Lương Sơn, tỉnh Tứ Xuyên.
Bấm đốt ngón tay thì Đoàn Kỳ Phàn đã trốn tới Lương Sơn được gần hai tháng. Kẻ phụ trách tiếp ứng cho y chính là Oai Tử, một kẻ vô công rồi nghề,
chỉ chuyên săn tin bên này bán cho bên kia nhằm kiếm miếng ăn. Nói thì
nói vậy nhưng chớ coi thường gã, mọi chuyện từ nhỏ đến lớn của Đoàn Kỳ
Phàn trong những ngày đầu đến đất này đều do mình gã lo liệu. Mặc dù
trên người gánh tội danh giết người nhưng khi chạy tới Lương Sơn này thì chẳng một ai để lộ tin tức của gã. Oai Tử có rất nhiều bạn, đây chính
là kế sinh nhai của gã. Có điều, người mà Đoàn Kỳ Phàn mong gặp nhất thì mãi vẫn chưa gặp được. Thiên Thiềm từng nói, nếu y muốn đổi đời, muốn
nổi danh hơn người thì buộc phải về nương nhờ dưới trướng Mạnh lão gia.
Mạnh lão gia chính là kẻ có khả năng hô phong hoán vũ nhất ở đất Lương
Sơn này.
Nhắc đến Mạnh lão gia, người ta đồn rằng lão cũng chạy
tới đây vì muốn trốn tội trong một vụ án mạng. Ở Lương Sơn chủ yếu là
người dân tộc Di sinh sống, một mình lão là kẻ dị tộc nhưng lão không
những có thể tạo ra vùng trời riêng mà còn khiến dân bản đại tình nguyện chia một nửa miền sơn cước này cho mình. Trong con mắt nhiều người, đây đúng là một kỳ tích. Cũng có lẽ vì tài năng của lão nên con gái của tộc trưởng thà chết cũng đòi theo lão. Thế là lão lấy cô ta, đồng thời
chiếm luôn nửa phần giang sơn còn lại của cha cô ta. Từ đó về sau, khu
vực này gần như trở thành một tiểu quốc theo chế độ nô lệ. Sự tồn tại
của lão đồng nghĩa với uy quyền. Dưới sự hiệu triệu của Mạnh lão gia,
ngoài trồng trọt ngũ cốc, hoa màu, dân bản địa còn tăng gia sản xuất hoa anh túc. Họ nộp quả anh túc để đổi lấy những vật dụng thiết yếu từ chỗ
lão. Những người này chỉ sống trong vùng núi khép kín nên rất ngây thơ.
Trong mắt của Đoàn Kỳ Phàn, những thứ họ muốn đổi lấy chẳng đáng giá
chút nào, trong khi quả anh túc đến tay Mạnh lão gia lại được chưng cất
thành ngàn vạn bánh thuốc phiện. Và thứ mà Mạnh lão gia đổi được từ tay
người nông dân là sự giàu có hưởng cả đời không hết và thế lực không
ngừng hùng mạnh.
Lúc Đoàn Kỳ Phàn và Oai Tử hút thuốc ngoài cửa
nhà, mấy lần nhìn thấy quân tuần tra của Mạnh lão gia tóm cổ những thành phần gây rối. Những nơi chung đụng giữa ba tộc người, chuyện thị phi
chưa bao giờ yên ắng. Ngoài người Di ra thì ở đây còn có người Hồi và
người Hán, họ thường đấm đá nhau chỉ vì chút mâu thuẫn nhỏ. Giải quyết
xong, họ lại bình thường như chưa từng xảy ra chuyện gì, gặp nhau vẫn
nói nói cười cười. Ban đầu, người trong thị trấn nhìn thấy cảnh ấy còn
lao vào khuyên can nhưng sau đó họ cũng chán chẳng buồn để ý đến, chỉ
coi những người đó như những oan gia vui vẻ. Nhưng Mạnh lão gia lại
không cho phép như vậy, bởi không một ai được phép vi phạm quy tắc mà
lão đã định ra trên địa bàn của mình.
May mà Đoàn Kỳ Phàn và Oai
Tử chưa bao giờ phải đỏ mặt tía tai vì những chuyện vặt vãnh ấy. Kể ra
thì trong người Oai Tử cũng có huyết thống của người dân tộc Hồi nhưng
phong tục, thói quen của gã đã bị đồng hóa với người Hán hết rồi. Mỗi
lần thấy gã nhai thịt lợn, Đoàn Kỳ Phàn lại lầm bầm ngồi rủa. Có điều,
hôm nay, gã chẳng những không ăn thịt mà ngay cả cơm cũng chẳng thèm
động đến.
“Hiếm có nhỉ! Hôm nay định tuyệt thực đấy à?” Đoàn Kỳ Phàn thắc mắc.
“Không ăn!” Oai Tử xua tay, phấn khích ghé vào tai y, nói thầm: “Hôm nay, Mạnh lão gia bày tiệc rượu ở đầu đầm, chỉ cần quen biết sơ sơ với lão là có
thể tham dự. Anh là tội phạm trốn chạy đến đây, kiểu gì cũng phải đi vấn an lão mới được. Nếu lão gật đầu, anh mới được phép ở lại. Trước đây,
tôi toàn đứng ra xin hộ anh, nhưng bây giờ lão ta rảnh rồi, anh nên đích thân đến đó chào lão.”
