Đầu mùa đông triều Tân Nguỵ, Vĩnh Phong năm thứ nhất, Thiên Cơ Tử chết tại thành Khúc Giang thuộc Doanh châu, bè đảng của Lỗ Tĩnh Vương đến đây bị tiễu trừ sạch sẽ.

Phó Trường Đình đích thân dâng Hách Liên Phong một tấu chương, “Yêu nhân phát bệnh trầm trọng, thất khiếu chảy máu mà chết.”

Hách Liên Phong chỉ phúc đáp vài câu ngắn ngủi, phần lớn chỉ mang ý nghĩa hành chính, chứ không truy cứu sâu nữa. Thiên hạ vừa mới ổn định, ngổn ngang thứ hoang phế cần được phục hưng, từ ngòi bút hư nhược có thể thấy được sức khoẻ thiên tử đã quá suy kiệt, hơn nữa tình trạng say xỉn lại càng nghiêm trọng hơn.

Sau đó, quốc sư Phó Trường Đình thượng tấu lần nữa, xin được tạm lưu lại Khúc Giang, lý do là muốn thanh tra những chuyện xảy ra sau huyết trận.

Sau khi diệt trận, tim người chôn dưới thụ trận được đào lên rất nhanh, đại thụ trong sân cũng bị cửu thiên lôi hoả đốt trụi. Nhưng tiến trình dọn dẹp hồ Lâm lại diễn ra rất ì ạch, đến giờ vẫn chưa xong. Thứ nhất là do hồ quá rộng, dòng chảy kỳ dị, lặn xuống nước tìm kiếm vô cùng nguy hiểm. Thứ hai, huyết trận vốn là chuyện huyền bí, những lời đồn đương thời bị thổi phồng quá trớn làm quấy nhiễu cuộc sống bách tính. Cho nên việc này chỉ có thể tiến hành trong âm thầm, không làm rùm beng. Vì vậy mấy năm qua phái Chung Nam chỉ đưa một số ít đệ tử đến đây bí mật dọn dẹp những thứ ô uế trong trận. Quan viên trong thành cũng hiếm người biết việc này.

Việc Phó Trường Đình nấn ná lại Khúc Giang cũng khá bất ngờ, triều đình nhanh chóng chuẩn tấu, nhưng nội bộ phái Chung Nam lại rộ lên bàn tán.

Chuyện xưa đều đã đóng nắp quan tài cả rồi, huống hồ do chính y động thủ, còn phải tra lại chuyện gì nữa? Trước sự nghi hoặc, băn khoăn, sửng sốt… đó, Phó Trường Đình ở bên trong thành Khúc Giang vờ như không biết không nghe không thấy, truyền một đạo pháp chỉ xuống. Các quán chủ của phái Chung Nam trong phạm vi địa giới Doanh châu, phàm là người quản lý sự vụ ở Khúc Giang, bất luận đang ở đâu, đảm đương việc gì, đều phải đúng ngày mà tề tựu ở Doanh châu, không được sai hẹn. Không thì sẽ luận tội theo 《 Chung Nam luật 》.

Chưởng môn vừa mới nhậm chức không lâu, song cách hành xử vô cùng thẳng thừng, hồ như không có chút nể nang. Ý chỉ vừa ban ra, ai nấy đều ồ lên.

Tới giữa tháng, những người có liên quan đến việc dọn dẹp huyết trận sau cơn hoả hoạn năm ấy đều đứng trước Phó Trường Đình, trình bày hết thảy những sự việc phát sinh sau đó.

Khác với thụ trận chôn những hộp gỗ đen chứa tim người, thứ vớt được dưới hồ là những cái bình sứ tròn, khi nung thì trộn lẫn với thứ như chu sa, vì thế toàn thân có màu đỏ sậm, sau đó dùng giấy vàng bịt lại, bình nhỏ lại cực nhẹ, xung quanh khắc đầy phù chú. Mặc dù bị ngâm lâu dưới hồ nhưng không hề bị phai màu, hư hỏng hay nứt rạn. Lấy tay chạm vào, lập tức có khí âm hàn xộc thẳng vào xương, có thể nói là vật cực kỳ tà ác.

