“Trên người có mùi máu tươi. Cho dù có quỷ khí và tử khí che đậy, nhưng cũng không thể che giấu mọi thứ. Nếu không ở trung tâm huyết trận thì không thể đậm như vậy.” Phó Trường Đình bình thản nói, “Hơn nữa, lại rất giống với oán khí lẩn quẩn trong thành, nên hẳn phải có cùng thủ pháp tương đồng. Tiểu sư thúc, tôi nói đúng không?”

“Ngay từ đầu ngươi đã biết là ta.” Từ đêm y xuất hiện bên hồ Lâm, hoặc có thể sớm hơn, từ lúc y bắt Sơn Tra ở quán trọ, thậm chí ngay lần đầu tiên Hàn Thiền xuất hiện trước mặt y, đạo giả đã nhìn ra đầu mối. Tử Dương chân quân chuyển thế, người tương lai sẽ chấp chưởng phái Chung Nam, quả không phải hư danh. Đạo giả buông lỏng tay, Hàn Thiền khổ sở xoa nhẹ cổ tay mình, lê đến bên dưới tàng cây ngân hạnh, nhờ thân cây vững chắc gắng gượng chống thân, “Ngươi còn muốn biết gì nữa?”

Những người mất tích đều đã chết, hài cốt lẫn đồ tuỳ thân đều bị thiêu rụi, không để lại chút manh mối gì.

“Nhân chứng lẫn vật chứng đều không có, đạo trưởng vẫn trị tôi vì tội giết người sao?” Liên quan cao sững, đạo giả vận đạo bào trắng tuyết không nhiễm hồng trần ngày càng cách xa, Hàn Thiền gắng gượng dời đường nhìn từ đôi tay đang rỏ máu sang gương mặt vô cảm của đạo giả.

Con quỷ nhịn không được mà bật cười, Phó Trường Đình từ khi nào cần chứng cứ để định tội sống chết của yêu quỷ? Tác phong của Chung Nam trước giờ vẫn luôn như sấm rền gió cuốn, không cần suy xét đúng sai đã đánh. Người đàng hoàng mà chết thì hồn phải về địa phủ, cát bụi về cát bụi, đất về đất, không còn yêu hận thị phi ân oán chi cả. Còn cố ý lưu lại nhân thế, ắt có oán tâm, tất sẽ hại người. Không phải đồng loại thì chính là gian tà, thà giết nhầm còn hơn bỏ sót. Bắt họ tìm chứng cớ sẽ bị coi là cố ý gây khó dễ.

Vừa cười bật thành tiếng, toàn thân lại đau đớn không thôi. Cơ thể Hàn Thiền căng cứng, cố gắng gồng lưng lên, trong kinh mạch và huyết mạch như bị vô số con trùng cắn xé. Đau đớn cùng cực, tức giận cùng cực. Phẫn hận trừng đôi mắt giăng tơ máu lên trừng kẻ kia, đạo giả không hề tỏ ra nao núng.

“Sư điệt mạo muội thỉnh giáo tiểu sư thúc chuyện cuối cùng.” Trầm tĩnh nhìn con quỷ nửa quỳ nửa lết dưới đất, con quỷ cuộn chặt mình, răng nghiến ken két. Quả là một con quỷ ngoan cố, Phó Trường Đình nghĩ thầm trong bụng. Y từng thấy một vị sư huynh thi triển thuật hồi tố, ngay cả ác quỷ khét tiếng hung tàn cũng chỉ chịu được giỏi lắm là một khắc thì đã bò ra đất khóc lóc xin tha. Cho dù có bị vậy, cũng chưa đủ đền trả tội nghiệt gây ra.

Bỗng có ánh vàng loè loè trước mặt, thu hút ánh nhìn của Hàn Thiền. Một cái khoá bản mệnh bằng vàng, xỏ qua một sợi xích vàng tinh tế treo tòng teng trên tay Phó Trường Đình, toả sáng lấp lánh.

“Đồ của phủ Lỗ Tĩnh Vương sao lại có trên kệ hàng của công tử?” Phó Trường Đình không phát hiện ra âm thanh của mình đã chùng xuống.

