Một giọt nước mắt rơi trên cánh tay cô.
Cố Minh Tịch nghĩ lại những lời mình đã nói với Đậu Đậu sáng nay: Là con trai em không được mau nước mắt như vậy! Thế mà chính mắt anh lại đang đỏ hoe. Đậu Đậu mà nhìn thấy chắc chắn sẽ cười anh thối mũi.
Nghĩ đến điều này Cố Minh Tịch không khỏi mỉm cười. Hai má Bàng Sảnh áp sát vào má Cố Minh Tịch, nói: “Cố Minh Tịch, anh bị dở hơi à? Sao lại vừa khóc vừa cười?”
Cô đặt một nụ hôn lên mắt anh, giúp anh lau khô nước mắt rồi cô buông tay, ngồi xuống bên cạnh và quay sang đưa mắt nhìn anh.
Anh vẫn cúi đầu thật thấp, hai mắt nhắm nghiền, cơ thể khẽ run lên. Bàng Sảnh chạm tay lên mặt rồi gọi tên anh: “Cố Minh Tịch, Cố Minh Tịch…”
Cô ôm má anh, ngón tay cái liên tục gạt những giọt nước mắt nóng hồi vừa chảy ra. Cuối cùng chính bản thân cô cũng trở nên nghẹn ngào: “Anh thật đáng ghét, vốn dĩ em đã hạ quyết tâm là không khóc, vậy mà một người đàn ông to xác như anh lại khóc như mưa thế này còn ra thể thống gì nữa?”
Những giọt lệ không thể kìm nén chảy xuống từ khoé mắt Bàng Sảnh. Cuối cùng Cố Minh Tịch cũng ngẩng lên nhìn cô, hai đôi mắt đều đỏ hoe, hai gương mặt ướt đẫm nước mắt nhưng họ vẫn nhìn rõ gương mặt của đối phương, chẳng có gì khác biệt so với hình ảnh trong ký ức.
“Cố Minh Tịch, để em nhìn kỹ anh nào.” Ngón tay cô miêu tả đường nét gương mặt anh, từ lông mày đến đôi mắt rồi chạy xuống mũi, môi, cằm… anh giờ đây đã không còn lại cậu thiếu niên trắng trẻo thư sinh năm xưa, cũng không đen đúa và gầy còm như lần gặp mặt cuối cùng vào sáu năm trước. Cố Minh Tịch giờ đây đã trưởng thành, có dáng vẻ của một người đàn ông thực thụ, da ngăm đen, cơ thể rắn rỏi. Anh sở hữu gương mặt với các nét rất rõ ràng: mũi thẳng, môi mỏng, chiếc cằm với đường cong cương nghị và sắc sảo, nét trẻ con và dịu dàng thuở niên thiếu đã không còn.
Nhưng ánh mắt anh nhìn cô vẫn như nhiều năm về trước, dịu dàng, trong trẻo, mênh mang như biển.
Bàng Sảnh nín khóc mỉm cười: “Cố Minh Tịch, đúng là anh rồi! Con người anh thật chẳng ra sao, tự nhiên lại trốn đến một nơi xa xôi như này. Anh có biết em tìm anh khổ sở thế nào không?”
Anh vẫn không lên tiếng, cuối cùng giờ phút này cũng hé miệng khẽ gọi tên cô: “Bàng Bàng.”
“Dạ!” Nước mắt Bàng Sảnh lại rơi lã chã. Dường như không dám tin, Cố Minh Tịch lại gọi tên cô lần nữa: “Bàng Bàng.”
“Vâng! Em đây!”
“Bàng Bàng, Bàng Bàng.”
“Em đây! Em đây!”
“Bàng Bàng.”
