Sampson và tôi lái xe đến Brigadoon, Bắc California. Chúng tôi định cuốc bộ qua rừng đến nơi mà trước đây Kate được tìm thấy ở sông Wykagil. Ray Bradbury đã từng viết rằng “chấp nhận rủi ro là phải nhảy khỏi vách đá, tự tạo nên đôi cánh lúc hạ xuống,” Sampson và tôi đã sẵn sàng nhảy.

Khi chúng tôi lê bước vào cánh rừng âm u, những cây sồi và cây thông California cao chót vót che hết ánh sáng mặt trời. Điệp khúc của đám ve sầu quyện đặc như mật đường xung quanh chúng tôi. Không khí trở nên lắng đọng.

Tôi có thể tưởng tượng, tôi nhìn thấy hình ảnh Kate chạy qua những cánh rừng xanh thẫm này, chiến đấu để giành lấy sự sống chỉ với vài tuần trước. Tôi lại nghĩ về tình trạng cô ấy bây giờ, sống sót nhờ vào những hệ thống hỗ trợ sự sống. Tôi có thể nghe tiếng kêu bíp bíp của các thiết bị. Chỉ cần nghĩ đến đó thôi cũng khiến trái tim tôi quặn đau.

“Tớ không thích cảm giác ở trong những cánh rừng rậm rạp, tối tăm,” Sampson thú nhận khi chúng tôi đi dưới dàn dây leo rậm rì và những ngọn cây giống như túp lều. Cậu ấy mặc áo sơ mi Cypress Hill, quần jean, ủng lao động, đeo kính mát Ray-Ban. “Khiến tớ nhớ đến Hansel và Gretel. Đúng là ba cái thứ cải lương anh bạn ạ. Hồi bé, tớ ghét câu chuyện đó lắm.”

“Cậu thì có lúc nào hồi bé đâu,” tôi nhắc câu ấy. “Mười một tuổi cậu đã cao mét tám rồi, và có quan tâm đến tác phẩm nghệ thuật nào đâu.”

“Có thể, nhưng tớ ghét những câu chuyện của anh em nhà Grimm. Mặt đen tối trong trí óc người Đức là đã để những ảo tưởng khó chịu bóp méo trí óc trẻ con Đức. Hẳn là cũng có tác dụng đấy.”

Sampson lại khiến tôi bật cười với cái lý thuyết bị bóp méo về thế giới bị bóp méo. “Cậu không ngần ngại điều tra những vụ án của D.C vào ban đêm, nhưng một cuộc đi dạo nhẹ nhàng trong khu rừng này lại làm cậu sợ sao? Ở đây không có gì làm hại cậu đâu. Cây thông. Giàn nho xạ. Bụi cây mâm xôi. Trông thì có vẻ nguy hiểm, có thể lắm, nhưng vô hại.”

“Có vẻ nguy hiểm tức là nguy hiểm. Đó là phương châm của tớ.”

Sampson khó khăn lách cơ thể vạm vỡ qua những cây non và kim ngân hoa quấn chặt vào nhau nơi bìa rừng. Kim ngân giống như một màn lưới giăng khắp mọi nơi. Chúng mọc khá lộn xộn.

Tôi tự hỏi liệu gã Casanova có đang theo dõi chúng tôi hay không. Tôi ngờ rằng hắn là một kẻ quan sát cực kỳ kiên trì. Cả hắn và Will Rudolph đều thông minh, có óc tổ chức, và cẩn trọng. Chúng đã tác oai tác quái nhiều năm mà chưa bị sa lưới.

“Làm sao cậu biết câu chuyện của những nô lệ trong vùng này?” Tôi hỏi Sampson trong khi cuốc bộ. Tôi muốn cậu ta thôi không nghĩ đến lũ rắn độc và dây leo lủng lẳng như rắn nữa. Tôi cần cậu ta tập trung vào kẻ giết người, hoặc có thể là những kẻ giết người đang hiện diện trong khu rừng này với chúng tôi.

“Tớ xem qua một vài nghiên cứu của E.D Genovese, và Mohamed Auad,” cậu ta trả lời. Tôi không biết cậu ta có nói nghiêm túc hay không. Là người thiên về hành động nhưng Sampson rất chịu khó đọc.

