Sự kiện ám sát xảy ra tại quốc yến Quang Minh Điện đã qua đi, đám quan viên cũng không dám đề cập tới nhiều lắm, phần lớn quan viên đều nghĩ tới người đứng sau màn là Thiên Môn Đạo, họ biết Hình Bộ thẩm vấn thích khách nhưng sau này tình hình rốt cuộc thế nào cũng không có bao nhiêu người biết.

Quốc yến xuất hiện thích khách, điều này với Đại Tần mà nói là một chuyện mất thể diện, Hồng Lư Tự Khanh Triệu Tuyên bị Hoàng đế tự tay giết chết, già trẻ trong nhà lập tức bị nhốt vào tử lao, đám quan viên đương nhiên nói năng thận trọng đối với việc này, không dám nghị luận nhiều, đám quan viên lén nghị luận ở quán trà quán rượu phần lớn là người Tây Lương rốt cuộc có thể đòi được bao nhiêu bồi thường từ Đại Tần.

Thực tế công phu sư tử ngoạn của người Tây Lương đám quan viên các nha môn ít nhiều biets đến, đều cảm thấy người Tây Lương quả thật là suy nghĩ kỳ lạ, nếu Đại Tần có thể đưa ra số lượng ngân lượng khổng lồ như yêu cầu của người Tây Lương, như vậy căn bản không cần phải thỏa hiệp với người Tây Lương, một nước có thực lực như vậy hoàn toàn có thể tranh phong tây bắc với người Tây Lương.

Tuy rằng Ma Ha Tàng từng nói trước mặt mọi người trong vòng ba ngày phải đàm phán ra kết quả, nhưng mọi người đều cảm thấy lúc ấy Ma Ha Tàng chẳng qua là nóng giận mà thoi, ai cũng thấy được trong vòng ba ngày không thể bàn bạc ra kết quả, Đại Tần tất nhiên không cam lòng tùy ý người Tây Lương xâm lược, người Tây Lương chắc chắn cũng sẽ không bỏ qua cơ hội rất tốt này, tất nhiên sẽ giằng co tiếp, hai bên giằng co tới lui, tiêu hao từng chút sự kiên trì chịu đựng của đói phương, xem cuối cùng ai không kiên trì nổi.

Bạch Lâm Khê là cao thủ đàm phán đế quốc công nhận, năm đó Hoàng đế nam chinh bắc chiến không thiếu được liên hệ với các thế lực hoặc minh hoặc ám hoặc chiến hoặc ép ở mọi nơi, Bạch Lâm Khê khi đó là người đàm phán với các thế lực nhiều nhất, mọi người nghĩ rằng đàm phán ít nhất còn phải kéo dài hơn nửa tháng, thậm chí thời gian càng dài, khiến mọi người chấn động là, sau sự kiến ở Quang Minh Điện, chẳng qua ba ngày Tây Lương và Đại Tần đã đạt thành hiệp nghị cuối cùng trên bàn đàm phán.

Tốc độ đàm phán khiến người ta giật mình, mà kết quả đàm phán cũng khiến rất nhiều người cảm thấy kinh ngạc. Dường như người Tây Lương thật sự không thể kiên trì, cuối cùng đưa ra nhượng bộ, phía Tần Quốc cũng đưa ra nhượng bộ nhất định, cuối cùng hai bên xác định khoản bạc bồi thường ở năm trăm vạn lạng, ngoài ra còn cung cấp rất nhiều lương thảo dùng cho thiết kỵ Tây Lương sử dụng rút quân.

Phía Tần Quốc cũng đã đáp ứng điều kiện, nhưng lại đề xuất trình tự giao năm trăm vạn lạng đế quốc nhất định phải phân ba năm thanh toán, khoản tiền bồi thường đầu tiên hai trăm vạn lạng sẽ đợi Công chúa Tây Lương đến tây bắc, lúc hộ tống Công chúa Đại Tần tới tây bắc, dùng phương thức sính lễ của Công chúa Đại Tần vận chuyển tới Tây Lương Quốc.

