Địch Thanh bên cạnh trấn an:
- Chấn Viễn, chuyện này... thật khổ ngươi.
Cát Chấn Viễn đột nhiên cười ha hả:
- Chỉ huy sứ, tất cả đều trôi qua, giống như uống rượu say vậy. Ngày thứ hai tuy đau đầu, nhưng sẽ không còn nữa. Ty chức không cần đảm đương trách nhiệm cho bọn họ. Ty chức cũng sẽ không trách cứ cái gì. Ban đầu Ty chức đánh cuộc một lần, ngài chết rồi, Ty chức cũng muốn chết. Ngài sống... ha ha, Ty chức đạt được ước nguyện, không thẹn với lương tâm. Được rồi, rượu tận hứng rồi, nên nghỉ ngơi.
Nói xong, y đứng lên, thất tha thất thểu bỏ đi, lại té ngã xuống đất.
Địch Thanh vội vàng đỡ Cát Chấn Viễn dậy. Thấy y đã say khướt bất tỉnh nhân sự, trên mặt đầynhững giọt nước, cũng không biết là rượu hay là nước mắt.
Địch Thanh cõng Cát Chấn Viễn về doanh trướng. Liêu Phong chủ động yêu cầu chăm sóc Cát Chấn Viễn. Địch Thanh không biết tại sao, nhớ tới Trương Ngọc và Lý Vũ Hanh năm đó, trong lòng cảm thán. Sau khi để Liêu Phong ở lại bên cạnh Cát Chấn Viễn, ra khỏi doanh trướng, Địch Thanh nhớ tới sự cổ quái của Phi Tuyết, khó lòng ngủ được.
Hòn đá đó của Phi Tuyết sao có thể kỳ quái như vậy? Phi Tuyết làm sao khiến hai thanh niên trai tráng phát điên? Tại sao cảnh tượng năm đó, Cát Chấn Viễn qua nhiều năm thế này, nhớ lại còn kinh hãi như vậy?
Phi Tuyết rốt cuộc còn có bao nhiêu bí mật? Cô ấy thật sự biết Hương Ba Lạp ở đâu? Nếu cô ấy thật sự biết Hương Ba Lạp, ở đó là thánh địa Đào Nguyên, tại sao cô ấy không ở đó, ngược lại vẫn phiêu đãng khắp nơi?
Địch Thanh nghĩ mãi không hiểu, giơ tay vào ngực lấy bánh xe thời gian. Đó là thuốc của Phi Tuyết để lại, có thể xóa đi tuổi tác.
Bánh xe thời gian, cái tên rất kỳ quái. Địch Thanh âm thầm nghĩ tới.
Địch Thanh sờ tay vào ngực, không có lấy ra dược phẩm, lại đụng phải cuốn Tả Thị Xuân Thu của Phạm Trọng Yêm đưa cho. Địch Thanh tâm tư khẽ động, lấy cuốn sách đó ra, tùy tiện lật, thấy trang đầu viết “Thanh Bá mộng thiệp hoàn, hoặc dữ kỷ quỳnh côi, thực chi, khấp nhi vi quỳnh côi, doanh kỳ hoài... Hoàn tự trịnh, nhâm thân, chí vu ly thận nhi chiêm chi, viết: dư khủng tử, cố bất cảm chiêm dã. Kim chúng phồn nhi tòng dư tam niên hĩ, vô thương dã. Ngôn chi, chi mộ nhi tốt.”
Địch Thanh không giỏi văn, nhưng cũng xem hiểu những lời này, biết văn này là nói có một người tên Thanh Bá nằm mơ vượt qua Hoàn Thủy, có một người đem một loại châu báu tên là Hồn Quỳnh cho Thanh Bá ăn. Sau khi Thanh Bá ăn, nước mắt khóc ra đều trở thành hạt châu. Sau khi Thanh Bá tỉnh dậy, vẫn không dám xem bói, vì miệng ngậm ngọc châu vốn là tang lễ của người sau khi chết mới có. Hơn nữa phần là giấc mộng mang điềm xấu! Ba năm sau, Thanh Bá quay về nước Trịnh, nói với người bên cạnh, y sợ chết, cho nên không dám xem bói. Nhưng bây giờ đã ba năm rồi, chắc không sao. Không ngờ y nói ra chuyện này, đêm đó thì chết.
Địch Thanh thầm nghĩ:
- Không ngờ sách cổ cũng ghi chép lại câu chuyện hoang đường bất kham này. Nhưng... chuyện xảy ra bênh cạnh mình, chẳng phải nhiều đều rất quái đản? Ánh mắt lưu chuyển, thấy trang giấy đó lại viết mấy lời bình, trong nét chữ đoan trang thanh tú lại mang tâm trạng thanh nhàn.
Mấy chữ này là “không thẹn với trời, sợ gì chết?”
Địch Thanh không biết viết lời bình là ai, nhưng nghĩ tới đôi mắt đa tình đó. Nếu không phải người như vậy, cũng không viết ra lời bình cuồn cuộn oai hùng thế này.
Không thẹn với trời, sợ gì chết!