Đoàn Kỳ Phàn lập tức vứt luôn đôi đũa trong tay xuống, hỏi dồn: “Bây giờ sao? Lai lịch của tôi thế này có đi được không?”
“Nếu không, Thiên Thiềm bảo anh đến tìm tôi làm gì? Bản lĩnh khác có thể tôi không có nhưng cái mặt này thì vẫn khiến người ta phải nể đôi chút. Có
điều anh phải lưu ý từng động tác của Mạnh lão gia, đặc biệt là hai tay
của lão.” Oai Tử nói không rõ ràng nên Đoàn Kỳ Phàn cũng chỉ hiểu lơ mơ.
“Lẽ nào điều đó có liên quan gì đến thói quen của lão sao?”
Oai Tử gật đầu, nói nhỏ: “Mạnh lão gia thường dùng tay ra ám hiệu để quyết
định chuyện đi ở, sinh tử của một người, đồng thời cũng thể hiện lão quý hay ghét kẻ đó. Nếu lão dùng tay trái thì anh gặp vận may, còn như dùng tay phải thì anh cứ đợi bị tống khứ. Đặc biệt phải để ý xem lão dùng
bàn tay nào để gõ mặt bàn, bởi điều đó thể hiện ấn tượng đầu tiên của
lão đối với anh.”
“Mẹ kiếp! Lắm trò thế không biết!”
“Bớt
cằn nhằn đi. Đến khi nào ông anh có quyền lực rồi thì muốn chặt cánh tay của ai cũng được, nếu chê ít thì gom luôn kẻ dưới cho ông anh tha hồ
chặt. Nhưng trước mắt thì cứ ngoan ngoãn làm con rùa đã.”
Những
lời này, chẳng qua cũng chỉ là Oai Tử tiện miệng nói đùa, không ngờ
người nghe lại ghi lòng tạc dạ. Nhưng nếu đàn ông mà không ngông cuồng
vọng tưởng thì có sống đến trăm tuổi cũng là chịu tội nhân gian. Đoàn Kỳ Phàn y tuyệt đối không chỉ cầu một cuộc sống bình yên cho qua ngày đoạn tháng.
Tối hôm đó, đi tới đầu đầm, Đoàn Kỳ Phàn thận trọng bám theo Oai Tử vào trong ngôi nhà lợp ngói cao hơn nhà dân bình thường.
Để chứa đủ số người, ngôi nhà ngói ấy được chính tay sư phụ lành nghề nhất trong huyện thành xây dựng, thiết kế mang hơi hướm nhà của người Hán.
Vật trang trí ở cửa chính và mái nhà vẫn là cặp sừng bò mà người Di yêu
thích, những giá gỗ trang trí trên tường được khắc hoa văn tượng trưng
cho sự may mắn như núi sông, mặt trăng, mặt trời, ngôi sao, cánh hoa…,
ngay cả phần đế cột hình móng lừa trước hiên cũng được khắc hình sông
ngòi uốn khúc, ngụ ý “tiền vào như nước”. Vào trong nhà lại càng khiến
người ta trầm trồ kinh ngạc. Từ bố cục phong thủy đến kết cấu ngôi nhà,
đâu đâu cũng mang phong cách Hán, bởi suy cho cũng Mạnh lão gia vẫn là
người Hán nên ít nhiều gì ngôi nhà cũng phải được thiết kế cho phù hợp
với lão.
Ở hai đầu giếng trời tròn và rộng, người ta bày các bàn
tiệc, mấy cậu thanh niên mặc trang phục dân tộc Di lần lượt mang nồi lẩu dê lên. Oai Tử nhìn thấy một bàn có vài người quen, bèn dắt Đoàn Kỳ
Phàn ngồi vào đó. Trước đây, Đoàn Kỳ Phàn từng gặp họ đôi lần nên cũng
hàn huyên dăm câu, nhưng tâm tư y hoàn toàn dõi theo chủ nhân vẫn chưa
vào chỗ của bữa tiệc.
Nhân vật chính luôn luôn xuất hiện muộn
nhất, nhờ đó các khách mời cũng dần học được thói quen nhẫn nại. Họ túm
năm tụm ba huơ chân múa tay chuyện phiếm, người uống rượu, kẻ ba hoa,
đợi từng phút trôi qua.
Cuối cùng chủ nhân buổi tiệc mà mọi người mong đợi bấy lâu cũng xuất hiện. Lão chắp tay, chậm rãi cất lời: “Ngại
quá! Ngại quá! Để các vị phải đợi lâu.” Giọng nói của Mạnh lão gia rất
trầm và mạnh mẽ, đúng là giọng của một người đàn ông từng trải, khiến
người nghe cảm thấy rất dễ chịu. Tuy đã ngoại ngũ tuần nhưng trên khuôn
mặt lão không hề có vết tích hứng gió phơi sương, mái tóc vẫn đen nhánh, chưa điểm một sợi bạc. Lão phất tay áo lên cho gọn rồi ngồi xuống ghế
thái sư, thần thái ung dung, đĩnh đạc, khóe môi thấp thoáng nét cười.