Còn lương thảo Tần Quốc đương nhiên không có khả năng dựa theo số lượng người Tây Lương đề xuất vận chuyển một lần, sẽ luân phiên vận chuyển mỗi lần một số lượng lương thảo, quân đội Tây Lương sẽ rút về một bộ phận, tổng cộng chia làm mười lần giao lương thảo, mười vạn thiết kỵ Tây Lương sẽ chia làm mười lần rút khỏi Tây Bắc.

Tần Quốc đương nhiên cũng suy xét đến một khi bản quốc giao lương thực, người Tây Lương đầy đủ lương thảo chưa chắc sẽ không đổi quẻ, dù sao trước đây hai bên chưa từng hiệp nghị, ai cũng không dám cam đoan người Tây Lương có thể lật lọng hay không.

Cổ Tát Hắc Vân đại biểu tổ đàm phán, tuy rằng tranh chấp một phen, nhưng cuối cùng tiếp nhận điều kiện Tần Quốc đề xuất, hơn nữa sau khi đạt thành đàm phán sứ đoàn Tây Lương dưới sự dẫn dắt của Cổ Tát Hắc Vân rời khỏi kinh thành Lạc an, trở về Tây Lương, hết thảy có vẻ vô cùng đột nhiên, tuy rằng người Tây Lương giải thích Ma Ha Vương tử vẫn canh cánh trong lòng chuyện Quang Minh Điện, không muốn tiếp tục lưu lại Lạc An, chỉ muốn nhanh chóng trở về Tây Lương, nhưng đám quan viên Tần Quốc đều hiểu rõ trong lòng, chỉ sợ sau đó có ẩn tình khác.

Đàm phán hòa bình thành công mặc kệ bởi nguyên nhân gì, Bạch Lâm Khê xem như lập được công lao, ít nhất cái giá hai ngàn vạn lạng của người Tây Lương cuối cùng bị gã giảm xuống năm trăm vạn lạng trên bàn đàm phán, tuy rằng số lượng này vẫn không nhỏ, nhưng cuối cùng khiến người Tây Lương thỏa hiệp, vì vậy Hoàng đế lại trọng thưởng Bạch Lâm Khê đứng đầu đàm phán.

Bạch Lâm Khê đắc ý, Tiết Hoài An quả thực buồn bực tới cực điểm.

Trong lòng Lễ Bộ Thượng Thư Tiết Hoàn An quả thực hết sức phức tạp.

Quang Minh Điện gặp chuyện, gã quả thật bị kinh hãi không nhỏ, nhưng sau đó lại cảm thấy đàm phán hòa bình giữa hai nước có thể sụp đổ, chẳng biết tại sao vừa nghĩ tới hai bên hòa đàm không có kết quả, trong lòng gã hưng phấn lên.

Chỉ là cuối cùng người Tây Lương đã đạt thành đàm phán hòa bình với Đại Tần trong thời gian rất ngắn, hơn nữa lòng nóng như lẳ đốt rời khỏi kinh thành Lạc An trở về Tây Lương. Tâm tình của Tiết Hoài An đột nhiên giảm tới điểm băng.

Đàm phán hòa bình thành công, cũng đại biểu cho gã nhất định phải dẫn dắt sứ đoàn đi sứ Tây Lương.

Vừa nghĩ tới con đường phía trước sống chết còn chưa rõ, Tiết Hoài An buồn bã tự than thở, cảm thấy vận may của mình quả thật xấu tới cực điểm. Hơn nữa sau khi sứ đoàn Tây Lương rời đi, Hoàng đế lập tức hạ một ý chỉ sắc lệnh Tiết Hoài An lập tức chuẩn bị công việc đi sứ.

Lần đi sứ này là muốn tới Tây Lương cầu hôn Công chúa Tây Lương, Đại Tần tự xưng là thiên triều, cưới Công chúa Tây Lương tất nhiên không thể thiếu được phải chuẩn bị hậu lễ cầu hôn, cũng may đây vốn là việc thuộc bổn phận Lễ Bộ, ngựa quen đường cũ, dựa theo quy cách Hoàng tử đón dâu ước chừng chuẩn bị ba cỗ xe ngựa lễ vật, không thiếu được một số kỳ trân dị bảo đồ cổ tranh vẽ.

Sở Hoan thân là Phó sứ, trước khi lên đường lại thoải mái rất nhiều, hiện giờ hắn đang lo lắng dàn xếp Mạc Lăng Sương thế nào.