Địch Thanh nhìn bảy chữ này rất lâu, lúc này mới nhẹ nhàng thở dài, khép sách lại, nghĩ tới giấc mộng của Thanh Bá. Địch Thanh chỉ cảm thấy trong đầu mông lung có chút suy nghĩ, như là nghĩ tới chuyện gì quan trọng, nhất thời lại nghĩ không ra.
Lửa trại rừng rực, Địch Thanh cũng có chút ủ rũ, chậm rãi nhắm mắt lại.
Ánh lửa dần dần tối lại, ánh sao dần mờ, giữa trời đất chìm vào tĩnh mịch vô biên. Không biết qua bao lâu, Địch Thanh bỗng nhiên mở mắt ra, vươn người đứng dậy, trên trán đổ đầy mồ hôi.
Hắn nằm mơ.
Một giấc mơ làm tim hắn đập thình thịch!
Cảnh trong mơ là một hang đá, hang đá bốn vách tường treo đầy họa cổ. Hắn nhớ đi qua chỗ này rồi, trong mơ hắn qua chỗ này.Hắn còn nhớ, những họa cổ đó vốn hẳn là tượng Phật không mặt, nhưng lần này những bức họa cổ đó không phải tượng Phật không mặt, mà là vầng lửa!
Hào quang cực kỳ diễm lệ, lại có bảy màu, dưới ánh sáng, là vùng đất mênh mông.
Hắn thấy qua vầng lửa này, nhưng không phải trong mơ, là ở trên cửa đường đá ánh mây ngũ sắc lăng Vĩnh Định. Hắn vốn cho rằng đã quên rồi, nhưng trong mơ lại rõ ràng như vậy.
Vầng ánh sáng đó, là ý gì? Trong lúc Địch Thanh kinh ngạc trong mơ, đột nhiên thấy xung quanh bốn bức tường bùng lửa, có năm mũi tên bắn ra.
Tên phân năm màu, là thần tiễn ngũ sắc, tên lông vũ ngũ sắc xây dựng triều đình của Nguyên Hạo. Địch Thanh kinh hãi, đang định né tránh, bỗng nhiên bừng tỉnh. Chưa hết tỉnh táo, hắn nghe được một âm thanh giống như trên trời truyền xuống:
- Đến đây!
Địch Thanh bừng tỉnh, khóe mắt không ngừng nhảy lên, thậm chí cái lỗ tai cũng co giật.
- Đến đâu, đi đâu?
Lần thứ hai nghe được cái âm thanh này, trong lúc đó trong đầu bạch quan chớp động. Lòng ngực Địch Thanh đau buốt, chẳng biết tại sao, nhớ tới Diệp Tri Thu nói “Khi rất nhiều kinh điển Phật truyền hay văn chú không thể nào lưu truyền tiếp. Phật sẽ đem những kinh điển đó giấu ở một nơi... giấu ở một nơi rất kỳ bí!”
- Phật đem những kinh điểm này giấu ở chỗ sâu trong ý thức một số người, cũng chính là giấu ở trong lòng ngực một số người, để tránh thất truyền. Tới lúc thời cơ chín muồi, thần linh sẽ mở ý thức những người này, lấy ra những kinh điển này lưu truyền hậu thế.
Địch Thanh thân hình đã run rẩy, khó hiểu mình tại sao nằm mơ đều là có liên quan với lăng Vĩnh Định Nguyên Hạo.
Chẳng lẽ nói, những giấc mơ này chỉ là ngày suy nghĩ, đêm nằm mơ.
Trong lúc đó đột nhiên nghĩ tới câu nói của Chủng Thế Hành “nghe nói ẩn mình cũng không cần thiết biết mình là ẩn, cần dựa vào hoàn cảnh kích phát. Ta nghe nói, loại người này luôn là trong giấc mơ có được gợi ý...”
Đich Thanh thân hình run lên, trong đầu như tia điện màu tím xẹt qua. Trên trán mồ hôi tuôn ra như suối, trong lòng chỉ có một âm thanh đang hô quát:
- Tại sao ta luôn mơ giấc mơ kỳ quái này, chẳng lẽ... là dẫn đường ta đi Hương Ba Lạp sao?
Nghĩ tới đây, suy nghĩ phức tạp liên tục, không thể ngăn chặn lại.
Địch Thanh bỗng nhiên nghĩ tới cái gì, giơ tay từ trong ngực lấy ra ngũ long. Thấy ngũ long sâu thẳm nặng nề, hình như có hào quang lưu động, rồi đột nhiên ngẩng đầu, trời đã tờ mờ sáng, sương mù se lạnh, thì ra trời đã sáng rồi.
Trời đã sáng, sương lạnh trên lá cây, chinh y lạnh lẽo.
Địch Thanh vừa nghĩ đến rằng mình có thể đang là ẩn, kích động không ngừng, lại không thể khẳng định, không nghĩ nhiều. Đột nhiên có tiếng bước chân truyền đến, quay đầu nhìn qua, nhìn thấy Phạm Trọng Yêm đang nhìn hắn.