Thấy Mạnh lão gia đã tới, mọi người liền đứng bật dậy rời khỏi chỗ ngồi. Một số kẻ không phải người Hán cũng bắt chước hành lễ, chắp tay khom mình
chào: “Vấn an Mạnh lão gia! Chúc Mạnh lão gia sống lâu trăm tuổi, phúc
thọ an khang!”
“Được rồi, được rồi! Có phải lễ mừng thọ của ta
đâu mà mọi người cứ học mấy bài lễ tiết hủ bại ấy? Nào, ngồi xuống! Ngồi xuống cả đi! Chúng ta đều là anh em một nhà, đừng câu nệ nữa. Mọi người muốn náo nhiệt thế nào thì cứ náo nhiệt, chớ chê ta già cả. Ta rất
thích không khí ồn ào đông người.”
Thấy Mạnh lão gia vẫy tay ra
hiệu ngồi xuống, mọi người lũ lượt trở về chỗ ngồi của mình. Người hầu
đi cùng rót nước rồi cung kính dâng thuốc cho lão. Ngón tay Mạnh lão gia vừa khẽ cấu vào đầu miếng thuốc, bốn phía xung quanh đã lập tức hiểu ý, vội vàng giục nhà bếp mau chóng đưa món ăn lên.
Trong thời gian
chờ thức ăn, Mạnh lão gia cũng không bỏ mặc kẻ dưới. Nhả ra một ngụm
khói, lão thoải mái ngả người ra sau, thong thả nói: “ Hôm này cũng
chẳng có chuyện gì lớn, chẳng qua ta muốn tụ tập cùng anh em một chút.
Tuổi cao lại hay nghĩ tới những chuyện đau đầu, ví dụ như cái chết chẳng hạn. Chỉ e một ngày… nhắm mắt xuôi tay… Nhân lúc ta hãy còn chút sức
lực thì được tụ tập với anh em ngày nào hay ngày đấy…”
Nghe lão
nói vậy, một khách quen dưới trướng lão liền khom lưng, cung kính nói:
“Mạnh lão gia, tục ngữ có câu “tuổi cao chí lại càng cao”, tuy sức khỏe
của ngài hiện giờ không thể so với thời trai trẻ nhưng nếu giao đấu với
huynh đệ chúng tôi thì chỉ e chẳng ai dám làm đối thủ của ngài. Ngài hà
tất phải lo nghĩ mà tổn hại đến ngọc thể? Cả huyện thành này đều nương
tựa vào ngài mới mong kiếm được miếng cơm. Đừng nói đi tìm tiên đơn bất
tử mà chỉ cần Mạnh lão gia mở lời, anh em chúng tôi tình nguyện lấy mạng mình để đổi lấy tuổi thọ cho ngài. Chỉ cần ngài sống lâu trăm tuổi,
phúc thọ trăm toàn thì dù phải làm gì, chúng tôi cũng thấy xứng đáng.”
Những người khác cũng lập tức đứng dậy, cùng nói những lời nịnh hót.
Cấp bậc của Oai Tử không cao nên từ đầu tới giờ, gã không dám lên tiếng.
Mãi tận lúc này, thấy mọi người đều phụ họa nịnh cho lão gia vui, gã nào dám bỏ qua. Oai Tử nhăn nhở cười, góp lời: “Mạnh lão gia, ngài tuyệt
đối không được nói những lời như “chẳng có số sống đến trăm tuổi”. Anh
em đều biết Oai Tử tôi chỉ giỏi lừa ăn lừa uống, bởi vậy toàn bộ chuyện
sinh lão bệnh tử của đời con, đời cháu, đời chắt, đời chít về sau đều
trông cậy vào bàn tay nâng đỡ của lão gia cả. Đợi lão gia thưởng cho
miếng cơm, lúc ấy tôi mới sớm nhắm mắt, sớm xuống địa ngục, đi gặp Diêm
Vương, ăn cắp sổ Nam Tào, gạch ngay tên của ngài trong sổ đi, thế chẳng
phải đại cát hay sao? Bởi vậy, bây giờ ngài cứ yên tâm mà đợi, ngày sau
chắc chắn có kẻ bề tôi này lấy cắp thêm tuổi thọ cho ngài.”
“Thằng oắt Oai Tử này ngày thường chỉ biết khua môi múa mép lấy lòng đàn bà,
hôm nay lại dỗ dành được cả lão gia cơ đấy. Thưởng cho nó bình nước đái
ngựa, xem nó còn dám ba hoa khoác lác nữa không!” Mạnh lão gia cười
không khép được miệng, bóp chặt đầu thuốc, chỉ về phía Oai Tử. Cũng vì
thế mà những nếp nhăn trên mặt lão hiện ra hết khiến toàn bộ cơ thịt
trên má dồn thành một cục, trông như hai đụn đất vàng nhô lên giữa hai
bãi đất bằng.