Thật ra lúc trước Sở Hoan không hề nói chuyện mình phải đi sứ Tây Lương cho đám người Bạch Hạt Tử, mãi đến khi đàm phán hòa bình cuối cùng đạt thành, sứ đoàn Tây Lương rời khỏi, lúc này Sở Hoan mới tìm cơ hội nói ra việc này.

Sau khi Bạch Hạt Tử biết được, lập tức chuẩn bị thu dọn hành lý, mà Tôn Tử Không cũng không cam chịu lạc hậu, hỏi Sở Hoan muốn thu xếp hành lý gồm những thứ gì.

Sau khi Lăng Sương biết việc này, cũng hơi có vẻ ảm đạm, Sở Hoan dùng thân phận Phó sứ đi sứ nước khác chính là quốc sự, nàng mộ kẻ nữ lưu, cho dù muốn đi theo cũng không được, vừa nghĩ tới sau khi Sở Hoan rời khỏi trong phủ vắng ngắt, trong lòng nàng lại hơi ảm đạm, hơn nữa nàng cũng biết lần này Sở Hoan đi sứ, không phải mười ngày nửa tháng có thể trở về được, cho dù thuận lợi cũng phải năm ba tháng mới được, thời gian gần nửa năm bản thân nàng phải cô độc trong phủ.

Sở Hoan vốn định để hai người Bạch Hạt Tử lưu lại trong phủ chiếu cố, nhưng Bạch Hạt Tử như đinh đóng cột muốn đi theo Sở Hoan, Sở Hoan suy nghĩ liền dẫn Bạch Hạt Tử đặc biệt đi mua hai tiểu nha đầu về phủ.

Thật ra rất nhiều nơi trong Đế quốc đều nghèo khổ, chuyện bán con gái đã không mới mẻ chút nào, trong kinh có không ít địa phương thu mua người giá thấp từ các nơi sau đó bán giá ca cho quan lại quyền quý ở kinh thành làm nô tì, nói là giá cao nhưng đối với quan lại quyền quý mà nói, giá cả mua nô tì thật sự rẻ, một nha đầu xinh tươi thấp thì mấy chục lạng, cao thì mấy trăm lạng bạc liền có được.

Sở Hoan mất 150 lạng bạc mua về hai nha đầu thanh lịch, cũng chưa tới hai mươi tuổi, tuy rằng tướng mạo bình thường, nhưng lạnh lợi, đây cũng là lần đầu tiên từ lúc chào đới tới nay hắn mua nha hoàn cho nhà mình.

Hiện giờ hắn có mấy trăng cân lương thực, nuôi sống hai nha đầu kia quả thật dư dả, từ đầu Lăng Sương không rõ vì sao Sở Hoan mua thêm nha đầu, nhưng rất nhanh liền hiểu được Sở Hoan mua nha hoàn không phải vì bản thân, hoàn toàn là vì nàng có thêm hai tiểu nha đầu lanh lợi làm bạn, tất nhiên sẽ không quá quạnh quẽ.

Sở Hoan lại đặc biệt đi tìm Thự Đầu Tây Môn Thự Vương Phủ, để gã chiếu cố nhiều hơn một chút. Vương Phủ đương nhiên vỗ ngực đáp ứng, Sở Hoan đi sứ Tây Lương, một Thự Đầu nho nhỏ như gã thật ra cũng không biết đây là một hành trình hung hiểm, cảm thấy mấy ngày ngắn ngủn nữa Sở Hoan sẽ đại biểu Đại Tần đi sứ Tây Lương, quả thật không thể tưởng tượng nổi, vị Sở đại nhân này tiền đồ vô lượng, mình về công về tư đều muốn ôm lấy đùi hắn, hơn nữa ngay trước mặt Sở Hoan phân phó Tôn Tĩnh Nhất cùng ba gã Võ Kinh Vệ khác từ hôm nay về sau liền làm hộ vệ Sở phủ ngày đêm thay phiên bảo hộ phủ đệ Sở Hoan.

Tây Môn Thự có hơn ba mươi người, hiện giờ đều do Vương Phủ điều động, sai bốn người đi bảo hộ Sở phủ cũng là chuyện thuận tay.