Y tìm thấy nó trong lúc sắp xếp kệ hàng. Dân gian có tập tục, khi em bé chào đời, trưởng bối sẽ tặng khoá bản mệnh, ngụ ý hy vọng đứa trẻ được bình an lớn lên, hưởng phúc lâu dài. Chiếc khoá bản mệnh này được chế tạo bằng vàng ròng, rỗng bên trong, tạo hình đẹp, nét khắc tinh xảo. Bên dưới sợi dây lóng lánh còn trang trí thêm một cái chuông nhỏ hình con cá, tiếng chuông kêu lanh canh vui tai. Còn có con dấu của phủ Lỗ Tĩnh Vương chạm ở ngay giữa mặt sau, bên dưới hoa văn có khắc dòng chữ nhỏ xíu ‘Kỳ Ninh năm thứ hai’.

Nhà Lỗ Tĩnh Vương chỉ có độc nhất một đứa cháu trai, năm nay vừa đúng ba tuổi có dư. Ngày đầu tiên đến thành Khúc Giang, Phó Trường Đình nghe người trong trà quán nói, đứa trẻ ấy đã mất tích.

Phủ Lỗ Tĩnh Vương từng treo một số tiền kếch sù làm phần thưởng cho người nào tìm ra tiểu thế tử, tây bắc tam châu, bất kể là ai. Mức thưởng hậu hĩnh chưa từng có. Một dạo người ta xôn xao, đổ xô truy lùng không ngớt. Nhưng đến hiện tại, tiểu thế tử vẫn không rõ tung tích. Có người đồn là bị cao nhân cõi trên thu làm đồ đệ, có người lại bảo bị bọn thổ phỉ ngoài kinh thành bắt mất. Còn loáng thoáng có một ý kiến mà người ta chỉ dám nhỏ to với nhau —— rằng đứa trẻ đó đã bị Lỗ Tĩnh Vương tự tay bóp chết. Sự việc hệ trọng nên chẳng mấy ai vội tin. Qua vài ngày sau, kẻ nói quàng xiên cũng bốc hơi. Thế nên càng hiếm người tuỳ tiện nhắc đến chuyện tiểu thế tử biến mất.

“Hạnh Nhân…” Dưới ánh vàng chói mắt, Hàn Thiền kêu thất thanh.

Hết thảy vật liên quan đều phải xử lý triệt để, ngay cả một cọng tóc cũng không chừa. Tuyệt đối không được lưu lại chứng tích nào. Y đã cam đoan với sư huynh như thế. Nhưng y đã quên mất Hạnh Nhân, con thỏ có cặp răng cửa vàng. Hạnh Nhân thiên tính thích tiền, chuộng vàng bạc. Con thỏ đó nhìn những món đồ lóng lánh sẽ không kiềm chế được hành vi chiếm làm của riêng. Tất sẽ trộm lấy cái khoá vàng của tiểu thế tử.

Nhớ ra chuyện đó, mặt Hàn Thiền biến sắc tột độ, liều mình chộp lấy, “Không liên quan đến nó!”

Cổ tay giật lại, đạo giả giữ vẻ thản nhiên xuất trần thoát tục, khoá vàng chui tọt vào trong tay áo, hai mắt y rũ xuống, vô bi vô hỉ nhìn kẻ dưới đất. Con quỷ vồ vào khoảng không, thân thể mềm oặt, ngã sóng xoài xuống đất. Bên ngoài tường, lửa lớn cháy phần phật, ánh lửa hồng rực sáng chuyển rúng cả bầu cao.

“Hồ Lâm…” Hàn Thiền gắng sức ngẩng đầu lên, lửa lớn hắt vào mắt, ráng rọi khuôn mặt chấn động. Lá kim trên cây ngân hạnh tựa như phẫn nộ, thét gào rít róng, quẹt vào tai y. Hàn Thiền chống hai tay, ngón tay cắm sâu vào lớp đất tơi xốp, cảm nhận sự rung động bên dưới, “Ngươi dẫn người đến.”

