lại sốt đứt quãng mấy hôm, cuối cùng cũng gần khỏe hẳn trước ngày xuất phát.

Đêm trước khi đi, sư phụ gọi mấy người chúng ta đến một tịnh thất trên đỉnh Mộ Vãn. Khi ta và Tinh Trầm đến tịnh thất, Tễ Nguyệt sư huynh và Mạn Mạn sư tỷ đã tới rồi, họ đang ngồi chỉnh tề trong phòng chờ sư phụ.

Từ khi đến núi Lưu Ba tới nay, ta luôn gặp đúng dịp sư phụ già nhà mình đi phiêu du khắp nơi, nên chưa có cơ hội nghe thầy dạy bảo thêm. Bởi vậy tâm trạng ta bây giờ cực kỳ kích động. Ta và Mạn Mạn sư tỷ tò mò nhìn ngó xung quanh, cuối cùng châu đầu thì thầm to nhỏ với nhau. Chuyện ăn ở của sư phụ quả thực khá mộc mạc, trong tịnh thất này chỉ có một chiếc chiếu trúc màu xanh bích, trên đấy bày một chiếc bàn nhỏ, bộ đồ pha trà trên bàn cũng rất cũ kỹ. Chỉ có chiếc lư hương để trên trường kỷ dưới cửa sổ là đang đốt loại hương xịn rất thơm.

Tinh Trầm và Tễ Nguyệt sư huynh y như hai con nhím đang xù lông, nhưng lại không dám l0 mãng trong tịnh thất của sư phụ, đành một kẻ quản Đông, một người chịu Tây, đến cả ánh mắt cũng như đang chia cắt địa bàn, chẳng ai chọc vào ai cả.

Chỉ một lát sau, sư phụ đã mỉm cười đi đến, vô cùng hiền hòa kêu chúng ta ngồi lên chiếu. Thầy cũng ngồi xuống, tự pha trà cho chúng ta.

Ta nhận một tách trà màu đỏ nhạt từ tay sư phụ, còn chưa kịp uống, hương trà độc đáo đã thấm vào người tới nỗi đê mê. Bấy giờ ta mới kinh ngạc nhận ra thức trà mà sư phụ pha cho chúng ta là một loại trà hiếm.

Mạn Mạn sư tỷ cầm chén trà, cũng ngạc nhiên nháy mắt vài cái với ta. Tinh Trầm nhấp một ngụm trà nhỏ, kinh ngạc hỏi: “Sư phụ dùng trà Sương Tiền Vũ ạ?”

Sư phụ cười gật đầu nói: “Con còn nhỏ tuổi, mà lại biết tên của loại trà này…”

Tinh Trầm gật đầu: “Khi đồ nhi còn rất nhỏ, con từng được thưởng thức một lần ạ.”

Sư phụ giật mình, cảm khái: “Năm xưa người trồng được loại trà này chỉ có thể là thím của các con, có lẽ trong cung Tử Vi vẫn còn giữ lại một ít…”

Ta tò mò hỏi: “Thứ cho đồ nhi ngu dốt, vì sao loại trà này lại có vẻ là một của hiếm có khó tìm ở đời thế ạ? Nhưng quả thực nó cũng xứng danh trân quý, đồ nhi còn chưa uống, chỉ ngửi hương trà đã say rồi.”

Sư phụ gật đầu nói: “Loại trà này quả thực rất hiếm, là món tuyệt phẩm, uống xong là hết.”

Mạn Mạn sư tỷ xuất thân đặc biệt, cũng có một ít kiến thức. Tỷ ấy hưng phấn nói: “Sư phụ, đồ nhi nghe nói loại trà này được trồng trên những đám mây mưa, không rễ không đất, thu hoạch trước tiết sương giá, nên mới gọi là Sương Tiền Vũ.”

Sư phụ gật đầu nhẹ, nói: “Con nói không tồi, nhưng hai chữ “Sương Tiền” vừa chỉ thời tiết, vừa là tên của người trồng trà…”

Tễ Nguyệt sư huynh thản nhiên nói: “Thím của con tên là Phong Sương.”

Sư phụ nói: “Quả vậy, Phong Sương thím con là sư tỷ của ta, cũng là đại đệ tử đời đầu của Lưu Ba. Khi đó trên đỉnh Mộ Vãn có một đám mây đổ mưa quanh năm, không rõ sư tỷ nảy ra ý hay từ đâu, tỷ ấy đã dùng lá phong như hạt trà, trồng ở trên mây. Mỗi năm trước tiết sương giáng, tỷ ấy đều thu hoạch được một vại mầm trà non mịn hái từ ngọn phong, đó chính là loại trà trong tách của các con đó.”