Ma Ha Tàng công bố ba tháng sau đó là lễ điểm thân của Tây Lương, sứ đoàn Đại Tần cũng không dám kéo dài, Tiết Hoài An chỉnh đốn sắp xếp xong công việc đi sứ, liền tấu trình Hoàng đế. Hoàng đế hạ chỉ ấn định thời gian lại gọi Tiết Hoài An và Sở Hoan vào cung dặn dò một lần nữa:

- Lần này đi tới Tây Lương, trẫm kỳ vọng rất sâu đối với các ngươi, đừng để trẫm thất vọng!

Hai người tự nhiên hô cúc cung tận tụy đến chết mới thôi, Hoàng đế lại nói:

- Lần này các ngươi ngàn dặm xa xôi tới Tây Lương, trẫm đã điều ra ba trăm tinh binh từ Cận Vệ Quân do Hiên Viên Thắng Tài thống lĩnh cùng các ngươi tới Tây Lương.

Sở Hoan lại hơi kinh ngạc, hắn biết chuyện Tây Lương lần này tất nhiên sẽ có tinh binh hộ vệ, thậm chí sớm đoán được rất có thể là tinh binh lựa chọn ra từ Cận Vệ Quân, chỉ là không thể tưởng được thống lĩnh phái ra hộ vệ lần này lại là Hiên Viên Thắng Tài.

Sứ đoàn đi sứ vẫn chưa gióng trống khua chiêng, đến lúc này đi sứ rất nhiều quan viên thậm chí không rõ ràng lắm sứ đoàn Đại Tần phải tới Tây Lương hôm nay.

Hiên Viên Thắng Tài dẫn ba trăm tinh binh Cận Vệ Quân đều mặc giáp mãnh hổ lưng đeo cung áo giáp sáng rực, họ không hổ là tinh binh Đại Tần, mặc dù chỉ là ba trăm người, nhưng sát khí nghiêm nghị cũng có một thế không thể xâm phạm.

Tiết Hoài An là Chính sứ, nhưng gã cũng lựa chọn vài tên quan viên từ Lễ Bộ đi theo, dù sao nếu quả thật tới Tây Lương rồi, chỉ sợ còn có rất nhiều viêc rườm rà, trong mắt gã Sở Hoan mặc quan bào những cũng giống như Hiên Viên Thắng Tài và người xung quanh đều coi như võ giả, tới Tây Lương chỉ có một mình gã là quan văn, rất nhiều chuyện xử lý đương nhiên cũng sẽ khó giải quyết rất nhiều.

Gã chọn năm sáu quan viên Lễ Bộ cùng đi, vài quan viên này ngoài mặt cung kình nhưng trong lòng thì mắng tổ tông mười tám đời của Tiết Hoài An một lần.

Ngoài năm chiếc xe chở vật phẩm thêm phu xe ra, sứ đoàn cũng có hơn ba trăm người, tuy rằng không coi như nhiều nhưng cũng có một chút quy mô.

Sứ đoàn đều dùng ngựa Tây Bắc khỏe mạnh sức chịu đựng dai.

Bạch Hạt Tử và Tôn Tử Không muốn theo Sở Hoan tới Tây Lương, Sở Hoan cùng từng nói với hai người về đường xá gian nan, thậm chí có thể nói là có đi không có về, Bạch Hạt Tử như đinh đóng cột kiên trì đi tới, Tôn Tử Không quả thật hơi do dự nhưng cuối cùng vẫn đi theo, hai người này làm người hầu cận Sở Hoan đi cùng. Chính sứ Tiết Hoài An không nói gì thêm, gã cũng trông mong người đi theo càng nhiều càng tốt, người nhiều bảo hộ nhiều hơn một phần, đó là chuyện cầu còn không được.