“Sau khi người mất tích chết rồi, hồn phách sẽ bị nhốt vào trong bình sứ, thu nạp oán khí. Cuối năm ngoái khi bần đạo tiếp nhận việc này, hết thảy bình sứ đều được vớt lên. Sau khi nhậm chức, đã lần lượt phái ba đệ tử lặn xuống nước kiểm tra, không thấy sót lại gì nữa. Số lượng bình sứ cũng vừa khớp với số lượng hộp gỗ.”

Chưởng môn trẻ đứng chắp tay ở trước cửa, đối mặt với khoảnh sân. Lão đạo sĩ râu ria xồm xoàm hiện là quán chủ của Thanh Vân Quán ở ngoài thành Khúc Giang, người chịu trách nhiệm chung của những việc sau huyết trận. Mấy hôm liền, ông bị Phó Trường Đình gọi đến để hỏi chuyện ba lần rồi.

Đối diện với chúng đạo sĩ mỏi mệt còn nhem bụi đường, chưởng môn ít lời kiệm chữ chỉ hỏi ba vấn đề —— phát hiện ra cái gì? Ngoại trừ bình sứ ra còn có thứ gì khác không? Có từng tìm thấy cái gì lạ khác không?

Mà ba vấn đề đó hiện tại đã thành cơn ác mộng mỗi đêm của lão đạo sĩ.

Nghiêng người, len lén liếc mắt trộm nhìn bóng lưng trầm lặng của Phó Trường Đình, lão đạo sĩ khổ tâm trễ khoé miệng, nhấc tay lên quẹt mồ hôi lạnh trên trán.

Xét tuổi tác, y trẻ hơn quốc sư trước đây nhiều. Luận vai vế, y vượt cả sư phụ y một bậc. Từ hồi y còn chưa xuất sư xuống núi, cái danh thiết diện vô tư của vị tiểu sư tổ trong phái Chung Nam này đã nổi đình nổi đám. Có điều, ngoài thanh danh như mặt trời ban trưa, chẳng bao giờ thấy người này tỏ ra vui buồn, cáu giận như người bình thường. Nghe đồng môn trong kinh bảo, ngay cả lúc chưởng môn diện thánh, cũng chỉ rập một gương mặt gỗ lạnh băng như Diêm vương.

Nghĩ đến đây thì mặt lão đạo sĩ lại nhăn tít. Vốn tưởng y còn trẻ đã công thành danh toại, một bước lên mây, đáng nhẽ phải cởi mở thêm ít nhiều, dè đâu sau khi Thiên Cơ Tử chết, tính cách của y càng khó đoán. Cau mày, nghiêm mặt, nói còn ít hơn trước. Làm việc cũng cố chấp, tỷ như chuyện hiện tại, thái độ chất vấn tới lui của y với mọi người quả có phần độc tài.

Nghe đệ tử tuần tra đêm nói, lúc nửa đêm thường thấy y đứng một mình trong sân, cúi đầu trầm ngâm, thỉnh thoảng lại thấy y dợm bước như muốn ra khỏi cửa, song còn chưa đến trước cửa thì đã quành trở về.

Hai chữ ‘do dự’ vốn dĩ không nên gắn trên người Phó Trường Đình mới phải.

“Còn phát hiện gì nữa?”

“Ạch…” Lão đạo sĩ vẫn đang oán thầm bị câu hỏi bất ngờ làm giật cả mình, “Cái gì…”

“Trong hồ, phát hiện cái gì?”

Lại nữa rồi, lão trộm thở dài một hơi. Lão đạo sĩ lặp lại câu trả lời lần trước, “Khởi bẩm chưởng môn, ngoài bình sứ ra thì chỉ có xương người. Hài cốt đưa ra khỏi nước lập tức vỡ nát, thực sự không thể phân biệt của ai.” Quá tam ba bận rồi nhé.

Đông về, trong sân chỉ có cành nhánh khẳng khiu lặc lìa, chẳng có tý sức sống. Gió bắc sạt qua, cát bụi mù trời che lấp ánh dương. Trời đất một màu xám xám nhờ nhờ. Sắp có tuyết rơi… Phó Trường Đình hồi tưởng lại, quỷ kia nói thích tuyết rơi. Tuyết rơi rồi, có thể dạo phố vào ban ngày.