Mạn Mạn sư tỷ cảm thán: “Cha mẹ con cũng chỉ mới nghe về loại trà này thôi, chưa từng có duyên được nếm thử. Không ngờ đệ tử lại có phúc phận này…”

Ta ôm tách trà, lại cẩn thận nhấp một ngụm. Theo lời kể của sư phụ, quả nhiên khi hương thơm lan tỏa khắp đầu lưỡi, ta nhấm được một vị khó lòng gọi tên, tựa như sắc thu nhuộm đầy phong sương…

Ta nghĩ tới câu chuyện mà Tinh Trầm kể cho ta dưới ánh trăng hôm ấy, về kết cục thê thảm của thím hắn, người con gái tên là Phong Sương, ta không khỏi thấy chua xót trong lòng.

Sư phụ lại hàn huyên với chúng ta một lát về những chuyện xảy ra trong mê trận. Tinh Trầm vốn là một người vô cùng kiệm lời, đêm nay lại như đột ngột đổi tính, sư phụ hỏi gì cũng giành đáp trước, còn trả lời linh ta linh tinh, rất nhiều chuyện không ứng với tình hình thật trong trận. Ta thầm hoài nghi chẳng lẽ đầu óc ông tướng này chập cháy cái mạch nào rồi…

Sư phụ lẳng lặng nghe mấy đứa chúng ta mồm năm miệng mười kể chuyện, chỉ cười nhạt. Ta chưa bao giờ ở gần thầy lâu như thế, trong lòng rất đỗi vui mừng. Tinh Trầm cướp hết những lời ta muốn nói, ta nhàn quá chẳng có việc gì làm, đành phải chuyên tâm ngắm sư phụ. Chẳng rõ vì sao ngắm một lát, ta bỗng nhận thấy chút buồn bã nhàn nhạt trong ánh mắt bình tĩnh ôn hòa của thầy…

Ta khó hiểu buột miệng thốt ra: “Sư phụ, thầy có tâm sự ạ?”

Sư phụ nghe vậy thì đột nhiên ngơ ngẩn. Tinh Trầm, Tễ Nguyệt và Mạn Mạn sư tỷ cũng đồng thời nhìn về phía ta, mặt ba người đều tỏ vẻ khiếp sợ và cạn lời.

Ta vừa buột miệng là hối hận ngay. Đường đột quá, sao tự dưng lại hỏi vấn đề mất mặt như thế? Sư phụ già nhà mình có tâm sự hay không, chẳng lẽ lại để một đứa đệ tử vừa nhập môn không lâu như ta nhọc lòng ư…

Ta lén nhìn gương mặt kinh ngạc của sư phụ, đỏ mặt cúi đầu, hận không thể chui vào kẽ đất nào đó.

Sư phụ đột nhiên cười nhạt, hàng lông mày đậm nét của thầy sụp xuống. Thầy bưng tách trà lên nhấm khẽ một ngụm, ngẫm ngợi nói: “Ừ, sư phụ có tâm sự, sư phụ cũng nhớ sư phụ của mình…”

Sắc mặt ba người đối diện đồng thời thay đổi. Tinh Trầm khẽ nhăn mày, Tễ Nguyệt há hốc miệng, tách trà trong tay Mạn Mạn sư tỷ rơi đánh bốp xuống chiếu.

Ta biết ở núi Lưu Ba, đề tài về sư tổ luôn được giữ kín như bưng, đến cả tên của ngài cũng bị niệm chú cấm ngôn, không ai có thể nhắc tới được. Ngày ấy sau khi nghe Tinh Trầm kể hết chuyện cũ phủ đầy tro bụi của sư tổ, ta biết nhất định sư phụ có cảm tình sâu nặng với sư tổ. Nhưng dù vậy, sư phụ nhắc tới sư tổ không giấu giếm thế này, giọng điệu còn cực kỳ tự nhiên chẳng chút e dè, vẫn khiến ta vô cùng khiếp sợ.

Mạn Mạn sư tỷ gian nan há miệng, rụt rè hỏi: “Sư phụ của sư phụ, chính là kẻ đã chạy khỏi Đá Côn Luân, tên đại… đại…”

Trong khoảnh khắc chạm mắt với sư phụ, sư tỷ gắng gượng nuốt từ “ma” đã lên tới đầu lưỡi xuống.