Lúc sáng sớm sứ đoàn xuất phát từ nha môn Lễ Bộ, lúc rời khỏi không có cảnh tượng gì náo nhiệt, trái lại hơi quạnh quẽ. Ngoại trừ quan viên Lễ Bộ, Lang Vô Hư Hộ Bộ cũng dẫn theo vài tên quan viên Hộ Bộ tới đưa tiễn, sứ đoàn theo con phố dài rời khỏi kinh thành từ cửa bắc, khi tới cửa bắc lại phát hiện một chiếc xe ngựa màu đen dừng bên cạnh, ngoài trừ phu xe đội nón tre, có ba gã nam tử mặc kính y đầu đội nón tre cưỡi ngựa cao to, thấy sứ đoàn một người cưỡi ngựa đã đi tới đón. Hiên Viên Thắng Tài đang muốn phái người ngăn lại, Sở Hoan đã giục ngựa tới trước, lần lượt dừng ngựa cùng người nọ, hai người ghé sát vào nhau nói nhỏ, người nọ khẽ vuốt cằm chắp tay với Sở Hoan, lại hạ thấp nón tre xuống lao ngựa về bên cạnh chiếc xe ngựa màu đen kia.

Hiên Viên Thắng Tài hơi kỳ quái, Sở Hoan đã lao ngựa tới gần gã thấp giọng nói:

- Hiên Viên tướng quân, vị vừa rồi là Chử Bách hộ Thần Y Vệ, phụng mệnh Thánh thượng hộ tống sứ đoàn đi sứ!

Hiên Viên Thắng Tài hơi kinh ngạc, nhưng nếu Sở Hoan nói vậy cũng không nhiều lời, thấy cỗ xe ngựa màu đen kia che cực kỳ kín, cũng không biết người bên trong rốt cuộc là ai.

Sứ đoàn ra khỏi thành đi ra vài dặm, Sở Hoan quay đầu lại nhìn kinh thành Lạc An khí thế vô biên dưới sáng sớm, vẫn là tòa thành kia, chỉ là Sở Hoan không thể xác định chờ sau khi mình trở về từ Tây Lương, cố nhân có còn là cố nhân như cũ hay không?

Ngẩng đầu nhìn ánh mặt trời sáng sớm chiếu xuống mặt đất, không biết sa mạc ngoài ngàn dặm kia cũng có ánh rạng đông yên lặng thanh nhã như vậy hay không?

Sứ đoàn yên lặng rời khỏi thành Lạc An, thẳng về hướng Tây Bắc đi tới.

Dần dần, các dãy nhà cao phố dài đã được thay thế bởi cảnh sắc thiên nhiên non xanh nước biếc. So với bức tranh muôn màu sắc của kinh thành, Sở Hoan lại thích khung cảnh trời xanh mây trắng này hơn.

Sứ đoàn tốc độ không chậm, trước khi lên đường cũng đã xác định lộ trình cũng như các quan đạo đi qua.

Tuy rằng ở kinh thành mọi người đều đã hưởng thụ cảnh thái bình phồn hoa, hơn nữa, mỗi ngày trong triều đều có quan viên tung hô Đại Tần thịnh thế nhưng không ít người trong lòng vẫn thầm hiểu, cảnh phồn hoa ở kinh thành và cảnh hỗn loạn bên ngoài tuyệt đối là hai thế giới khác nhau.

Hoàng đế trong hoàng cung ngày nào cũng được ca tụng công đức. Tiết Hoài An tuy rằng đối với cục diện Đại Tần hiện giờ không hẳn là nắm rõ trong lòng bàn tay nhưng cũng biết thực tế chưa chắc đã an bình. Y thường xuyên nghe người ta nói các vùng hẻo lánh khắp Đại Tần đều có trộm cướp, hơn nữa nạn thổ phỉ ở các địa phương càng diệt càng hoành hành dữ dội hơn.

Tuy rằng đi đến Tây Bắc cũng có các con đường tắt nhưng phải trèo non lội suối, Tiết Hoài An lo lắng trên đường có nạn trộm cướp nên trước đó đã quyết định chỉ đi bằng đường cái.

Đi đường cái tuy rằng chưa chắc đã an toàn tuyệt đối nhưng so với việc trèo non lội suối đi đường tắt thì hẳn sẽ an toàn hơn nhiều.

Lần này đi sứ, đương nhiên cũng không phải chuyện bí mật gì, tuy rằng không đến mức gióng trống khua chiêng nhưng Tiết Hoài An trên đường vẫn phái người thông báo cho quan phủ địa phương chuẩn bị tiếp đón.