Đạo sĩ tính khô khan tiếp lời, thảo nào trong năm, hễ đến đông là lại lắm yêu nghiệt ẩn hiện.

“Người đó nha…” Người kia không khỏi ngó y. Ngón tay điểm trong không trung, đầu tiên là thở dài, sau đó là phì cười.

Y càng khó hiểu.

Người kia cười càng hả hê.

Người kia thích cười sự thiếu nhạy bén và khô khan của y.

Hài cốt này hẳn của đám đàn ông bị Ly Cơ dụ dỗ phải vùi thây dưới hồ. Thu hồi vẻ tư lự, Phó Trường Đình thấp giọng hỏi, “Còn gì nữa?”

“Hết rồi.” Mệt mỏi cúi đầu, lão đạo sĩ đuối quá nên ngỏ lời khuyên nhủ, “Hồ trận tuy vẫn chưa dọn sạch, nhưng đáy hồ đã được kiểm nghiệm nhiều lần rồi. Bên trong hồ ngoài những thứ kia ra, chỉ có rong rêu với đá tảng.”

Thân ảnh cao ngất nghểu đứng sừng sững bất động. Tia sáng đùng đục của ngày đông chiếu xiên qua khung cửa sổ, dọi lên khuôn mặt góc cạnh rõ ràng của y. Bỗng một trận gió thổi rào rào, sẽ sàng ấp theo vài hạt tuyết mịn. Trận tuyết đầu đông không hề có dấu hiệu báo trước đã trút xuống.

Lão đạo sĩ nghĩ mình hoa mắt chắc rồi. Bởi lẽ, ngay khi bông tuyết buông mình, ông nhìn thấy rõ bóng lưng của Phó Trường Đình thoáng lảo đảo, biểu cảm vững vàng ổn định như núi phút chốc vỡ nát. Mất mát và đau đớn nương theo vết rạn tràn ra đầm đìa.

“Thực sự, không có gì cả?” Giọng y trở nên thấp hơn, thấp như thể một tiếng nghẹn ngào vừa vụt thoát khỏi cổ họng.

Lão đạo sĩ hồi tưởng một lượt vô số lần thân chinh đến thành Khúc Giang, chòm râu hoa râm sắp bị vuốt rụng đến nơi, “Mấy cái khác… chỉ là đồ bỏ đi.”

“Đồ bỏ đi?”

“Vâng. Chúng bị ngâm không còn ra hình dạng nữa. Để tiện dọn dẹp, thỉnh thoảng cũng vớt lên một ít, đắp thành đống bên cạnh.”

Chén bể, đĩa vỡ, chân bàn… cành cây mục nát, toàn là đồ người ta bỏ đi, rồi tiện tay ném xuống hồ. Còn có khăn lụa, khuyên tai, ngọc bội đeo thắt lưng… cây tử đằng rục nát đến mức đụng vào là rữa ra, những thứ này chắc do không cẩn thận mà đánh rơi. Con người thường không biết đủ, lúc có thì nghĩ là không có, đến khi thứ từng có cũng trở thành không có, thì mới gạt lệ khóc ngập trời ngập đất. Ôi… cái sự đời…

Đầu nghĩ vẩn vơ, lão đạo sĩ lại lạc vào cõi thần tiên. Đến khi tỉnh hồn thì mới phát hiện vị chưởng môn không thích nói chuyện cũng lặng im nãy giờ.

“Chưởng môn, có gì cần căn dặn?” Nơm nớp lo rón rén từng bước một, rồi lại dè dặt hỏi. Lão đạo sĩ khao khát nhìn cánh cửa gần đó, một bóng đen vừa vặn nhoáng qua dưới mí mắt ông.

“Đi xuống đi.” Hồi lâu, Phó Trường Đình mới thảng giọng nói, ngữ điệu lay lắt như tiếng than dài.

Lão đạo sĩ vội vàng hành lễ cáo lui. Chỉ hy vọng ngày mai đừng có xách đầu lão nữa. Cứ hỏi mãi mấy chuyện đó, chưởng môn không thấy phiền, chứ lão đây mệt lắm rồi. Chưa kể, chưởng môn chỉ mới từng đó tuổi, mà sao giọng điệu lại già háp thế nhỉ?