Địch Thanh nhớ Phạm Trọng Yêm nói muốn tìm hắn, không ngờ Phạm Trọng Yêm sớm như vậy đã đến tìm hắn, hơi chút chần chừ nhưng vẫn đi nghênh đón:
- Phạm đại nhân tìm mạt tướng có chuyện phải không?
Hắn ở bên cạnh Phạm Trọng Yêm, bỏ qua thân phận của Phạm Trọng Yêm, giống như chào đón bạn hữu.
Phạm Trọng Yêm nhìn Địch Thanh như thoáng có chút suy nghĩ, gật đầu nói:
- Ta muốn ra trại đi dạo, ngươi có thể đi với ta được không?
Địch Thanh gật đầu, Phạm Trọng Yêm trở mình lên ngựa, giục ngựa chạy ra phía tây Nhu Viễn.
Võ Anh biết Phạm Trọng Yêm ra trại, không tiện ngăn cản, lệnh thủ hạ mang binh theo sau Phạm Trọng Yêm.
Phía đông rạng sáng, phía tây xanh đen. Địch Thanh và Phạm Trọng Yêm đi ngang nhau, tuy tâm sự nặng nề, thấy Phạm Trọng Yêm đi về hướng Tây Bắc hàng chục dặm, vẫn không nhịn nổi nhắc nhở:
- Phạm đại nhân, phía trước không xa là gần trại Hậu Kiều rồi.
Năm đó sau khi đám người Địch Thanh, Võ Anh, Cao Kế Long đại phá trại Hậu Kiều, liền đốt trại. Bây giờ trại Hậu Kiều tuy đã hoang vu, nhưng người Đảng Hạng và người Tống đều ở đây. Phạm Trọng Yêm đơn độc tiến đến, rất nguy hiểm.
Phạm Trọng Yêm ghìm ngựa, ngóng nhìn Tây Bắc hỏi:
- Ngươi sợ?
Địch Thanh trầm mặc không nói gì, Phạm Trọng Yêm quay đầu nhìn Địch Thanh mỉm cười nói:
- Ngươi đương nhiên không sợ, ngay cả điện Thiên Hòa của Nguyên Hạo, ngươi dám một mình đi vào ám sát. Trên đời này không chừng cũng không có chuyện ngươi sợ, ngươi là sợ ta có chuyện rồi.
Địch Thanh biết những chuyện này hơn phân nửa là Chủng Thế Hành nói, trầm ngâm nói:
- Phạm đại nhân nếu thật sự muốn điều tra tình hình quân địch, để ty chức đi làm được rồi, không cần tự mình lao vào nguy hiểm.
Phạm Trọng Yêm nhìn núi xa xa, hồi lâu mới nói:
- Ta không đích thân đi xem, thì khó có thể hiểu được nổi khổ của các ngươi. Kỳ thực chút nguy hiểm này của ta có là gì. Các ngươi vào sinh ra tử, mới là hung hiểm thật sự.
Địch Thanh trong lòng cảm thán. Lần đầu tiên thấy văn thần Đại Tống đối đãi với võ tướng như vậy, trầm lặng không nói.
Phạm Trọng Yêm lại nói:
- Ngươi có lẽ không biết, Nguyên Hạo lại xuất binh rồi, xuất binh trấn Nhung Quân.
Địch Thanh thầm giật mình, nghe Phạm Trọng Yêm nói tiếp:
- Lần này là Thiên đô Vương Dã Lợi Ngộ Khất lãnh binh. Thực lực binh đội của người Đảng Hạng hung mãnh. Trước mắt đã phá lô cốt sư tử Cảnh Tống, các trại như Triệu Phúc, Càn Hà. Quay lại tiến công thành trấn Nhung Quân. Hàn Kỳ Hàn đại nhân, đích thân trấn thủ ở trấn Nhung Quân.
Địch Thanh đột nhiên nghĩ đến Nguyên Hạo từng nói:
- Tây Bắc còn có một Hàn Kỳ, người này tính cương định. Tuy có chí lớn, nhưng khó nghe lời. Thư sinh dụng binh, cuối cùng có khuyết điểm. Lần này thì chọn y làmột điểm đột phá.
Hắn không kìm nổi nhịp đập nhanh của tim, muốn nói chuyện này, nhưng cuối cùng không thể mở lời. Hắn chỉ là Chỉ huy sứ, có tư cách gì bình luận Hàn Kỳ chứ?
- Hôm qua ngươi nói rất đúng, Nguyên Hạo quả thật là muốn cố hết sức lấy Quan Trung. Chỗ Quan Trung, mưu đồ Trung Nguyên. Đáng tiếc triều đình chưa đủ xem trọng. Thần sắc Phạm Trọng Yêm buồn bã, mặc dù bất khuất nhưng có mỏi mệt, có chút trầm tư:
- Theo ý kiến của ngươi, làm sao có thể chống lại việc tiến đến của Nguyên Hạo?
Địch Thanh hơi trầm tư, trả lời:
- Không thể cứ luôn thủ, lúc thích hợp có thể tiến công.
Trong mắt Phạm Trọng Yêm xẹt qua sự chờ đợi, hỏi:
- Vậy cụ thể làm thế nào?