Hiên Viên Thắng Tài và ba trăm cận vệ tinh nhuệ đều là những Cận Vệ quân trải qua huấn luyện nghiêm khắc ý chí chiến đấu sục sôi. Tuy bọn họ thủ vệ hoàng cung chức trách quan trọng, nhưng những chuyện xảy ra như ở Quang Minh điện vừa rồi quả thật rất hiếm gặp. Hơn nữa, cũng không phải Cận Vệ quân nào cũng có cơ hội xuất thủ.

Việc này chẳng khác gì với chuyện một người có trong tay một bảo vật luôn muốn có dịp để khoe. Cận Vệ quân được xưng là quân sĩ tinh bén nhất đế quốc. Sâu trong nội tâm bọn họ cũng cảm thấy kiêu ngạo với thân phận của mình. Nhưng thân là Cận Vệ quân bản lĩnh đầy mình lại không có đất dụng võ nên ít nhiều có chút không cam lòng.

Lần này đi sứ Tây Lương, Tiết Hoài An cùng quan viên Lễ bộ hộ tống lòng luôn thấp thỏm bất an nhưng Hiên Viên Thiệu và các tướng sĩ Cận Vệ quân liên quan thì phấn khởi vô cùng. Nhiệm vụ lần này càng gian nan, đối với bọn họ, càng là dịp để thi thố tài năng. Hơn nữa, những binh sĩ này đều biết rằng chỉ ở lại trong cung mà chờ đợi cơ hội thăng tiến thì khó khăn vô cùng. Nếu chuyến đi này thành công, thì công lao so với các đồng bạn Cận Vệ quân canh giữ kinh thàn sẽ lớn hơn nhiều. Đồng nghĩa với cơ hội thăng tiến cũng sẽ cao hơn.

Sở Hoan trước đây chỉ biết Hiên Viên Thắng Tài tiễn pháp cao minh, nhưng lần này mới biết Hiên Viên Thắng Tài không hổ là người của Hiên Viên gia tộc. Tuy rằng chỉ có ban trăm Cận Vệ binh nhưng phân phối gọn gàng ngăn nắp, điều động mười tên kỵ binh làm thám báo, đi trước tìm hiểu tình hình. 294 kỵ binh chia thành bốn đội. Hai cánh còn có 50 kỵ binh bọc lót xung quanh. 140 kỵ binh còn lại đi chặn hậu. Mỗi đội đều sắp xếp một đội trưởng, nên rất tiện cho việc chỉ huy.

Còn Hiên Viên Thắng Tài thì qua lại không ngớt giữa các đội, hết sức cẩn thận nghiêm túc. Sở Hoan mơ hồ cảm thấy Hiên Viên Thắng Tài này nếu có nhiều kinh nghiệm chinh chiến hơn chưa chắc đã không thể trở thành đại tướng quân.

Trong đội ngũ, đặc biệt nhất đương nhiên là mấy người Chử Bách hộ bảo hộ cỗ xe ngựa kia, toàn thân hắc y đen nhánh, cửa xe ngựa bằng gỗ kín bưng không ai biết bên trong có gì. Phu xe ngồi phía trước, Chử Bách hộ cưỡi ngựa đi phía sau, hai bên có hai gã Thần Y vệ đội nón tre quần áo cứng cáp. Bọn họ trước sau như một duy trì sự cảnh vệ tuyệt đối. Ngay cả Cận Vệ quân cũng không thể tới gần. Chỉ cần có binh sĩ nào hơi đứng gần cỗ xe ngựa, lập tức Thần Y vệ nắm chặt chuôi đao, ánh mắt dưới mũ rộng vành bắn ra hàn quang.

Thoắt cái đã qua năm sáu ngày dần xa bóng kinh thành. Dọc đường đi cũng khá thuận lợi. Các quan phủ địa phương được báo tin trước nên cũng sớm chuẩn bị chỗ ăn nghỉ, chẳng qua là sứ đoàn muốn đơn giản hóa các khâu, để tránh làm chậm cuộc hành trình.

Qua khỏi Liễu Hồng quan, thì coi như đã hoàn toàn ra khỏi địa phận Quan Trung. Từ đây, có vẻ như địa hình bắt đầu hoang vu hơn, thỉnh thoảng còn nhìn thấy bóng dân chúng quần áo mục nát thê thê thảm thảm lang thang ăn xin.