“Huyết trận rất lớn, giam cầm cả vạn người, một mình bần đạo không đủ sức phá.” Phó Trường Đình gật đầu, y quay đầu lại nhìn ánh lửa xa xa, bình thản nói, “Có tới hai huyết trận, mắt trận cũng vậy. Một cái ở hồ, một cái dưới tàng cây, lập thành thế trận lưỡng nghi. Trong đó, hồ trận ở ngoài sáng, thụ trận ở trong tối, nhìn có vẻ như phân chia thành chủ thứ, nhưng thực tế, hư cũng là thực, thực cũng là hư. Hư và thực tương hỗ, soi sáng lẫn nhau, bổ sung cho nhau. Có thể nói là hai huyết trận, song cũng có thể nói hai trận hợp nhất mới là bố cục thực sự của trận.”

“Đây là bố cục song sinh, cùng hưng cùng suy, cùng mạnh cùng yếu, cùng tiến cùng lùi. Thiên Cơ Tử là kẻ thận trọng, lòng dạ thâm sâu. Chỉ có lưỡng nghi trận e là không đủ để đề phòng vạn nhất. Cho nên ắt phải có chước khác. Bần đạo phỏng đoán rằng, bày trí trong sân và thạch đình ven hồ từa tựa nhau không phải là ngẫu nhiên, mà là một tấm gương hai mặt, sử dụng phương pháp đối xứng. Hồ trận và thụ trận có chung điểm then chốt. Nếu có một cái bị phá thì trận thế nghịch chuyển, nhẹ thì kích động oán niệm, tăng thêm uy lực. Nặng thì hồn phách hoá thành oán linh thoát ra khỏi trận. Đến lúc đó thành Khúc Giang sẽ khó tránh khỏi hoạ đổ thành chết người.”

Nghe y thong thả nói ra thủ pháp bày binh bố trận êm ái như rót vào tai, Hàn Thiền sực nhớ ra, từ khi quen biết đến nay, đạo sĩ gỗ chưa từng nói một hơi nhiều đến vậy.

“Phương pháp phá trận duy nhất là tiêu diệt hai mắt trận cùng một lúc.” Tia nhìn sắc lạnh lướt xuống dưới, khoé miệng bỗng nhếch lên, gương mặt Phó Trường Đình thẳm sâu như nước, đột nhiên khắc nghiệt nói, “Các ngươi cố ý.”

Cố ý để hồ Lâm hiện rõ như ban ngày, làm người ta bỏ qua cái sân nhỏ sơ sài ẩn sâu trong con hẻm này. Mục đích chính là để dẫn dắt người phá trận đi sai đường. Nếu có một ngày hồ trận bị huỷ, thụ trận vẫn còn, toàn bộ thành Khúc Giang phải chôn vùi.

Có thể nói, kẻ bày bố trận đã sớm có tâm muốn tàn sát hàng loạt dân trong thành.

“Phó Trường Đình không hổ là Phó Trường Đình, Kim Vân Tử không uổng công dạy dỗ ngươi.” Hai mắt nhức nhối do bị ánh lửa phía xa hắt vào, Hàn Thiền mơ hồ có ảo giác quay về đêm năm ấy. Trên đầu cũng là bầu trời ám đỏ như máu, “Ngươi bắt đầu nghi ngờ ta từ lúc nào?”

Đạo giả luôn nói năng thẳng thừng bỗng im bặt. Trong cơn đau đớn, con quỷ kia bắt đầu hoài nghi tinh thần bản thân đã hoảng loạn, vì Phó Trường Đình trong mắt y đang chùn chân. Có điều gì khiến cho đạo sĩ gỗ vô tri, không biết sợ hãi, băng băng lao về phía trước phải do dự?

Qua hồi lâu, lâu đến mức Hàn Thiền sắp không chịu nổi thống khổ khắp châu thân. Trong tiếng lá ma sát chói tai, truyền đến một lời thật hùng hồn đanh thép, “Người quỷ không chung đường, ma đạo nhập nhằng. Trên đời này không bao giờ có thiện quỷ.”

Y chưa từng tin, chưa bao giờ tin. Một đạo tử ngoan đạo định tâm tu luyện hơn hai mươi năm, ý niệm chính tà đã khắc sâu vào trong xương tuỷ, tâm tính vững như bàn thạch có lẽ nào lại thay đổi một sớm một chiều? Mình quá coi thường y rồi.

Hàn Thiền tự chế giễu mình, chỉ vì một câu nói mà bỏ qua bản tính của Phó Trường Đình, đây mới thực sự là Phó Trường Đình chứ nhỉ?