Bất ngờ anh ngồi thẳng lưng thật ngay ngắn rồi hơi nghiêng người về phía trước, áp sát vào người Bàng Sảnh. Bờ vai anh giờ đây rộng lớn hơn, ngay cả vòm ngực cũng vững vàng hơn trước, Cố Minh Tịch dùng hết sức mình bao phủ cô bằng bả vai khiếm khuyết. Không gian xung quanh cô hoàn toàn được che phủ bởi hơi thở của anh, vẫn là hương vị mà cô khắc sâu trong ký ức. Bàng Sảnh khóc không thành tiếng, vội vàng giang tay ôm chặt lấy anh, thực sự rất chặt, cô cao giọng nói: “Cố Minh Tịch! Cố Minh Tịch! Em đây! Em đây! Em cảnh cáo anh! Đây là lần cuối cùng! Nếu anh còn dám bỏ đi không một lời trăng trối, em sẽ công bố thông tin cá nhân của anh lên mạng! Và cả ảnh của anh nữa! Em sẽ để cho các fan nữ của anh biết Mr Đà Điểu mà họ hằng yêu mến rốt cuộc là một tên đàn ông khốn khiếp như thế nào?!”
Cố Minh Tịch không nhịn được cười. Anh lại ngồi thẳng lưng, đối diện với cô gái trước mắt.
Bây giờ cô rất được.
Anh không khỏi ngạc nhiên. Rõ ràng vẫn là gương mặt đó, vẫn là những đường nét đó, thế nhưng Bàng Sảnh lúc này thực sự cao quý và xinh đẹp. Mái tóc dài nhuộm màu đỏ tía, để mặt mộc không hề trang điểm, mặc váy liền với hoạ tiết hoa nhí, thậm chí anh còn có thể nhìn thấy bả vai mỏng manh và xương đòn nhỏ nhắn của cô, làn da cô thật trắng, nét mặt vẫn phong phú, sinh động như trước.
Bàng Sảnh nhăn mặt với anh, nói: “Thế nào, sợ rồi hả? Cố Minh Tịch em nói cho anh biết, em đã nói là làm. Nếu anh còn chơi trò mất tích, em nhất định sẽ huy động fan hâm mộ trên toàn quốc tới làm thịt anh!”
Dứt lời cô rút khăn tay ra lau mắt mình, không quên lau nước mắt cho cả Cố Minh Tịch rồi tự nói với bản thân: “May mà đã đoán trước gặp anh thế nào cũng khóc nên không trang điểm. Nếu đồ trang điểm bị nhoè thì chắc bị anh cười cho thối mũi.”
Đôi môi Cố Minh Tịch hơi cong lên, nụ cười cực kỳ nhẹ nhõm.
Đây đúng là Bàng Bàng của anh, chính là cô gái lúc nào cũng cãi nhau om sòm và khóc lóc trước mặt anh. Mặc dù đã bao năm trôi qua nhưng cô hoàn toàn không hề thay đổi.
Cuối cùng Bàng Sảnh cũng bình tĩnh lại, thấy miệng hơi khô và trông thấy cốc cà phê đá trên bàn, cô liền kéo tới hút vài ngụm. Cố Minh Tịch buột miệng nhắc: “Anh uống rồi đó.”
Bàng Sảnh tu ừng ực nhiều hớp. Sau khi đặt cốc cà phê xuống, cô nghiêng người đặt lên môi anh một nụ hôn.
Ngay lập tức Cố Minh Tịch cảm nhận được mùi cà phê nồng nàn trong miệng cô, lành lạnh, ngòn ngọt. Vừa hôn anh Bàng Sảnh vừa nói: “Em cũng uống rồi, anh có ngại không?”
Anh đặt trán mình chạm lên trán Bàng Sảnh, mỉm cười lắc đầu.
Bàng Sảnh nhoẻn miệng cười, lè lưỡi: “Vậy thì được rồi.”