Oai Tử thấy lão ta vui vẻ liền âm thầm thúc cùi chỏ vào người Đoàn Kỳ Phàn, ra hiệu cho y nhanh mồm nhanh miệng hùa vào vài câu. Đoàn Kỳ Phàn không thèm đoái hoài, y khinh lũ đàn ông thiếu khí
phách. Có điều, y cũng biết mình tuyệt đối không nên bỏ qua cơ hội này,
nên lập tức giơ bát rượu lên, nói: “Nào, chúng ta kính lão gia một chén. Hôm nay còn mạng đứng đây để uống bát rượu lão gia mời, dù dao có kề cổ thì cũng phải mưa cho to hạt một tí, cạn hết ly này mới thể hiện được
lòng kính trọng với lão gia.” Nói xong, y liền dốc sạch ly rượu vào
bụng.
Nhiều người chưa quen gương mặt mới này nhưng nghe y nói có lí, liền luc lượt nâng bát nên uống cạn. Mạnh lão gia nhận lòng tốt của mọi người, cũng cạn một bát, nói: “Mọi người đã nể mặt ta như thế, xem
ra Mạnh mỗ đây có một câu không thể không nói.”
“Xin Mạnh lão gia cứ nói!”
“Trước đây, có vài người bạn cũ đến thăm, bảo tuổi ta đã cao, không thể giữ
chắc cái ghế của mình được nữa, cứ bị người ta dần dần đẩy xuống. Mà
tương lai sau này sẽ là thiên hạ của những người trẻ, lớp người già cũng nên rút lui được rồi. Nhưng người già cũng có cái hay của người già,
người già thằng người trẻ ở chỗ kinh nghiệm phong phú. Đến ngày đám
người ấy thật sự đến tuổi thất thập cổ lai hi, mắt mở chân chậm thì ta
sẽ đích thân thay các cậu đá bay chúng xuống cho đỡ ngứa mắt. Giống như
ta hôm nay cậy già bắt nạt người khác vậy. Nếu anh em thực sự cảm thấy
Mạnh lão gia ta là một lão già đáng để cho các vị kính trọng thì hãy
uống cạn hết rượu ở đây, có tình hay không đều thể hiện qua rượu cả.
Nào, tôi xin kính mọi người trước.”
Nói rồi, Mạnh lão gia hào
sảng uống hết rượu trong bát rồi vung tay đập chiếc bát vỡ vụn. Mảnh
sành bay tứ tung như tiên nữ rắc hoa, bắn vào những người có mặt ở hiện
trường, thậm chí cắm thẳng vào tim mấy vị hảo hán đang cúi gằm mặt xuống đất. Tất cả những chuyện này đều bắt nguồn từ việc họ quá vội vàng muốn thay đổi tâm phúc của mình mà đuổi sạch những công thần cũ.
Thấy Mạnh lão gia không nói gì nữa, mọi người đều không dám nhúc nhích, tất
cả đứng yên tại chỗ. Trong giây phút, tiếng cười nói rộn ràng lập tức
ngưng bặt, không khí nặng mùi chết chóc.
“Đứng ì ra đó làm gì?
Chẳng qua trượt tay đánh vỡ bát thôi mà. Mặt người nào người nấy nhăn
nhúm như cái bị rách. Ta đã chết đâu, còn không mau ngồi xuống cùng ta
ăn bữa cơm an lành à?” Vẫn là Mạnh lão gia mở lời trước. Đám đông chẳng
khác gì những xác chết được hồi sinh, họ thở hắt ra rồi ngồi xuống như
cũ, an phận đợi chỉ thị của lão. Kết quả, Mạnh lão gia chẳng nhắc gì đến chuyện đó nữa, chỉ hô mọi người ăn nhiều, uống nhiều và nghe họ ca
tụng, khen ngợi mình.
Ban đầu, Đoàn Kỳ Phàn còn cảm thấy con đại
bàng trong truyền thuyết chẳng khác một lão già bình thường là mấy,
nhưng bây giờ thì y đã hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Kẻ khiến người khác chỉ nhìn thôi đã sợ chưa hẳn là kẻ lợi hại nhất, mà người khiến người
ta lúc sợ lúc không mới thực sự là người lợi hại.
Lát sau, Mạnh
lão gia lại nghĩ ra một thú tiêu khiển mới. Lão gọi thuộc hạ dẫn một
người đàn ông trung niên lực lưỡng và một thanh niên đến rồi mời mọi
người đánh cược xem ai thắng. Đương nhiên mọi người không hẹn mà cũng
cược người trung niên nọ, không một ai ủng hộ cho cậu thanh niên. Oai Tử cũng hùa theo số đông cược cho người trung niên. Thấy Đoàn Kỳ Phàn vẫn
tẩn mẩn ngồi vét đũa, gã vội kéo y đi đặt cược. Đoàn Kỳ Phàn nhìn đĩa
đặt cược, ném toàn bộ tiền vào phần đĩa đặt cược cho cậu thanh niên. Mọi người trố mắt ngạc nhiên, nhưng y có lí riêng của mình. Đã muốn thu hút sự chú ý của kẻ khác thì đôi lúc phải cố tình làm ngược lại với số
đông. Chiêu này quả nhiên hiệu nghiệm. Mạnh lão gia buộc phải nhìn y lần thứ hai với con mắt thăm dò.