“Tại sao ngươi lại chắc chắn trên kệ hàng có thứ ngươi muốn tìm?” Vốn dĩ chỗ ấy đâu có gì, ngay cả bản thân là ông chủ mà y cũng có lúc không nhớ rõ.

Ngọn lửa ngoài tường bỗng di chuyển ra giữa không trung, rồi bỗng nhiên thụt xuống mất tăm tích. Hàn Thiền biết lúc này ở hồ Lâm đang có giao chiến kịch liệt, Ly Cơ sẽ không dễ dàng dâng sào huyệt mình lên cho người khác. Chi bằng cứ trò chuyện với người kia, vì Hàn Thiền biết rằng, vĩnh viễn không còn cơ hội nâng chén tiêu sầu với đạo sĩ trước mặt nữa rồi.

“Tội ác bất dung, lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt. Phàm làm chuyện ác, ắt lưu lại vết tích.” Y bình tĩnh nói đâu ra đấy, không hề chần chừ.

“Chuyện cuối cùng.” Hàn Thiền chớp mắt, môi hé cười, ánh mắt tràn đầy nghiêm túc, “Tại sao?”

Rành là biết rõ ngọn nguồn từ lâu, tại sao phải nhọc công tìm chứng cớ, tại sao không ngại trì hoãn mấy ngày ở tiệm mất công làm tạp dịch, tại sao có thể nhẫn nại bản tính để tình hư ý giả dây dướng với y? Tại sao không dứt khoát đánh cửu thiên lôi hoả xuống đầu y cho nhanh?

Mới nãy còn không nói năng gì một lúc lâu, chẳng rõ vì không muốn thấy y đau đớn đến co rúm mặt mày, hay vì điều gì khác, Phó Trường Đình mở mắt, “Tôi muốn cho công tử một chứng cứ rõ ràng.”

Ngày ấy trong sân quán trọ, hoa hải đường nở rộ, cánh hoa rơi lả tả. Chính con quỷ đó đứng giữa mưa hoa, đôi mắt tinh khiết tạc ngọc lưu ly, trong trẻo tựa nước hồ thu, sóng mắt uyển chuyển che giấu muôn vàn biến ảo. Đạo sĩ nhìn người kia lấy chuỷ thủ đâm vào cổ con mèo, nhìn y đắc ý khôn cùng đòi chứng cớ phạm tội, nghe y nói rành rành rọt rọt từng chữ —— Cho dù là yêu quái, cũng muốn được minh bạch.

Tuyệt diệu, thế là đạo sĩ bèn cho y được ‘minh bạch’, cho y một bằng chứng thép, để y tâm phục khẩu phục.

“A… người thực là… người thực là…” Không còn biết phải dùng từ gì để nhận định về người này cho đúng. Hàn Thiền cảm thấy mọi đau đớn trong người đều tập trung ở ngực. Hoá ra, đạo sĩ đã định hết mọi chuyện từ lâu rồi.

Đạo sĩ gỗ ơi là đạo sĩ gỗ, chỉ có ngươi mới kiên trì mò mẫm từng thứ từng thứ một giữa đống đồ phế thải chất cao như núi. Hoá ra trên đời này vẫn có người chịu làm chuyện ngu xuẩn như mò kim đáy biển.

Nhưng vậy mới đúng là đạo sĩ, thận trọng, mưu tính hơn người.

“Ngươi cũng cố ý.” Cúi đầu cười, con quỷ bỗng ngẩng đầu lên, hai mắt như song đao thẳng tắp bắn về phía kẻ lạnh lùng kia, “Trước nhắc chuyện xưa khiến ta hoảng loạn, sau vạch trần chuyện đốt xương dưới cây khiến ta hốt hoảng. Cuối cùng lấy khoá bản mệnh ra khiến ta lo lắng mà không cãi lại được.”

Phó Trường Đình lại im lặng.

Hàn Thiền vẫn quỳ rạp dưới đất, cố gắng hết sức để ngẩng đầu lên, nhìn thấy ánh mắt thừa nhận của đạo sĩ.

“Công tử giỏi hùng biện, bần đạo phải ứng phó cẩn thận.”