Chỉ có điều sứ đoàn được bảo hộ bởi Cận Vệ quân áo giáp lạnh như băng, nên dân chúng cũng chỉ dám đứng xa mà nhìn hoặc nhanh chân tránh đường.

Hiên Viên Thắng Tài giục ngựa đến bên cạnh Sở Hoan có chút kinh ngạc hỏi:

- Sở đại nhân, tại sao qua Liễu Hồng quan lưu dân lại nhiều hơn.

Sở Hoan biết Hiên Viên Thắng Tài những năm gần đây luôn sống trong kinh thành nên không biết cuộc sống của dân chúng bên ngoài như thế nào. Hắn cười nói:

- Đây còn chưa đến Tây Cốc quan, nếu ra đến Tây Cốc quan, Hiên Viên tướng quân sẽ thấy dân lưu lạc gấp trăm lần thế này.

- Bọn họ vì sao không ở nhà trồng trọt kiếm sống?

Hiên Viên Thắng Tài khó hiểu hỏi:

- Ra ngoài khất thực quả là bi thảm.

Gã khi đi quan Liễu Hồng quan đã mấy lần nhìn thấy lưu dân đi ăn xin già trên sáu mươi trẻ dưới mười tuổi cũng có.

Sở Hoan nhẹ nhàng cười:

- Có ai không muốn như vậy?

Hắn cũng không giải thích gì thêm, dù sao hiện giờ hắn cũng là quan viên triều đình, trái phải đều là người của triều đình, nói mấy lời ca thán thật không nên chút nào.

Ở kinh thành thời gian tuy không dài nhưng hắn cũng hiểu được khiến đế quốc trở nên thê thảm như vậy Hoàng đế khó tránh khỏi tội. Hắn ở Hộ bộ càng hiểu quốc khố đã mục ruỗng đến cỡ nào. Hoàng đế tu đạo tiêu phí lượng ngân sách khổng lồ, mà những chuyện ẩn giấu đằng sau Hồng ngân sách có thể nói là khiến cho người ta phải kinh sợ.

Hoàng đế tu đạo Hoàng tử tranh giành quyền lực kéo bè kết phái quan viên tham ô đục khoét hết thảy đều là từ quốc khố. Đến bây giờ, quan lại vì bách tính lê dân càng ngày càng ít. Hầu như ai cũng muốn tích cóp của cải vơ vét cho bản thân, nên từ quan viên triều đình đến địa phương đều như đỉa hút máu dân lành. Thử hỏi dân chúng làm sao mà sống nổi?

Sở Hoan không thể thừa nhận Hoàng đế Bệ hạ vẫn còn lưu lại chút ít khí phách thiết huyết của thời trai trẻ tranh đoạt thiên hạ, nhưng theo thời gian lão càng ngày càng cực đoan cố chấp. Năm đó, lão dựa vào tính cực đoan cố chấp này mà tạo nên niềm tin sắt đá là sẽ bình định thiên hạ, nhưng nếu tu đạo cũng cực đoan cố chấp như thế thì có thể nói là họa nước họa dân.

Sở Hoan không biết nên đánh giá thế nào về bậc đế vương này nữa.

Đôi khi hắn có cảm giác lão là hạng người giảo hoạt không để lộ tâm tư, nhưng cũng có đôi khi thấy lão quá cực đoan nên dẫn đến những hành động ngu xuẩn vô cùng.

Sở Hoan không hiểu vì sao một Hoàng đế đã phải rất vất vả mới giành được giang sơn lại chỉ xem đó như một món đồ chơi. Giang sơn mà lão phải mất hai mươi năm mới có được nếu qua mười mấy năm thống trị mà vẫn giữ được cốt khí năm xưa thì nhất định tên tuổi sẽ lưu danh thiên cổ. Nhưng đáng tiếc, tinh lực mấy thập niên của lão đã vì sự tu đạo mờ mịt hư vô mà ngay lập tức chẳng còn chút giá trị nào cả.

Lần đi sứ này Hoàng đế đặc biệt giao mật vụ là muốn tìm hiểu con đường lưu thông, tuyến vận chuyển quân sự qua đại sa mạc Kim Cổ Lan. Còn có thông tin về vương thành Thanh La cùng với tình trạng chính trị của Tây Lương nữa, Sở Hoan đoán nếu không có gì bất thường xảy ra thì nhất định Hoàng đệ Bệ Hạ đã nghĩ cách phát động chiến tranh với người Tây Lương.