Lão lại sinh nghi, đường đường là nơi ở của chưởng môn Chung Nam, làm sao có con yêu quái nào đủ can đảm bén mảng?

Mà thôi mà thôi, nhanh chóng nhấn nút biến mới là thượng sách. Trời đã lạnh chết bỏ rồi, lại đứng gần chưởng môn như tảng băng, sắp đông lạnh luôn cả khớp xương ông già này rồi.

Sáng hôm sau, trời còn chưa rạng. Lão đạo sĩ đang ngủ li bì, mơ thấy chưởng môn đã dông biệt, không còn tìm lão hỏi han nữa. Sau đó bị đồ nhi đánh thức, “Chưởng môn ở ngoài hồ, muốn xem vớt được gì ra khỏi hồ.”

Lão đạo sĩ đương ngái ngủ lập tức thấy có gió lạnh táp vào mặt, “Lão quân của tôi ơi…” nói rồi loạng choạng mặc áo xỏ giầy chạy đến hồ.

Lúc chạy đến thì Phó Trường Đình đã đi mất. Để lại đống đệ tử Chung Nam bàn tán xôn xao với một dấu hỏi to đùng. Bọn họ bảo chưởng môn đi vòng quanh đống đồ bỏ đó nhìn một chút, chọn ra không ít thứ gì đó mang về quán trọ rồi.

Vị tiểu đạo gia này hồi còn ở núi Chung Nam là một đứa trẻ rất ngoan ngoãn thủ lễ kia mà, sao lớn lên lại thành ra thế này nhỉ? Mặt lão đạo sĩ như đưa đám, lại tất tả chạy về quán trọ. Vừa vào đến sân sau đã ngửi thấy mùi chua loét nồng nặc. Lão đạo sĩ không đếm xỉa tới, bịt mũi lại, lảo đảo chạy đến bên dưới một tán cây hải đường.

Mùi chua trong sân bốc lên từ đống đồ vớt khỏi hồ, do bị ngâm lâu trong nước nên thứ nào thứ nấy đều có mùi thối rữa, cho dù đang tiết giá rét cũng không phai bớt mùi nổi.

Thế nhưng Phó Trường Đình đứng đấy dường như chẳng hề cảm nhận được, chỉ cầm một cái trống bỏi lên quan sát tỉ mỉ. Lão đạo sĩ không dám đến gần, chỉ dám nheo mắt nhìn từ xa, cái trống bị ngâm đến sắp rã, Phó Trường Đình vừa mới chạm vào thân trống, thì mặt trống như tờ giấy ướt đã rách toang, chảy ra nước đen, rớt xuống ống tay áo rộng thùng thình của y.

Một cục bùn rơi ra theo dòng nước đen. Nó cũng đen thùi, có lẽ từng là giấy hay gì đó, nhưng đã bị dính nhẹp thành cục, đừng nói là nhận ra chữ viết, nội việc trải phẳng ra đã bất khả thi rồi.

Vẻ thất vọng của Phó Trường Đình không thể nói thành lời.

Lão đạo sĩ thầm nghĩ, hoá ra là y đang tìm cái gì đó thật. Nhưng tìm thế này sẽ không ra đâu. Loại nước này cực sạch mà cũng cực bẩn. Có thể gột rửa vạn vật, đồng thời bao trùm muôn thứ. Cầm cố hồn phách, che giấu oán khí, song song xoá sạch hết thảy bí mật. Im hơi lặng tiếng, không lộ sắc khí.

Hôm đó Phó Trường Đình chẳng hỏi chẳng rằng câu nào. Lão đạo sĩ ở cùng với y trong quán trọ từ lúc hừng đông đến khi chạng vạng. Đống đồ trong sân đều được Phó Trường Đình xem xét bằng hết, lão đạo sĩ sai đệ tử mang rất nhiều thứ từ hồ đến. Vợ chồng chủ quán tốt bụng, đem ghế trúc đến cho lão đạo sĩ ngồi nghỉ chân. Không hiểu sao Phó Trương Đình nhìn thấy, đôi mắt sâu thẳm âm trầm nhìn lão hồi lâu không dời mắt. Lão đạo sĩ bị nhìn mà hết hồn, vội vàng bật dậy tránh xa ba trượng. Cong lưng ôm cây một hồi mới phát hiện, hoá ra Phó Trường Đình không nhìn ông, mà nhìn cái ghế trúc.