“Nói theo kiểu đạo trưởng, giỏi trí trá nghe thuận tai hơn.”

Lửa lớn ngợp trời, ngọn lửa hừng hực liếm láp bầu trời hắc ám. Quỷ khí lượn lờ giữa tiếng rít của lá cây dần dần loãng đi.

“Ngươi có nhận không?” Phó Trường Đình nặng nề nói. Đến giờ phút này, trên khuôn mặt nghiêm khắc vẫn không có biểu tình gì khác, ngoại trừ đôi mắt tựa đầm đen sâu hút áng lên vài tia sáng lạnh lẽo.

Ánh trăng bị khói dày che lấp, dưới bầu trời nhuộm lửa hồng, y thật siêu thoát, thật khí khái hào hùng, chính khí Bắc Đẩu cuồn cuộn quanh người, tay áo rộng phần phật tung bay, uy nghi lẫm liệt vô vàn. Hàn Thiền dường như có thể nhìn thấy viễn cảnh nào đó trên đỉnh Chung Nam, phía cuối chân trời bao la, đạo giả trước mặt sẽ trở thành người đứng trên muôn người.

“Ta nhận.” Ngơ ngẩn nhìn đạo sĩ thật lâu. Môi Hàn Thiền vẽ thành nụ cười với Phó Trường Đình.

Níu lấy vạt áo trắng tinh như tuyết, chậm chạp nhấc người, cúi đầu liếc bàn tay dính đầy máu và đất bẩn, Hàn Thiền không chút do dự chà nó vào đạo bào, để lại mấy vết bẩn gai mắt. Sau đó lại tựa người vào thân cây. Lớp áo mỏng đen sạm trên lưng đã ướt đẫm từ lâu.

Phó Trường Đình chỉ hờ hững nhìn thoáng qua y bào của mình, trên mặt không có vẻ gì là giận. Hàn Thiền biết đạo sĩ là người thích sạch sẽ, cho dù chỉ là chấm bụi trong góc cũng phải lau kỳ sạch mới thôi. Rõ là được đào tạo tốt. Hàn Thiền thầm nghĩ. Chút ý tứ đùa vui sau rốt trong lòng cũng theo đó tan thành mây khói.

“Ta nhận.” Ngơ ngẩn nhìn đạo sĩ thật lâu. Môi Hàn Thiền vẽ thành nụ cười với Phó Trường Đình.

Níu lấy vạt áo trắng tinh như tuyết, chậm chạp nhấc người, cúi đầu liếc bàn tay dính đầy máu và đất bẩn, Hàn Thiền không chút do dự chà nó vào đạo bào, để lại mấy vết bẩn gai mắt. Sau đó lại tựa người vào thân cây. Lớp áo mỏng đen sạm trên lưng đã ướt đẫm từ lâu.

Phó Trường Đình chỉ hờ hững nhìn thoáng qua y bào của mình, trên mặt không có vẻ gì là giận. Hàn Thiền biết đạo sĩ là người thích sạch sẽ, cho dù chỉ là chấm bụi trong góc cũng phải lau kỳ sạch mới thôi. Rõ là được đào tạo tốt. Hàn Thiền thầm nghĩ. Chút ý tứ đùa vui sau rốt trong lòng cũng theo đó tan thành mây khói.

“Đứa trẻ ở dưới tàng cây được chôn cùng ngón tay của ta.” Tiểu thế tử của Lỗ Tĩnh Vương năm nay ba tuổi, ngoan hiền dễ bảo, thông minh khả ái. Ôm vào lòng vừa mềm mại vừa non nớt, có mùi hương ngòn ngọt, “Kẻ bày huyết trận cần có vật tế quý giá. Huyết trận này lập ra vì Lỗ Tĩnh Vương, cái giá ông ta phải trả cũng đắt khôn kể.”

“Có người nói Lỗ Tĩnh Vương từng phái quân vào thành Khúc Giang…”

“Chết cả rồi. Huyết trận cần oán khí, sát khí của quân sĩ là nặng nhất, oán khí hung bạo hơn. Cũng là cái giá đắt.” Hy sinh năm nghìn quân, đổi bằng chiến lực năm mươi vạn quân Thiên Cơ Tử hứa cho Lỗ Tĩnh Vương. Khó khăn nhấc bàn tay đầy máu lên, toàn bộ biểu cảm của con quỷ đều bị bóng cây che khuất, “Năm nghìn quân sĩ, muốn móc hết tim bọn họ, ta cũng phải mệt mất cả đêm.”