Tiếc thay, kết quả không như Đoàn
Kỳ Phàn mong muốn, cậu thanh niên chẳng chịu được mấy nỗi thì đã bị
người trung niên đánh nằm rạp xuống sàn, mũi miệng bầm dập. Mọi người
thấy vậy liền vỗ tay như sấm dậy, không ngừng cổ vũ cho người trung niên nọ, khen ông ta uy vũ, oai phong. Thực ra, họ đang hét cho Mạnh lão gia nghe.
Lúc này, Đoàn Kỳ Phàn bỗng chú ý tay phải của Mạnh lão gia đang gõ nhẹ lên mặt bàn, lúc gõ lúc ngừng, tạo ra một tiết tấu nhất
định. Đầu y chợt lóe lên một ý tưởng mạo hiểm. Mặc kệ Oai Tử hết lời
khuyên ngăn, y chủ động thách đấu võ sĩ trung niên. Trong phút chốc, mọi người đều lầm rầm bàn luận kẻ hậu sinh kia thực là to gan tày trời, để
xem kết cục của y sẽ như thế nào.
Mạnh lão gia rộng lượng đồng ý. Lão cúi đầu rít liền mấy hơi thuốc, ánh mắt không hề nhìn về phía trận
đấu. Lão chỉ để tâm đến những đường bay mỏng mảnh, phiêu bồng của làn
khói thuốc. Dù sao đối với lão, trận đấu này hoàn toàn vô nghĩa. Tuy A
Cổ đã ngoại từ tuần nhưng chưa bao giờ chịu thua trong bất kì trận đấu
nào. Nếu không, ông ta đã chẳng được mệnh danh là đệ nhất dũng sĩ. Có
điều, không phải chuyện gì cũng đều tiến triển theo ý lão, giống như
cuộc đấu này chẳng hạn. Rõ ràng một A Cổ chưa từng nếm mùi bại trận,
hiện đang chiếm thế thượng phong, vậy mà đột nhiên lại lăn lộn trên mặt
đất một cách khó hiểu. Một phản ứng sai lầm khiến kẻ hậu sinh kia đã kịp thời cưỡi lên người ông ta, kẹp chặt không cho ông ta chồm dậy. Mọi
người xung quanh trố mắt nhìn nhưng ngay sau đó, họ rào rào phẫn nộ tố
cáo y chơi bẩn. Mạnh lão gia vừa ngẩng đầu thì nhìn thấy kẻ hậu sinh đó
đã lấy cây đũa vót nhọn chọc thẳng vào lòng bàn tay A Cổ. Mức độ tàn độc chẳng kém gì lão hồi trẻ.
“Thằng oắt này không thành thật, không ngờ lại giở trò gian dối! Xông vào lôi nó ra!” Một người dẫn đầu khởi
xướng, lập tức những kẻ khác cũng rào rào hưởng ứng. Họ muốn trừng phạt
kẻ ngoại lai không tuân thủ quy tắc. Oai Tử thấy sắp to chuyện đến nơi,
liền vội vàng lao vào kéo Đoàn Kỳ Phàn ra, nhưng không có lệnh của Mạnh
lão gia, ai dám tới đó? Thế là gã chỉ còn cách gào lên, bảo y mau ngừng
tay. Nhưng Đoàn Kỳ Phàn không những không nghe khuyên giải mà còn rút
cây đũa đã được vót nhọn ra rồi lại tiếp tục đâm xuống. Nếu y không cố
gắng rắn lòng đến cùng thì chẳng bao lâu mọi người xung quanh sẽ phát
giác y đang run rẩy.
“Đủ rồi! Tất cả mau đứng dậy!” Mạnh lão gia
gằn giọng quát. Đoàn Kỳ Phàn đành ngừng tay. A Cổ bị thương, vội vàng ấn chặt vào lòng bàn tay đang nhễ nhại máu, không cam tâm đứng dậy, mắt
trừng trừng liếc xéo Đoàn Kỳ Phàn. Đoàn Kỳ Phàn ngẩng cao đầu như thế y
không nghĩ tiểu xảo vừa rồi của mình là vô liêm sỉ.
“Thi đấu phải dựa vào bản lĩnh thực sự, sao cậu dám làm loạn quy tắc ngay trước mắt
ta?” Mạnh lão gia chất vấn. Y vẫn ngẩng cao đầu, đáp: “Quy tắc đều do
con người định ra, quy tắc nào tiện dụng thì sử dụng quy tắc ấy. Chỉ cần có thể đánh bại đối thủ, bất luận trong quá trình chiến đấu, tôi dùng
phương pháp gì thì kết quả cuối cùng mới là điều quan trọng nhất. Nếu
lúc nào cũng chỉ ghi nhớ một quy tắc cứng nhắc thì thử hỏi ngày hôm nay, Mạnh lão gia ngài có thể đạp tất cả chúng tôi dưới bàn chân của mình
được không?”
“Nghĩa là cậu công khai chê ta đấy hả?”