Trời ngả về tây, hừng sáng trong mắt vị chưởng môn trẻ cũng từ từ lụi dần rồi biến mất. Lần nầy nếu không phải mắt mũi kèm nhèm đứng xa không thấy rõ, hẳn lão đạo sĩ đã dễ dàng nhờ ánh hoàng hôn nhập nhoạng mà thấy nỗi tuyệt vọng và đau lòng ánh lên trong mắt y.

Vật cuối cùng y cầm lên cũng là một cái trống bỏi. Cái này có vẻ đỡ hơn cái trước, mới hơn. Mặt trống ướt sũng căng tức, Phó Trường Đình dùng kình khí xé ra, nước hồ dơ bẩn chảy xuống cổ tay, bên trong lộ ra mảnh giấy chưa rã nát.

Lão đạo sĩ phát hiện ra đầu ngón tay Phó Trường Đình đang run rẩy, lại nhịn không được mà len lén tiến đến rình.

Chữ trên giấy đã bị ướt lem nhem, chỉ có thể nhìn ra một vài nét bút. Chỉ là một bài vè vỏn vẹn bốn dòng: trời hoang mang đất hoang mang, nhà có trẻ nít khóc oang oang, quân tử đi qua đọc ba lần, một giấc ngủ thẳng đến hừng đông.

“Hầy…” Thở sườn sượt, lão đạo sĩ muốn phát khóc đi được. Loại giấy này ở đầu đường cuối ngõ nơi nào mà chả thấy. Tội tình thì phải hành chết bỏ để bới nó từ dưới bùn lên?

Phó Trường Đình siết mảnh giấy ướt đẫm, khuôn mặt tuấn lãng đằm trong sắc trời nhá nhem. Y đứng trong sân cả ngày trời, đạo bào tuyết trắng bị nước bẩn bốn phía vẩy đầy những vệt ố bẩn.

“Chưởng môn, có cần phải…” Lão đạo sĩ thấy y không có phản ứng quá lâu, nhín chút dũng khí mà đến gần hỏi.

Ở hồ còn mấy đống nữa, có cần tìm thêm cái khác nữa không?

Phó Trường Đình lắc đầu, xoay người đi một nước vào phòng, “Không cần. Xong hết rồi.”

Lão đạo sĩ không kịp phản ứng, thầm nghĩ, nhốn nháo xong rồi đấy phỏng?

Lại nghe Phó Trường Đình nói, “Tất cả đều là những thứ y ném xuống hồ.”

“Ai?” Đễnh đãng nghe không rõ, lão đạo sĩ buột miệng hỏi.

Phó Trường Đình không đáp, phiền muộn đứng dưới chái hiên, nhìn đống đồ bỏ đi chất cao như núi trong sân, “Ta tự cho là đã điều tra tất thảy mọi chuyện của y, kết quả lại như chưa hề biết gì.”

Y thường thấy quỷ kia ném đồ xuống hồ, đoản kiếm gỗ, con búp bê, mảnh khăn lụa… toàn những món vặt vãnh. Mỗi lần quỷ ném đồ với vẻ bình thản, dưới đáy mắt không che lấp được sự xót xa. Lúc đó y nghĩ là con quỷ đó đang giả vờ từ bi. Sau lại nghĩ, chắc là thủ đoạn đùa bỡn với y không chừng. Cuối cùng, y chẳng thèm đoán nữa. Không liên quan tới huyết trận, tất không liên quan tới y, hà cớ gì phải tự làm mình đau đầu. Giờ đây, y muốn biết, y dốc cạn tâm lực để suy đoán, nhưng ngay cả đoán cũng không thể nào đoán nổi nữa.

“Nó không thể giết người.” Thiên Cơ Tử đã nói thế.

Sân nhỏ sau tiệm tạp hóa ngày trước đã bị hỏa thiêu thành mảnh đất cằn. Ra lệnh toàn bộ đệ tử lui hết, trong sân chỉ còn mỗi Phó Trường Đình và Thiên Cơ Tử.