“Đường Xe lửa ngầm đã từng được sử dụng ở nơi này. Những người nô lệ cùng cả gia đình bỏ trốn lên phía Bắc đã trú ẩn an toàn trong nhiều ngày, thậm chí trong nhiều tuần tại một số trang trại địa phương. Chúng được gọi là trạm,” tôi nói. “Đó là những gì thể hiện trong bản đồ của tiến sĩ Freed. Sách của ông ấy cũng viết vậy.”

“Tớ không thấy bất kỳ trang trại nào cả, bác sĩ Livingstone[1] ạ. Chỉ có đám nho xạ chết tiệt này,” Sampson càu nhàu, dùng cánh tay dài đẩy những cành cây khác ra.

[1] Bác sĩ, nhà truyền giáo, nhà thám hiểm vĩ đại người Scotland.

“Phía Tây chỗ này từng là những trang trại thuốc lá rộng lớn. Chúng đã bị bỏ hoang gần sáu mươi năm rồi. Còn nhớ tớ đã kể với cậu chuyện một sinh viên Đại học Bắc California bị hãm hiếp và giết hại dã man vào năm 1981 không? Cơ thể bị phân hủy của cô gái đã được phát hiện tại nơi này. Tôi nghĩ Rudolph, hoặc có thể là Casanova đã giết cô gái đó. Đó là khoảng thời gian chúng gặp nhau lần đầu tiên.”

“Bản đồ của tiến sĩ Freed cho thấy vị trí của đường sắt ngầm cổ, và hầu hết trang trại của các nô lệ chạy trốn ẩn náu. Một số trang trại từng mở ra các hầm, thậm chí là những khu nhà dưới lòng đất. Giờ đây thì chính các trang trại đều đã biến mất. Máy bay tuần tra không thể nhìn thấy gì từ trên cao. Cây kim ngân và mâm xôi cũng mọc quá dày đặc. Mặc dù những căn hầm vẫn còn đây.”

“Hừm. Cậu có bản đồ tiện ích để xem vị trí của các trang trại thuốc lá thời xưa đó chứ?”

“Có chứ. Bản đồ. La bàn. Có cả một khẩu súng lục nữa,” tôi nói, vỗ nhẹ vào bao súng.

“Quan trọng nhất là,” Sampson nói, “cậu còn có tớ.”

“Chính xác. Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những kẻ vô đạo.”

Sampson và tôi đi mãi, đi mãi trong buổi chiều nóng ẩm, mệt mỏi. Chúng tôi cố gắng tìm ba trong số các trang trại, nơi lá cây thuốc lá từng mọc xum suê; nơi những người đàn ông, đàn bà da đen, đôi khi là cả gia đình họ với khuôn mặt đầy sợ hãi được đưa vào nơi ẩn náu trong những căn hầm cũ, khi họ cố chạy trốn đến với miền đất tự do ở phía Bắc, đến những thành phố như Washington, D.C.

Hai trong số những căn hầm ở chính xác nơi mà tiến sĩ Freed chỉ ra. Những tấm ván gỗ cũ kỹ, kim loại cong vênh đầy rỉ sét là dấu hiệu duy nhất còn lại của trang trại xưa kia. Trông như thể một vị thần giận dữ đã xuống đây phá hủy cảnh sở hữu nô lệ lạc hậu.

Khoảng bốn giờ chiều, Sampson và tôi đến trang trại của gia đình Jason Snyder từng vang bóng một thời.

“Làm thế nào cậu biết chúng ta đến nơi rồi?” Sampson nhìn quanh khu vực nhỏ hẹp, hoang vắng, đổ nát mà tôi dừng lại.

“Bản đồ vẽ tay của tiến sĩ Louis Freed chỉ như vậy. La bàn cũng chỉ hướng tương tự. Ông ấy là sử gia nổi tiếng, nên chắc chắn là đúng.”

Dù vậy Sampson cũng có lý. Ở đây chẳng có gì mà nhìn. Trang trại nhà Jason Snyder đã hoàn toàn biến mất. Như Kate đã nói trước đó.