Con quỷ cười sâu hơn, đôi mắt trong suốt cong vênh như trăng non, trộm nhìn sắc mặt sa sầm của đạo giả, “Tiểu thế tử do chính tay Lỗ Tĩnh Vương bóp chết. Vô độc bất trượng phu, muốn đứng trên người ta, tất phải có chỗ hơn người. Sư huynh lấy quả tim bỏ vào hộp gỗ, ta chôn dưới tàng cây.” Vật trân quý nhất… thật nực cười, nếu thật sự yêu thương, lẽ nào lại đơn giản vứt bỏ. So với một đứa cháu đang tập tễnh học đi, thì long ỷ trong cung vàng điện ngọc đáng yêu hơn. Dù sao, cháu vẫn còn có nữa, song long ỷ thì chỉ có một.

“Lần nào cũng phải mổ bụng moi tim, bỏ vào trong hộp gỗ rồi chôn dưới tàng cây. Huyết trận là lưỡng nghi trận, tim chôn dưới đất, hồn phách nhốt trong hồ. Người chết oan, còn chia lìa thân hồn, không thể tìm về đúng chỗ, không thể siêu sinh luân hồi, cho nên oán khí lan tràn, ngưng kết thành huyết trận.” Con quỷ lẳng lặng ngồi dưới tàng cây, thái độ không còn kích động nữa, ánh mắt cũng thôi vẻ điên cuồng, chân mày nhướn lên mang theo vẻ châm biếm thường thấy, đem ngọn nguồn ra bình thản thuật lại.

Lửa lớn bên hồ Lâm cháy lan dữ dội, khói đặc theo gió bạt vào trong sân. Bóng người bên tường lay động, từng bóng người đội mão cao lần lượt tiến vào trong. Hàn Thiền lại thấy bóng đạo bào mà y đã quá quen thuộc.

“Xoẹt—— ” gió mây vần vũ khác thường, long ngâm vi vút. Trường kiếm U Minh tuốt ra khỏi vỏ, Phó Trường Đình trở một ngón tay, mũi kiếm chĩa thẳng. Đất ầm ầm rung chuyển, rúng động bên dưới đất sau rốt cũng phá ra ngoài. Một trận trời long đất lở, bàn ghế đá của Hàn Thiền văng đi hết, vô số hộp gỗ đen bắn ra từ bên dưới. Hộp gỗ gãy nát, hằng hà thịt thà thối rữa đen đúa phơi bày dưới ánh trăng. Đó từng là mệnh sống của rất nhiều người.

“Nghiệp chướng!” Phó Trường Đình phẫn nộ quát lớn.

Hàn Thiền trông thấy ấn đường của đạo sĩ hõm xuống thật sâu.

“Ngươi biết tội chưa?”

“Ta… biết tội.” Hàn Thiền trả lời.

Lam quang chói lọi, hoả lôi rực rỡ quần tụ. Gương mặt Phó Trường Đình nhích đến thật gần thật gần, kèm theo đó là ngọn lửa lạnh băng.

“Người có từng tin tôi?” Cuối cùng của cuối cùng, Hàn Thiền kề bên tai Phó Trường Đình, nhẹ nhàng hỏi.

Từ ngón tay lại chảy máu đỏ, mong manh uốn lượn thành sông, lạnh thật đấy, hơi lạnh của chính Hàn Thiền. U Minh kiếm xuyên qua ngực, y nắm chặt mũi kiếm bằng tay không, từng chữ từng chữ, hỏi người cầm kiếm, “Phó Trường Đình, người có từng tin tôi?”