Trong lúc vật lộn giữa bản tính và ma tính, ngữ điệu của Thiên Cơ Tử bỗng cao chói lói, bỗng nhiên già khằn, “Nó vẫn canh cánh trong lòng việc giết Kim Lĩnh Tử. Chúng ta cùng nhau bỏ trốn, bị đệ tử Chung Nam đuổi theo phát hiện. Nó bảo ta đi trước, bản thân ở lại. Ha ha… lấy mạng đền mạng, chỉ có nó mới tin vào những lời này. Tiểu sư đệ của ta… ha ha…”

“Sau đó, nó còn không rờ đến kiếm.”

Phó Trường Đình ghịt chặt đạo bào của mình, “Chính miệng y nói ta biết, người do y giết.”

Ngay mảnh đất cằn dưới chân, đám hộp gỗ cuồn cuộn phun ra từ bên dưới, mỗi một mệnh sống là một nét bút nợ máu gai mắt. Chính miệng y thừa nhận, đây là những người mất tích, bọn họ bị sát hại.

“Ngươi tin lời nó?” Thiên Cơ Tử bỗng ngắt ngang.

Phó Trường Đình bỗng không nói nên lời.

Thiên Cơ Tử cười sặc sụa, ngón tay tựa vuốt quỷ bấm chặt lấy cổ họng mình, ho khù khụ một chập, máu đen tuôn không ngớt khỏi khóe miệng, “Ngươi chưa bao giờ tin nó, nhưng lại tin một câu đó của nó?”

“Há há há há…” Tròng mắt đỏ khé túa đầy vẻ mai mỉa, khuôn mặt méo mó chẳng còn giống người nhìn thấy hết tuồn tuột mọi thứ dưới ánh trăng, Thiên Cơ Tử nhếch môi, thỏa mãn nhìn Phó Trường Đình tái mặt, “Ngươi không tin nó, ngươi chỉ tin chính ngươi.”

“Thuật hồi tố chỉ nhận ra huyết khí, chứ không phải sát khí.”

“Giết người không nhất định phải vấy máu, ngược lại cũng thế. Đạo lý này chắc Kim Vân Tử chẳng dạy cho ngươi đâu nhỉ.”

“Ta đoán là, ngươi không chỉ hạ một thuật lên người nó.”

Âm thanh khàn đặc kết hợp với tiếng cười khùng khục, từng chữ từng chữ vò xé trái tim của y. Phó Trường Đình gom hết sức lực để đứng yên mà không thoái lui, song vẫn tránh không thoát ánh mắt lạnh giá của kẻ kia, “Chuyện gì cũng chỉ xét thiện ác, không hỏi nguyên cớ. Tác phong của Chung Nam vẫn luôn gọn gàng dứt khoát nhỉ.”

Cho dù Hàn Thiền làm gì đi chăng nữa thì tội danh cũng đã được định sẵn, bày vẽ đủ thủ đoạn cũng chỉ để y cúi đầu nhân tội. Những cái khác bên cạnh thuật hồi tố là đủ để nghiệm chứng tội ác chất chồng như núi của y. Trước đó Phó Trường Đình đã định tội trạng, không cho phép hoài nghi, không cho phép phản bác, không cho phép giải thích, món nợ này âu chỉ cần thêm một chữ ký đồng ý, hòng đưa ra một quyết định danh chính ngôn thuận. Y có can dự đến huyết trận, tức là vây cánh của tà đạo, y có nối giáo cho giặc, vậy là quá đủ rồi. Càn khôn sáng tỏ, thiên lý ngời ngời, sao có thể giết lầm? U Minh kiếm tuốt ra khỏi vỏ, cửu thiên lôi hỏa vang trời, lấy chính diệt tà, chính đạo hàng phục yêu ma. Phó Trường Đình chỉ cần một kết quả trừ gian diệt ác, còn động cơ nguyên do chỉ là những lời bịa đặt trí trá của bọn tà ma ngoại đạo, không nghe cũng chẳng sao.

“Ngươi muốn nói cái gì?” Hai tay siết lại thành quyền, đầu ngón tay toạc rách vải vóc, bấm sâu vào lòng bàn tay, Phó Trường Đình trầy trật hỏi.