Khương Kỳ nhường đủ không gian riêng cho đôi trẻ, chị tránh mặt nửa tiếng rồi mới quay lại ban công. Thấy Bàng Sảnh và Cố Minh Tịch ngồi cạnh nhau mỉm cười với mình, Khương Kỳ thực sự rất vui, chị ngồi xuống vị trí đối diện và nói: “Đâu là lễ Noel hoàn hảo nhất của chị. Lần đầu tiên đọc được câu chuyện về tiểu Cố, chị đã khóc cả buổi, thầm nghĩ Cua nỡ lòng nào rời xa một người con trai tuyệt vời như vậy. Bây giờ cuối cùng tảng đá trong lòng chị cũng tan vỡ, nhìn các em tìm được nhau nhờ cuối sách của mình, chị thực sự rất mừng. Làm biên tập viên của tiểu Cố suốt bốn năm nay, nhìn cậu ấy lúc nào cũng chỉ có một thân một mình, chị thực lòng rất muốn cậu ấy có được một mái nhà yên ấm và hạnh phúc.”
Ba ngày cùng ăn bữa trưa, Khương Kỳ bàn chuyện công việc với Cố Minh Tịch. Tết âm lịch sắp tới, Khương Kỳ nói với Cố Minh Tịch là công ty hy vọng anh có thể xuất bản thêm hai tác phẩm mới trong năm sau, nghỉ hè một cuối, cuối năm một cuốn.
“Chị biết cậu rất nhiều việc nhưng tiểu Cố à, “Ms Cua” bán chạy như vậy, chúng ta phải tranh thủ cơ hội lần này. Chị biết hiện đang có rất nhiều công ty muốn ký hợp đồng mua sách của cậu, có lẽ khoản nhuận bút mà họ đưa ra có thể rất cao nhưng sếp chị đã nói là trước nay cậu đều bán bản quyền cho công ty chị, chắc chắn nhuận bút sẽ được tăng hơn trước và sẽ khiến cậu hài lòng. Ý của sếp chị là mong cậu cứ yên tâm, dù sao chúng ta cũng có mối quan hệ hợp tác lâu dài kể từ lúc cậu là một tác giả vô danh đến bây giờ khi đã có chút tiếng tăm, chị mong là chị vẫn có thể được cộng tác với cậu. Với lại cậu cũng biết chất lượng sách của công ty chị, dù là khả năng biên tập hay mức độ phổ biến đều đứng đầu trong ngành. Tiểu Cố, vậy nên chị thực sự hy vọng khi ra sách mới em có thể cân nhắc tiếp tục hợp tác với chị.”
Bàng Sảnh ngồi cạnh ăn mì. Nghe đến đây, cô hỏi: “Cố Minh Tịch, một cuốn sách anh có thể nhận về bao nhiêu tiền nhuận bút?”
Cố Minh Tịch quay sang nhìn cô, vẻ ngại ngùng thoáng xuất hiện, anh nói: “Không nhiều.”
Khương Kỳ bịt miệng cười: “Đây là bí mật kinh doanh, hợp đồng công ty chị ký với tiểu Cố yêu cầu phải giữ kín nên cậu ấy không thể tiết lộ cho người ngoài được.”
“Bí mật thế kia à?” Bàng Sảnh lấy làm kinh ngạc, “Đến cả người nhà cũng không thể nói sao?”
Khương Kỳ nói: “Không hẳn. Nếu vợ chồng thì thầm với nhau bên gối, chỉ có em biết anh biết thì tất nhiên bọn chị cũng chẳng làm gì được.”
Cố Minh Tịch đỏ mặt cúi gằm xuống, dùng ngón chân quấn mì vào dĩa rồi cho vào miệng. Bàng Sảnh trộm nhìn anh, khẽ nói: “Em với anh ấy… có rất ít bí mật.”
Sau bữa trưa trời bắt đầu nắng gắt, chủ quán bung dù che nắng, Bàng Sảnh đi vào trong xem tạp chí, để Cố Minh Tịch và Khương Kỳ ngồi ngoài ban công bàn công việc. Trong phòng bật điều hoà, cô lại ngồi cạnh cửa sổ được nắng ấm bao trọn nên không tránh khỏi buồn ngủ, liền ngả ra sopha chợp mắt.