Sáng hôm sau, mặt trời lại mọc ở đằng đông, người trong thành Khúc Giang bắt đầu sinh hoạt một ngày mới. Ai nấy kinh hồn phát hiện đêm qua có cháy, một cái sân nhỏ của nhà nào đó trong hẻm thành bắc cháy rụi không còn mảnh ngói. Trong sân có một cái hố lớn sâu hoắm, đất bên trong cháy khét nghẹt. Kỳ quái là hàng xóm xung quanh nghĩ muốn nát óc cũng không biết người nhà đó là ai. Càng kỳ cục là thạch đình bên hồ Lâm cũng tiêu ma. Hàng liễu bên hồ cũng để lại vết tích bị lửa lớn liếm qua. Không biết kẻ nào rỗi hơi chạy ra hồ Lâm phóng hoả? Đúng là đồ khùng, không thấy nước trong hồ Lâm cuồn cuộn mấp mô, sóng hết lớp này đến lớp khác sao?

Cuối tháng tám Kỳ Ninh năm thứ năm, dưới triều Phụng Thiên, Phó Trường Đình phá huỷ huyết trận của Thiên Cơ Tử. Tháng chín cùng năm đó, quân của Lang Gia Vương đại phá Ngọc thành. Từ đó cuộc chiến rẽ bước ngoặt lớn, sĩ khí của quân Lỗ Tĩnh Vương bị triệt để áp chế, mất tong bốn thành. Năm thành của Cẩm châu cũng đổi chủ.

Cát vàng đãi trời, gió lửa nhuốm đất. Chớp mắt đã hai năm, máu không ngừng chảy, khói không ngừng hun.

Giữa tháng ba Kỳ Ninh năm thứ bảy triều Phụng Thiên, Già Nam Vương Tần Lan Tuân quy hàng Lang Gia. Sau đó, tất tật chư hầu lớn nhỏ lần lượt quy hàng.

Hạ chí[1] Kỳ Ninh năm thứ bảy, Hách Liên Phong dẫn binh vào kinh, thiên tử phục đồ trắng, mang quốc ấn đứng ngoài cửa cung nghênh đón.

Đầu tháng chín năm thứ bảy Kỳ Ninh, tân đế đăng cơ, sửa quốc hiệu thành Nguỵ, sử gọi Tân Nguỵ.

Tháng giêng năm sau, thiên tử khai quốc triều Tân Nguỵ —— Hách Liên Phong lấy niên hiệu là Vĩnh Phong.

Cũng trong năm đó, Kim Vân Tử thoái ẩn, ấn định đệ tử Phó Trường Đình kế thừa y bát, trở thành chưởng môn đời kế tiếp của phái Chung Nam. Hai tháng sau, tân đế hạ chỉ, vinh danh thiên hạ đạo giáo, trong đó phái Chung Nam đứng đầu. Phó Trường Đình có công phò vua, sắc phong làm quốc sư.

Danh tiếng Phó Trường Đình lên như diều gặp gió. Tân đế coi trọng như tay chân ruột thịt, có thể thúc ngựa vào cung, có thể mang bội kiếm vào điện, có thể thẳng thắn trình bày chuyện quốc sự. Ban cho một toà quan vũ trong kinh, có thể nằm thanh tu, không ai sánh bằng. Có thể nói là dưới một người trên vạn người.

Chớp mắt, đã đến cuối thu. Sẩm tối, khi quốc sư đương nhiệm Phó Trường Đình phụng chỉ vào Tuyên chính điện, Hách Liên Phong đã ngồi trong điện hồi lâu.

Thiên tử thân phục long bào ngũ trảo ngồi trên long ỷ, nét mặt khuất trong ánh tịch dương, chỉ có long ỷ và hoa văn rồng cuộn thêu trên ngực long bào là phát ra ánh sáng rực rỡ chói mắt.

Phó Trường Đình định khom người quỳ xuống, Hách Liên Phong khoát khoát tay, “Miễn đi.” Giọng nói nặng trĩu sự uể oải.

Hắn chỉ lớn hơn Phó Trường Đình một tuổi. Thiên tử vừa cập tuổi nhi lập trong mắt chúng thần luôn năng nổ khí thế hăng say. Kết thúc hỗn chiến bao năm của con cháu Tần thị, thống nhất thiên hạ. Chỉ bằng điểm ấy là đủ để ba chữ Hách Liên Phong lưu danh sử sách. Đại nghiệp đã thành, thiên đầu vạn tự[2], vô số đại sự đều do mình gã định đoạt. Tân đế tinh lực tràn trề, luôn suy nghĩ thấu đáo, lại không kém phần quả quyết. Thiên tử cực kỳ mẫn cán với quốc sự là điều ai cũng có thể trông thấy.