Thiên Cơ Tử sâu xa nhìn y, tròng mắt đẫm máu hiện lên vài phần thương xót, “Tiểu sư đệ của ta…”

Mệnh sắp tàn, ký ức ngày xưa hiện về như một tấm màn lướt nhanh qua tâm trí. Tiểu sư đệ của hắn được ẵm từ dưới núi lên, chỉ be bé có từng này, ngoan ngoãn nằm im thin thít trong lòng hắn, vừa mút một ngón tay vừa giương đôi mắt tròn đen lay láy lên nhìn. Cho dù hắn đi đâu tiểu sư đệ của hắn cũng lẽo đẽo bám theo sát nút; tiểu sư đệ giơ kiếm gỗ lên chập chững chém bừa, cuối cùng thở hồng hộc, ngả ngửa ra sau khóc váng lên; tiểu sư đệ đứng trên cầu treo, hai mắt nhắm tịt, khuôn mặt trắng bệch rồi mà vẫn còn ương ngạnh đấu võ mồm với hắn. Tiểu sư đệ của hắn…

“Ha ha ha ha ha…” Móng tay sắc nhọn đâm vào cổ họng một đoạn có dư, mũi hắn chảy màu, hai mắt đỏ vện, cười đến tim tan phổi nát.

Phó Trường Đình hỏi, “Ngươi cười cái gì?”

“Ta cười Hàn Thiền. Nó… ha ha ha ha… nó tính cái gì chứ?”

Câu hỏi quá khó hiểu, Phó Trường Đình cau mày.

Thiên Cơ Tử nói tiếp, “Chung Nam từ xưa đến nay luôn dùng thiện ác để phán xét vạn vật. Người hành thiện, quỷ hành ác. Trừ ác hướng thiện, lấy chính diệt tà. Ngươi là thiện, ta là ác, trắng đen rõ ràng. Buồn cười nhất chính là Hàn Thiền, ta coi thường nó hướng thiện, ngươi ghê tởm nó làm chuyện ác. Thiện thì sao? Ác thì sao? Rốt cuộc nó là thiện hay ác? Phó chưởng môn, ngươi nói đi?”

“Y…” Lòng bỗng rỗng tuếch, y cứng họng không thể đưa ra một câu trả lời thuyết phục.

Bỏ qua việc phân định thiện ác, y hoàn toàn chẳng biết gì về người kia. Tại sao người đó phải lấy xương ngón tay của mình chôn dưới tàng cây? Có phải người đó còn làm gì khác trong huyết trận không? Tại sao lại nói dối, ôm trọng tội sát nhân vào người?”

Lần đầu tiên trong cuộc đời, đạo giả chỉ cần vấn tội, không cần biết nguyên do cảm thấy hoang mang quá đỗi. Y muốn biết hết thảy, không chỉ việc ai đúng ai sai, cái y muốn biết chính là… Hàn Thiền, tất cả về Hàn Thiền.

Nhưng, muộn rồi.

Cơn nhói đau trong lòng bàn tay chợt đâm thẳng vào tim, hai mắt mở bừng, Phó Trường Đình sực tỉnh khỏi mộng. Bóng đêm buông dày trước cửa phòng, gió thổi rít từng cơn. Đứng dậy khiêu đèn, xòe bàn tay ra, thấy vết máu mờ nhạt do móng tay gây ra còn đấy, tuy khó nhận thấy nhưng vẫn chưa hết hẳn. Mấy ngày liên tục, đoạn đối thoại với Thiên Cơ Tử luôn xuất hiện trong mộng.

“Leng keng, leng keng, leng keng…” Tiếng chuông lanh lảnh khuấy động gian phòng. Kinh Hồn Linh treo dưới cửa tự động rung không cần gió, bề mặt cũ kỹ tản ra ánh kim vàng xỉn.

Khói quỷ mênh mang. Từng sợi từng sợi len qua khe cửa sổ, chẳng mấy chốc đã giăng đầy gian phòng.

Phó Trường Đình ngồi dậy khỏi giường, khói bạc cũng không thối lui, trái lại tụ nhiều hơn, lượn lờ vòng quanh chỗ y. Khói sương giăng mắc, ngọn đèn leo lét như hạt đậu cũng vì làn sương này mà trở nên hư ảo hơn.