Sư phụ lại cụp mắt, nói nhẹ tênh: “Người ấy không như những gì các con nghĩ đâu. Nếu quả thực đáng sợ như lời đồn, thầy đây đã chẳng cho các con xuống núi để toi mạng. Người ấy sẽ không làm hại bất kỳ đệ tử Lưu Ba nào đâu…”

Sư tỷ lúng ta lúng túng gật đầu. Lời của sư phụ tất nhiên đáng tin hơn những lời đồn mưa máu gió tanh bên ngoài nhiều. Như vậy xem ra, lần xuống núi thăm thú này của chúng ta có lẽ sẽ bình an nhẹ nhàng hơn nhiều. Sư tỷ có vẻ cũng có chung suy nghĩ, quay sang nở một nụ cười hiểu ý với ta.

Ai ngờ sư phụ lại đổi đề tài, nói tiếp: “Nhưng quả thật thế giới đang sóng gió khủng hoảng vì người đó. Hiện giờ chẳng có tấc đất nào ngoài núi là được yên ổn cả. Có quá nhiều kẻ muốn tìm người đó, yêu ma hoành hành, tâm ma cũng hoành hành. Lần này các con xuống núi du lịch, con đường phải đi sẽ nguy hiểm hơn bất kỳ lần nào trước đó, những kẻ sắp phải đối mặt cũng sẽ càng khó lường hơn. Mỗi đường đi nước bước các con đều cần tâm sáng như gương, tự mình giải quyết…”

Ta nghĩ đến câu chuyện thương cảm mà Tinh Trầm đã kể cho mình dưới trăng, đột nhiên cảm thấy chút trầm ngâm gợn sóng trong mắt sư phụ, như mảnh trăng lạnh lùng hôm ấy nhuốm dần vào lòng ta. Đó là vẻ lạnh lẽo dẫu có bao nhiêu vui mừng náo nhiệt cũng không thấm nổi, là sự mơ hồ hết cả đời cũng chẳng mấy ai có thể hiểu thấu…

Mà trong giây phút ấy, ta bỗng cảm thấy bản thân mình đã hiểu, mảnh trăng lạnh lẽo trong mắt thầy, hóa ra là nhung nhớ…

Trái tim ta không khỏi thấy đau xót, thành thật nói rất chân tình: “Sư phụ yên tâm, chúng đồ nhi chắc chắn sẽ mở to mắt sáng để tự lo thân mình. Ngài sư tổ hẵng còn tại thế, ắt sẽ có ngày gặp lại sư phụ. Sư phụ chớ nhớ nhung quá mà đâm khổ, nếu có duyên gặp được ngài sư tổ, đồ nhi nhất định sẽ truyền đạt tấm lòng của sư phụ cho ngài ấy,…”

Mạn Mạn sư tỷ kinh hãi trợn tròn mắt, mồm Tễ Nguyệt sư huynh càng há to hơn, chỉ có Tinh Trầm vẫn thản nhiên nhấp trà. Ánh mắt hắn nhìn ta từ đầu chí cuối luôn như mèo ngắm chuột, vừa thờ ơ vừa có chút tinh nghịch bất hảo.

“Sư tổ…”

Mặt sư phụ lại hơi xúc động.

Thầy lẩm bẩm lặp lại lần nữa: “Sư tổ…”

Đột nhiên, mặt thầy giãn ra thành nụ cười, còn bật cười thành tiếng: “Sư tổ có khác…”

Thầy nhìn ta, mảnh trăng lạnh lẽo trong ánh mắt trở nên sáng tỏ rạng ngời: “Con đúng là một đệ tử khiến người khác vui lòng.”

Sư tỷ chua xót liếc ta. Ngày xưa tỷ ấy từng nói với ta, sư phụ tuy hòa ái dễ gần, nhưng lại cực kỳ nghiêm khắc từ trong xương cốt, muốn có được một lời khen của thầy quả thực còn khó hơn cả lên trời.

Còn ta chỉ cần dùng một câu, đã khiến thầy vui như hoa nở…

Ta thẹn thùng cười với sư tỷ. Chịu thôi, muội thật sự là một chiếc bình ai gặp cũng quý á...

Sư phụ cười mất một lúc, rồi mới dần nghiêm mặt lại nói với chúng ta: “Sau khi buổi tế truyền đăng ngày mai kết thúc, các con phải rời khỏi núi Lưu Ba ngay, đến núi Tu Di lấy mồi lửa, sau đó xuống thăm thú nhân gian. Bây giờ thầy có mấy câu muốn dặn dò các con…”

Ta lập tức ngồi thẳng lưng, chăm chú lắng nghe.