Không biết ngủ được bao lâu thì bất chợt một cảm giác rất nhỏ lan truyền từ mắt cá chân đến. Bàng Sảnh mơ màng mở mắt thì trông thấy Cố Minh Tịch đang ngồi bên cạnh, chạm vào mắt cá chân của cô.
“Hai người nói xong rồi hả?” Bàng Sảnh ngồi dậy ngó ra ban công thì đã không thấy Khương Kỳ đâu nữa, bèn hỏi: “Chị Kỳ đâu?”
“Chị ấy ra sân bay rồi.” Cố Minh Tịch mỉm cười.
“Em ngủ lâu chưa?”
“Chưa. Mới hơn một tiếng.” Anh nhìn cô, “Bàng Bàng, tụi mình cũng về thôi.”
“Về đâu?”
“Về trường anh.” Vừa nói anh vừa nhẹ nhàng vuốt ve bắp chân nhỏ nhắn mịn màng của cô bằng chân phải của mình. Bàng Sảnh cúi xuống liền nhìn thấy vòng chân trên cổ chân Cố Minh Tịch, đó là chiếc vòng nhỏ cô tặng anh năm xưa.
Chỉ là một chiếc vòng trang sức không đáng tiền mà anh lại đeo suốt bao năm qua.
Anh nói: “Chị Kỳ đã nói với em bây giờ anh đang là thầy giáo chưa?”
Bàng Sảnh gật đầu: “Chị ấy nói với em rồi. Anh ở tại trường luôn à?”
“Ừ, trường anh có ký túc xá giáo viên.” Cố Minh Tịch đứng dậy nhìn va ly hành lý của Bàng Sảnh liền nói: “Đi thôi Bàng Bàng, anh đưa em tới trường anh. Hôm nay là Noel, bọn anh đã hẹn tối nay sẽ tổ chức liên hoan.”
Bàng Sảnh kéo va ly, Cố Minh Tịch đang định bắt xe thì Bàng Sảnh hỏi: “Anh đến đây bằng phương tiện gì?”
Cố Minh Tịch cười: “Anh đi xe bus.”
“Vậy bọn mình cũng đi xe bus về.” Bàng Sảnh đội chiếc mũ rơm lên, hào hứng nhìn bốn phía: “Đã lâu lắm rồi em không đi xe bus cùng anh, bọn mình cũng không vội nên không cần đi taxi đâu.”
Cố Minh Tịch hết cách nên đành dẫn cô đi lên xe bus. May mà trên xe không đông lắm, họ vẫn giành được hai ghế ở đuôi xe.
Bầu trời Hải Nam xanh ngắt một màu, không khí cũng rất trong lành. Ngồi bên cửa sổ, suốt quãng đường Bàng Sảnh đều hướng tầm mắt nhìn ra ngoài để ngắm phong cảnh nhiệt đới đẹp đẽ trên các con đường ở Tam Á, tâm trạng vô cùng vui tươi và nhẹ nhõm. Mặc dù hôm nay là Noel nhưng nơi đây hoàn toàn không lạnh, rất nhiều cửa hàng đều được trang trí bằng những vật dụng đậm nét Giáng sinh. Bàng Sảnh bay tới từ thành phố E rét mướt không những cảm nhận được mùa đông ấm áp nơi đây mà còn có Cố Minh Tịch ngồi cạnh, cô cảm thấy mình như đang ở trong giấc mơ.
Chiếc xe bus chạy lắc lư trên đường, Bàng Sảnh và Cố Minh Tịch bắt đầu trò chuyện. Cô hỏi: “Anh đến Tam Á từ bao giờ?”
Cố Minh Tịch trả lời: “Ba năm trước, vào cuối năm 2007.”
“Tại sao anh lại chọn tới đây?”
“Bởi vì ở đây khí hậu ấm áp, một năm bốn mùa không cần mặc quần áo dày.” Anh giơ chân cho cô xem, “Em nhìn này, tháng mười hai anh vẫn có thể đi dép lê, làm việc thuận tiện hơn rất nhiều.”