“Nếu
đối thủ là nhân vật như Mạnh lão gia thì người khi nãy bị đâm thủng tay
chắc chắn sẽ là tôi. Tôi ít học, không biết nói lời hoa mĩ, tôi chỉ muốn nói ai có sức mạnh thu phục lòng người, có thủ đoạn thì tôi kính nể
người ấy, dẫu phải mất mạng vì người ấy tôi cũng cam lòng. Nhưng đáng
tiếc, dưới vòm trời này chỉ có một Mạnh lão gia, mà may cũng chỉ có một
Mãnh lão gia, nên tôi mới dám to gan thử mạo phạm một lần. Trong mắt
tôi, bất luận đối thủ là già hay trẻ, nếu có thể giành lấy chiến thắng
thì phải dùng hết sức để giành lấy, dù có thua cũng tuyệt đối không làm
kẻ bạc nhược.”
Rõ ràng Đoàn Kỳ Phàn làm sai nhưng vẫn nói năng
rất hùng hồn, điều này khiến A Cổ tức đỏ cả mặt. Một vài người ban đầu
còn chỉ trích Đoàn Kỳ Phàn ra tay bỉ ổi, nhưng nghe y nói vậy lại thay
đổi thái độ mấy phần. Chỉ có điều, Mạnh lão gia vẫn không ngừng dùng tay phải gõ nhịp trên mặt bàn, khiến họ không dám thể hiện thái độ ủng hộ
mà thôi.
“Cậu mở miệng là nói mình là người ít học nhưng ta thấy
cậu nịnh hót đâu ra đấy, nghe rất thuận tai đó chứ. Thậm chí, so với mấy tay nho nhã lúc trước, cậu nịnh nghe còn mượt hơn cả họ.” Mạnh lão gia
nhướng mày, trong giọng nói đã bớt phần trách cứ. Nói rồi, lão lại rít
một hơi thuốc nữa rồi thở ra, mấy ngụm khỏi từ trong miệng chầm chậm bay ra ngoài, trong chẳng khác gì mới mọc một chòm râu dài màu trắng tuyết. Sau khi đã cơn nghiện, lão nói tiếp: “Thằng oắt con nhà cậu giết người ở Vũ Hán rồi trốn đến đây, vậy mà không biết sống khiên nhường khép mình, lại còn chọc đũa nhọn vào người anh em Di ngay trước mặt ta. Nếu không
trừng trị cậu thì mặt mũi của ta biết để vào đâu? Người anh em của ta
chẳng phải sẽ bị thiệt thòi sao?”
Đoàn Kỳ Phàn im lặng lắng nghe, không phản bác lời nào. Lúc này, toàn bộ sự chú ý của y đều tập trung
vào bàn tay của Mạnh lão gia, bởi lão không tiếp tục gõ bàn nữa mà vung
hẳn tay phải lên. Không cần nói cũng đoán ra, y sẽ bị đuổi khỏi Lương
Sơn, thậm chí còn phải chịu cực hình. Mọi người vây quanh đều hiểu ý của Mạnh lão gia, ai nấy vểnh tai đợi án tử được ban ra.
“Cậu đã
không hiểu thế nào là kính lão đắc thọ thì kể từ hôm nay trở đi, cậu
phải phụ trách sinh hoạt thường nhật của chú Cổ cho đến khi vết thương
của chú ấy bình phục mới thôi. Trong thời gian này, bất kể chú Cổ đánh
cậu hay mắng cậu, cậu đều phải nhẫn nhịn chịu đựng. Nếu có ngày chú Cổ
khen cậu trước mặt ta thì từ đó về sau, cậu cứ thoải mái nương nhờ nơi
ta, không kẻ nào dám động vào cậu. Bằng không, bụng của sói hoang chính
là nơi yên nghỉ cuối cùng của cậu. Mọi người cũng nghe cho rõ, đây là
chuyện riêng của họ, những người khác chớ nhúng tay vào.” Nói xong, lão
đứng dậy xua tay vẻ mệt mỏi. “Lui hết đi cho ta!”
Quyết định hoàn toàn bất ngờ so với dự liệu của mọi người, bàn tay phải của Mạnh lão
gia không mang lại vận đen cho Đoàn Kỳ Phàn mà ngược lại, lão còn giữ y ở lại.
Người hầu trông thấy chủ nhân muốn đi, liền vội vàng bước
tới dìu, Mạnh lão gia tiện tay đưa cán thuốc cho anh ta rồi thong thả
rời khỏi bữa tiệc huyên náo. Mọi người không hiểu nổi tại sao hôm nay,
Mạnh lão gia lại hành xử quá đỗi khác thường như vậy, thậm chí lão ta
còn nhớ sai cả việc sử dụng ám hiệu tay mà hằng ngày vẫn hay dùng. Nhưng dù họ có nghĩ nát óc thì cũng chẳng ích gì, nhân vật chính đã rời đi
rồi còn đâu. Thế là khách khứa bèn lũ lượt giải tán, người nào người nấy ôm một bụng thắc mắc, trở về nhà tiếp tục nghiền ngẫm. Trong nháy mắt,
dưới giếng trời chỉ còn lại ba người là Oai Tử, Đoàn Kỳ Phàn và A Cổ.