Sở Hoan trong lòng hiểu rõ, lấy thực lực hiện tại của đế quốc, có thể ổn định quốc nội ngăn trở ngoại xâm cũng đã tốt lắm rồi. Còn muốn vượt qua đại sa mạc phát động chiến tranh quy mô với Tây Lương không thể nghi ngờ là người si nói mộng. Cho dù Hoàng đế hiện tại nếu kịp thời tỉnh ngộ thì cũng cần phải có tám chín năm chuẩn bị may ra mới có thể phát động cuộc chiến này.

Hoàng đế hiện giờ đã hơn 60 tuổi, chẳng lẽ lão thật sự tin còn có đủ thời gian đủ tinh lực để một lần nữa phát động chiến tranh đại quy mô?

Sở Hoan đúng là đoán không ra tâm tư của Hoàng đế. Thật nói tâm tư đế vương không phải người thường nào cũng hiểu được quả không sai.

Lần đi sứ này Sở Hoan chỉ hy vọng có thể thuận lợi mang công chúa Tây Lương bình an về đến kinh thành. Hắn còn nhiều việc phải làm, tuyệt không thể bỏ mạng ở ngoài Nhạn Môn quan.

Hoàng hôn bảng lảng buông. Tiết Hoài An nhăn nhó quay đầu nói với Hiên Viên Thắng Tài:

- Hiên Viên tướng quân, chúng ta chẳng phải đã đến huyện Cô Sơn? Người phái đi thám báo sao vẫn chưa trở về?

Hiên Viên Thắng Tài giục ngựa tiến thêm mấy bước, nhìn bóng dáng mờ tối đen xịt phía xa xa hiển nhiên đoán đó là một ngọn núi. Gã chỉ con đường vào núi nói:

- Tiết đại nhân, dựa theo bản đồ, thì nơi đó chính là thị trấn Cô Sơn. Xem ra khoảng cách cũng không còn xa, chúng ta chỉ cần tăng tốc thêm một chút trong vòng một canh giờ nữa sẽ đến được thị trấn Cô Sơn.

Lời chưa dứt thì nghe tiếng vó ngựa vang lên. Hiên Viên Thắng Tài ngẩng đầu lên nhìn, thấy từ phía trước có mấy con khoái mã chạy như bay đến, khi chỉ còn cách một đoạn ngắn thì dừng lại. Một người xoay người xuống ngựa quỳ rạp xuống đất nói:

- Hạ quan là Huyện thừa huyện Cô Sơn nhận lệnh của Mao Tri huyện đến đón sứ đoàn.

Tiết Hoài An cau mày hỏi:

- Mao Tri huyện các ngươi đâu?

- Mao Tri huyện đang tự mình bày tiệc rượu.

Huyện thừa vội trả lời:

- Tri huyện đại nhân vốn muốn đích thân đi đón nhưng hai hôm nay đại nhân bệnh nặng nên không thể đi xa.

Một ngày đi mải miết, Tiết Hoài An cũng có chút mệt mỏi, nên cũng không muốn quản nhiều, nói:

- Một khi đã như vậy, ngươi dẫn đường đi.

Huyện thừa đáp ứng một tiếng, lúc này mới xoay đầu ngựa lại đi phía trước dẫn đường. Sở Hoan giục ngựa lại gần đột nhiên hỏi:

- Mấy người chúng ta phái tới thám báo các ngươi có gặp không?

Huyện thừa kia vội đáp:

- Vài binh gia hiện giờ đang nghỉ tạm ở thị trấn.

Gã dẫn hai nha sai dẫn đường, trời tối xuống rất nhanh, đi thêm vài dặm Tiết Hoài An nóng ruột giục ngựa lên hỏi:

- Còn xa lắm không?

Huyện thừa đáp:

- Hồi bẩm đại nhân, đi theo đường cái này đến một đoạn nữa sẽ có một ngã ba. Nếu như qoẹo vào đường tắt thì sẽ nhanh hơn một chút.

Tiết Hoài An ngẩng đầu nhìn sắc trời, bụng thì đói, nên nhân tiện nói:

- Nếu gần hơn thì cứ theo đường tắt mà đi.