Sư phụ dừng một chút, vẫn ôn hòa nói: “Người trẻ luôn kiêu ngạo hơn trời, mắt cũng luôn hướng về biển cả xa vời, tam giới mênh mông dường như cũng chẳng đủ cho các con tung hoành ngang dọc. Thầy cũng từng như các con, thầy biết hôm nay thầy có dặn các con phải cẩn thận, bình tĩnh, thận trọng, vân vân thế nào, cũng chỉ là lời gió thoảng bên tai với các con thôi. Nên hôm nay thầy chỉ có mấy lời châm biếm muốn chia sẻ cùng các con. Các con phải biết thứ các con tưởng là trời rộng, thật ra chỉ là một mảnh nhỏ con ếch dưới đáy giếng ngẩng đầu lên nhìn thấy. Chỗ các con tưởng là biển xa, chỉ là cái ao nông mà con cá chép hoa cả đời không bơi ra nổi. Các con tự cho là mình đã tung hoành ngang dọc, nhưng các con chỉ là mấy chú ngựa hoang thoát cương. Các con tưởng mình thơ rượu hào hùng, nhưng chỉ là một đoạn tuồng ê a ra vẻ trên sân khấu. Các con tưởng mình đã biết lòng người hiểm ác, nhưng đó chỉ là mấy cái ngáng chân vụng về. Hạt vừng mới trải qua chút đỉnh, đã cho rằng mình từng biết bão tố gió sương. Nếu các con biết gió sương thật sự là gì, chắc chắn sẽ cảm thấy hổ thẹn vì sự thiếu hiểu biết gan lì hôm nay. Bắt đầu từ thời khắc các con bước ra khỏi cửa núi trở đi, sẽ không còn ai chịu trách nhiệm về việc sống chết của các con thay các con nữa. Các con cũng phải tự trải lòng người. Nếu các con còn sống sót trở về sau lần rèn luyện này, thầy sẽ tự pha trà tẩy trần cho các con. Khi đó muốn kể cuộc đời bao la hùng vĩ, hay tán dóc hôm nay trời Thu lạnh quá, đều là tùy ở các con…”

Ta nhìn ba người cùng nghệt mặt y như ta, cảm khái trong lòng: Đúng là một đoạn cổ vũ động viên trước lúc chia tay hết sức mới mẻ sáng tạo…

Trong buổi nói chuyện trước lúc chia xa, sư phụ đã hất 10 lu nước lạnh vào mặt chúng ta. Vậy nên khi mấy đứa chúng ta xuống núi, quay lưng lại với vùng núi biếc thung ngàn mây mù quanh quẩn của Lưu Ba, đối mặt với mặt nước Đông mênh mông trời bể một màu, chúng ta bỗng cảm thấy bi tráng rất kiểu tráng sĩ một đi không trở lại. Đến cả Mạn Mạn sư tỷ trước kia còn nhảy nhót lung tung kêu gào muốn xuống cõi phàm đú đởn cũng nghiêm mặt lại. Khi xoay người quay lưng với bè bạn cùng sư môn, hốc mắt tỷ ấy còn đỏ lên.

Cảm xúc buồn bã buổi biệt ly của ta còn đậm sâu hơn Mạn Mạn sư tỷ, bởi vì sau khi trở về vào đêm qua, Tiểu Thạch Lựu và Thiên Thanh một đứa treo cổ một đứa nhảy sông, láo nháo hết cả lên, nằng nặc đòi ra ngoài du lịch với ta. Nhưng núi Tu Di không phải là mảnh đất mà tụi yêu quái thành tinh nhỏ nhoi có thể đặt chân được, ta thực sự không thể đưa hai đứa nó ra ngoài, đành nhân lúc đêm về chúng đã say ngủ, lén gõ cửa sổ phòng Bạch Chỉ tiên quân, xin lão cho ta mượn hai con sâu ngủ.

Bạch Chỉ tiên quân tỉnh mộng đẹp vì bị ta quấy nhiễu. Trông biểu cảm lúc lão đưa sâu ngủ cho ta, lão đúng kiểu chỉ mong ta chính là một con sâu ngủ trong tay lão, để lão b0p chân tươi mới đủ hả giận.

Ta phải khổ tâm hết sức đặt sâu ngủ lên người Tiểu Thạch Lựu và Thiên Thanh, đoạn lưu luyến bỏ đi. Còn chưa ra khỏi cửa núi, ta đã ngóng trông tới ngày đoàn tụ với hai đứa…

[HẾT CHƯƠNG 43]