Oai Tử tự nhận làm người giảng hòa, gã không ngừng lải nhải khuyên A Cổ
đang bừng bừng lửa giận. Đoàn Kỳ Phàn cũng quay lại phía ông ta, bình
thản nói: “Muốn đánh tôi thì cứ ra tay đi.” Y vừa dứt lời thì quả nhiên A Cổ tung ngay một cú đấm trời giáng vào giữa mũi y. Đoàn Kỳ Phàn đột
nhiên thấy đầu óc quay cuồng, máu mũi tuôn chảy ròng ròng…
Hôm sau, Đoàn Kỳ Phàn đến nhà A Cổ theo giao hẹn. Giữa đường, y bị không ít người cười nhạo.
Cũng không thể trách họ được, nếu y gặp một người mặt mũi sưng tím, mắt lồi
chẳng khác gì con ếch ở trên phố giống như y bây giờ thì chắc chắn y
cũng cười đến vỡ bụng. Nhưng điều đen đủi nhất là, vừa mới tới trước căn nhà trúc của A Cổ thì y đã phải hứng trọn một chậu nước lạnh.
Ngẩng đầu nhìn lên, Đoàn Kỳ Phàn thấy một cô gái Di tầm mười bảy, mười tám
tuổi đang xách một thùng sơn to, tức giận trừng mắt nhìn y. Ngũ quan cô
ta vốn khá thanh tú, nhưng vì tức giận nên giờ trông rất dữ dằn, miệng
tuôn ra một tràng tiếng địa phương mà y nghe mãi vẫn không hiểu. Đoàn Kỳ Phàn ngỡ mình vào nhầm nhà nên quay người định đi xuống. Nào ngờ cô gái kia nhảy phốc lên lưng y, ngoạm một miếng thật sâu trúng cổ y rồi giằng ra, suýt nữa da thịt y đã bị cô ta cắn rách.
Sau này, y mới
biết thì ra cô gái nóng nảy đó chính là cô con gái út của A Cổ, tên là
Mộc Sa. Vì nghe nói y làm tía cô ta bị thương nên hôm nay mới thay tía
trút giận. Trước khi đến, Đoàn Kỳ Phàn đã chuẩn bị trước tâm lý đối phó
với gia đình này, y cũng hiểu rõ những ngày tháng ở đây chắc sẽ không dễ chịu. Có điều, trong ký ức của y, không chuyện gì có thể đáng sợ và
giày vò hơn chuỗi ngày bị coi là con chó gác cửa ở nhà Hà Diễm. Quãng
thời gian ấy thực sống không bằng chết.
A Cổ có ba người con
trai, ban ngày họ đều làm công trong xưởng gỗ của Mạnh lão gia, tối muộn mới về nhà. Bởi vậy mọi chuyện lặt vặt trong gia đình vào ban ngày đều
đổ lên vai Đoàn Kỳ Phàn. Từ việc gánh nước, bổ củi đến những việc nhà
nông và cả việc chăm sóc A Cổ nữa, việc nào y cũng làm gọn gàng đâu ra
đấy. Càng ở lâu, thành kiến của A Cổ và con trai, con gái trong nhà đối
với y càng thay đổi.
Mộc Sa vồn là người ghét y nhất, ban đầu còn không chịu mở miệng nói nửa lời với y, nhưng bây giờ cô cũng bỏ hết
thành kiến, buổi trưa còn chủ động giúp y múc một muôi khoai tây lớn rồi rưới canh chua cay nóng hôi hổi lên. Khẩu vị của Đoàn Kỳ Phàn hơi đậm
nên y thích nhất món này. Y cúi đầu húp vài ngụm, nóng đến nỗi phải liên tục thổi phù phù nhưng vẫn không nhịn được tiếp tục đút canh vào miệng.
“Ngon! Ngon quá!” (Đoàn Kỳ Phàn nói bằng tiếng Di, đó là câu y quen thuộc nhất. Sau này, y cũng học nói tiếng dân tộc Di.)
Vợ A Cổ thấy y thích món này, bèn bảo Mộc Sa múc cho y thêm vài muôi nữa.
“Ban sáng, cậu đã làm rất vất vả, ăn thêm mấy muôi nữa nhé! Trong nồi còn rất nhiều, cứ ăn cho thoải mái.”
A Cổ cũng vội nói: “Ăn hết ta lại bảo cái Mộc Sa múc thêm cho.” Rồi một
muôi khoai tây nướng nữa lại được trút vào bát của Đoàn Kỳ Phàn.
Y lễ phép cảm ơn. Lần này, y nhai rất chậm rãi. Thực ra, canh khoai tây
chua cay là món ăn chính mà chỉ người bản địa thuộc thành phần trung lưu và hạ lưu mới ăn, nó chẳng phải cao lương mĩ vị gì nhưng y vốn là kẻ
xuất thân bần hàn nên càng hiểu phải trân trọng đồ ăn trước mắt. Cả nhà A Cổ thấy y chẳng bao giờ buông lời than phiền, tính tình lại hòa nhã dễ
gần nên dần dần cũng đối xử với y như người trong nhà.