Chỉ có mỗi Phó Trường Đình biết, khi Hách Liên Phong ở một mình đích thị là một tên bợm rượu. Không có rượu gã sẽ không ngủ được, càng không thể lâm triều vào hôm sau. Điều này gợi Phó Trường Đình nhớ đến một người cũng mê rượu như điếu đổ. Chỉ là, Hách Liên Phong có thể ngàn chén không say, tửu lượng siêu tốt. Còn người nọ chỉ cần một chén rượu lưng là đỏ mặt.

Lặng lẽ ngẩng đầu lên, thấy bình rượu trong tay gã, Phó Trường Đình lẳng lặng đợi.

“Vừa mới nhận được mật báo, đã tìm thấy tung tích của Thiên Cơ Tử.” Hách Liên Phong nói.

“Ở đâu?” Phó Trường Đình hỏi.

Sau cuộc chiến Ngọc thành, quân Lỗ Tĩnh Vương không còn mạnh như trước. Không chỉ thất bại trong việc đoạt Cẩm châu, mà còn liên tiếp bị mất những thành trì đang nắm giữ. Chiến lực suy yếu, so với trước đây cách biệt như trời với đất. Đầu hè năm ngoái, trước khi Hách Liên Phong dẫn binh vào thành, Lỗ Tĩnh Vương đã bệnh chết. Ba đứa con không hạp việc kế vị, chia gia nghiệp vĩ đại thành ba, sau đó bị các chư hầu thâu tóm. Cả dòng họ Lỗ Tĩnh Vương trước kia hùng cứ thiên hạ đến giờ đã suy tàn, không còn làm nên trò trống gì nữa.

Có điều, trong lúc hỗn chiến thì lại sổng mất Thiên Cơ Tử, để hắn bỏ chạy không rõ tung tích.

“Gần đây, dân chúng đồn có một tên yêu quái hút máu người. Trẫm đã phái người đến truy bắt trước, nhưng có ngươi đích thân đi một chuyến vẫn yên tâm hơn.”

Phó Trường Đình nghe xong, gật đầu lĩnh mệnh, “Vâng.”

“Hắn ở Doanh châu.” Lặng im một lát, Hách Liên Phong cân nhắc nói, “Thành Khúc Giang.”

Trong một thoáng, đôi mắt tăm tối của thiên tử toát ra vài phần sáng, phức tạp rắm rối, không thể phân tích rõ. Gã nhìn Phó Trường Đình đầy ẩn ý.

Phó Trường Đình gật đầu, lần thứ hai cúi đầu vái chào, “Thần lĩnh chỉ.”

Thần sắc và lời nói không chút biến đổi.

Hách Liên Phong hơi thất vọng, phất phất tay, “Lui ra đi, trẫm mệt mỏi.”

Phó Trường Đình khom lưng xin cáo lui. Vừa sắp ra tới cửa điện thì thiên tử phía sau trầm giọng hỏi, “Trường Đình, ngươi có hối hận không?”

Lưng quốc sư đương triều thẳng tắp như tùng, đạo bào tuyết trắng không vẩn chút bụi trần, chân vẫn bước đều, đi thẳng ra ngoài cửa, “Thần… bất hối!” Cảnh tượng mặt đất đầy tim người vẫn còn sờ sờ trước mắt, trong mỗi hộp gỗ đen đúa đều có một quả tim người. Những hộp đen chôn dưới tàng cây chất cao nửa người, lần lượt xếp hàng bày đầy ra sân, cơ hồ không còn chỗ đứng. Vô số oan hồn đã uổng mạng trong huyết trận. Cho dù có quay về đêm đó bao nhiêu lần, cảnh tượng lặp lại bao nhiêu bận, y cũng sẽ hành động như thế.

[1] Hạ chí: ngày 21, 22 tháng sáu.

[2] Thiên đầu vạn tự: thành ngữ xuất phát từ Tam quốc chí, muốn nói chuyện gì lúc khởi đầu cũng có nhiều manh mối, dùng để hình dung sự việc phức tạp rối rắm.