“Ai?” Không cầm kiếm, không vung chưởng, ngay cả chính khí Bắc Đẩu hộ thân cũng chẳng bận tâm duy trì. Y mặc mái tóc dài rối tung đứng sau bàn, nín thở ngưng thần chờ đợi, đạo bào rộng thênh không kịp buộc lại, ống tay áo dài thượt rũ chấm lên bàn chân. Sương khói quen thuộc, tình cảnh quen thuộc, và Phó Trường Đình đang chờ bóng người quen thuộc kia.

“Được hay Tử Dương chân quân hạ phàm độ thế, hàng yêu trừ ma. Hôm nay được diện kiến, quả thực phong tư bất phàm.” Khói sương giăng giăng không nhìn thấy rõ, có người nhẹ cười thành tiếng. Âm thanh êm dịu như gần như xa, thoảng nhẹ như cách trăm sông nghìn núi, rõ ràng như phảng phất bên tai.

Phó Trường Đình đột ngột lùi về sau, dưới ngọn đèn dầu chênh chao, khuôn mặt trước nay bất động thanh sắc của đạo giả bỗng trở nên chết lặng.

Không phải người đó.

Kinh Hồn Linh mãnh liệt réo rắt, quỷ khí dày dặc, cửa phòng im lặng bật mở, mang theo hơi gió ùa vào. Trong bóng tối, một thân hình mảnh mai lướt đến, “Yêu quái sơn dã, đêm khuya quấy rầy cũng là vạn bất đắc dĩ, cầu mong quốc sư đại nhân lượng thứ.”

Lời vừa dứt, người đã ở trước mặt. Một cô gái nhẹ cười khanh khách, mày tựa trăng non, “Tiểu nữ là Sơ Vũ, bái kiến Phó chưởng môn.”

“Vũ cô nương.” Cái tên thường xuyên treo trên miệng quỷ xộc vào não, sắc mặt Phó Trường Đình trở nên căng thẳng.

Cô gái vận trang phục màu ngọc bích tỏ ra nhẹ nhàng khoan thai. Cô phất tay áo lên mở rộng cánh cửa đóng chặt, nụ cười dịu dàng loang dần trên mặt, mùi thơm thoang thoảng lan ra khắp phòng, “Nghe nói đạo trưởng đang tìm thứ gì đó, tiểu nữ cũng có một thứ, chỉ không biết có phải món đạo trưởng tìm hay không.”

Gót sen khẽ khàng, cô di chuyển đến phía bên kia chiếc bàn tròn. Khói quỷ tứ bề, cô gái hơi cúi đầu, cười đoan trang thùy mị. Trong tay cầm một thanh đao nhỏ bằng gỗ.

Phó Trường Đình vội vã vươn tay chộp lấy, ống tay áo phất lên suýt nữa ẩy ngã cái đế cắm nến. Cô gái cười chan hòa, không bận tâm vẻ lỗ mãng của y, “Xem ra đúng rồi.” Cô thốt lời mừng vui, mùi thơm trong phòng lại có phần đậm hơn.

Món đồ chơi của trẻ con, không cần phải khắc đẽo quá tinh xảo, vật liệu cũng chẳng cần cầu kỳ quá mức, thế nhưng người làm ra hẳn phải đặt vào rất nhiều tâm tư, từ mũi đao đến chuôi đao đều không thấy dằm gỗ nào. Buổi tối Hàn Thiền uống say bên hồ ấy, y đã từng thấy người đó ném vào hồ. Con quỷ lúc say bí tỉ còn lảm nhảm rằng mình làm ra nhiều lắm.

Lấy tay làm dao, Phó Trường Đình bổ xuống, đao gỗ lập tức tách thành hai. Hóa ra bên trong rỗng ruột, một mảnh giấy nhẹ nhàng đáp xuống mặt bàn. Một bài vè vỏn vẹn có bốn dòng: trời hoang mang đất hoang mang, nhà có trẻ nít khóc oang oang, quân tử đi qua đọc ba lần, một giấc ngủ thẳng đến hừng đông.

Giống hệt bên trong cái trống bỏi.