Buổi
chiều, Mộc Sa phải ra sau núi hái thuốc. Trên núi thường có mãnh thú
lảng vàng khiến A Cổ không yên tâm, ông bảo Đoàn Kỳ Phàn đi cùng, có một người đàn ông ở bên cạnh dù sao cũng đỡ lo hơn. Đoàn Kỳ Phàn xách khẩu
súng phòng thân rồi bước theo Mộc Sa, men theo con đường nhỏ lên núi.
Phong cảnh dọc đường đẹp đến mê hồn khiến y dừng bước mấy lần, Mộc Sa
trở thành hướng dẫn viên, cô chỉ chỗ nọ chỗ kia, giới thiệu cho y bao
loài hoa hiếm cỏ lạ. Vừa nói đến trong núi có trồng một loại hoa hồng
rừng vô cùng độc đáo thì y cúi xuống, ngắt một cành hoa rồi đưa tới
trước mặt Mộc Sa, tặng cho cô.
Mộc Sa cười, vui vẻ cầm lấy bông
hoa, tiện tay cài luôn dưới khăn vấn tóc. Chiếc váy dài xếp ly thêu hoa
bỗng nhiên quay nửa vòng ngay trước mắt y, để lại một đường lượn sóng.
Mỗi lần nhìn thấy các cô gái Di mặc váy hoa dài chấm đất đi ngang qua, y đều liếc mắt nhìn, nhất là khi các cô quay người, tà váy bồng bềnh cuốn theo chiều gió và vồng lên thì trông càng duyên dáng. Bởi vậy, lúc này, y cứ ngây người ngắm Mộc Sa suốt hồi lâu.
Lúc Mộc Sa tìm thấy lá thuốc, cô còn phát hiện mấy trái kiwi đã chín, thế là cô hái ngay xuống cho y nếm thử. Đoàn Kỳ Phàn cũng chẳng ngồi không, khi nãy y phát hiện
ra một con vật nhỏ như con mèo ở dưới đám lá khô. Điều đặc biệt là lông
quanh mắt và tứ chi nó thì đen nhạt, mượt như nhung, trong khi những nơi khác của cơ thể lại có màu trắng. Nó không ngừng kêu “Óa! Óa! Óa!” như
tiếng trẻ con khóc vì khát sữa, nghe đến mủi lòng. Mộc Sa sợ y mạnh tay
mạnh chân, liền ôm lấy nó, nói:
“Đây là gấu trúc, chắc nó chưa cai sữa. Đàn ông các anh hay mạnh tay, dễ làm nó bị thương.”
“Gấu trúc ư?” Đoàn Kỳ Phàn chỉ hiểu được mỗi từ ấy.
“Ừ. Nếu may mắn, lúc đi săn còn nhìn thấy con to nữa kia. Có điều, chúng
không ăn thịt người, chỉ ăn lá trúc thôi, thế nên dân quê tôi không săn
bắt chúng.”
Nghe Mộc Sa nói vậy, Đoàn Kỳ Phàn càng thấy hứng thú.
Sống ở Vũ Hán mấy chục năm, y chưa từng nhìn thấy món đồ chơi nào mới lạ
chừng ấy. Thế là y đề nghị mang nó xuống núi. Mộc Sa cũng lo nó sẽ bị
sói hoang cắp mất nên cũng nghe theo gợi ý của Đoàn Kỳ Phàn. Y đã có
công nhặt được nó thì có quyền đặt tên cho nó.
“Anh đặt tên cho nó nhé? Nó là của anh mà.” Cô nói.
Đoàn Kỳ Phàn luôn đeo đẳng nỗi nhớ quê hương trong lòng nên buột miệng nói
luôn hai chữ: “Hán Hán!”. Sau đó, y nghĩ ngợi một lát rồi khẳng định
chắc chắn: “Thế thì gọi nó là Hán Hán.”
“Hả?” Mộc Sa không biết tiếng Hán nên lơ ngơ chẳng hiểu y nói gì.
Đoàn Kỳ Phàn gật đầu, vỗ ngực nói: “Quê tôi ở Vũ Hán, nên… đặt tên nó là Hán Hán.”
“Ồ… Hán Hán.” Mộc Sa vỡ lẽ, vui sướng nhấc bổng chú gấu trúc lên không
trung, nhẹ nhàng đùa nghịch cái đầu nhỏ xinh của nó. “Mày nghe rõ chưa?
Mày có tên rồi đấy. Tên là Hán Hán…” Cô kéo âm cuối ra rất dài, như thể
muốn luyện cho chú gấu nhỏ nhớ được tên của mình. Hai chữ “Hán Hán” ngân dài vô tình làm Đoàn Kỳ Phàn càng thêm nhớ cố hương da diết.
Y
ngẩng đầu nhìn đường chân trời xa tít tắp, không biết bao nhiêu lần y đã tự hỏi mình: “Thím và Tư Kỳ có khỏe không?”, “Họ có trách mình không từ mà biệt không?”, “Liệu có ai thấy họ mẹ góa con côi mà cố tình gây khó
dễ?”, “Bây giờ thời tiết ở Vũ Hán còn nắng gắt nắng góng nữa không, hay
đã trở lạnh nhỉ?”…