Đôi môi Bàng Sảnh hơi nhướng lên khi nhìn thấy bàn chân Cố Minh Tịch. Thực ra từ lúc ăn cơm trước đó cô đã chú ý tới bàn chân anh và nhận ra là nó đã không còn như trong trí nhớ của mình nữa.
Chân anh rất to, Bàng Sảnh nhớ như in là tuy anh làm tất cả mọi việc bằng chân, từ ăn cơm, viết chữ, mặc quần áo, lấy đồ đạc nhưng bàn chân Cố Minh Tịch lúc nào cũng rất sạch và trắng trẻo. Anh sẽ cắt móng chân thật ngắn, nếu bị bẩn thì việc đầu tiên phải làm là đi rửa cho sạch.
Nhưng giờ đây chân anh đen đúa, thô ráp, thậm chí ở các kẽ ngón chân còn có những vết sẹo ngang dọc lớn nhỏ.
Bàng Sảnh khó mà tưởng tượng được những vết sẹo đó từ đâu mà ra. Nhìn xương ngón chân cái của anh chồi ra, gân xanh hằn rõ trên mu bàn chân và các vết chai nơi kẽ ngón chân, trái tim Bàng Sảnh se sắt lại.
Cái duy nhất không thay đổi có lẽ là các móng chân. Móng chân anh rất ngắn, vuông vuông, bên trên còn có hình khuyết nhỏ màu trắng, Bàng Sảnh nhớ bố mình từng bảo dấu hiệu đó chứng tỏ Cố Minh Tịch rất khoẻ mạnh.
Bàng Sảnh ngả đầu lên vai Cố Minh Tịch, vòng hai tay ôm eo anh, khẽ hỏi: “Cố Minh Tịch, mẹ anh qua đời khi nào ạ?”
Anh cụp mắt lại, nói: “Tháng 5 năm 2006.”
“Sau đó anh đi đâu?”
“Thành phố S.”
“Anh có về qua thành phố E lần nào không?”
Anh quay sang nhìn cô, khẽ gật đầu: “Sau khi mẹ đi anh có về thành phố E một chuyến để làm mấy thủ tục.”
“Chỉ một mình anh thôi à?”
“Anh đi một mình nhưng lúc làm thủ tục có anh Cá Mập đi cùng.”
“Tại sao anh lại không tới tìm em vậy?”
“Bàng Bàng…” Cố Minh Tịch khó mà trả lời được câu hỏi này. Bàng Sảnh không bao giờ biết Cố Minh Tịch lúc đó nghèo khổ đến mức nào. Sau khi Lý Hàm qua đời, anh bán nhà trả hết nợ nần, xong xuôi thì gần như chẳng còn một xu dính túi mà đâu có nhà để về.
Thậm chí anh còn không thể tự nuôi sống chính mình. Mặc dù đã đến nước đó nhưng anh vẫn nhất quyết không xin viện trợ của Cố Quốc Tường.
Cá Mập và Từ Song Hoa đều sẵn sàng giúp đỡ Cố Minh Tịch. Sau một thời gian dài cân nhắc, Cố Minh Tịch quyết định nhận sự trợ giúp của Từ Song Hoa. Anh đi theo Từ Song Hoa đến thành phố S, tới ở nhà của ông.
Từ Song Hoa là một người cực kỳ bận rộn, ngoài đi dạy, ông còn thường xuyên phải bay ra nước ngoài. Hầu như chỉ có một mình Cố Minh Tịch ở nhà.
Lúc về Từ Song Hoa sẽ hướng dẫn Cố Minh Tịch vẽ tranh, có khi còn đưa cậu tới đại học mỹ thuật của thành phố S dự thính.
Các giáo viên và sinh viên ở trường nhanh chóng chú ý tới chàng trai đặc biệt này. Anh đeo ba lô đi lại trong sân trường, anh nắm được thời khoá biểu của tất cả các chuyên ngành ở đây, thường sẽ lặng lẽ đi vào phòng học an vị ở một góc trước khi tiết học bắt đầu.
Các giáo viên đều biết mối quan hệ của anh và Từ Song Hoa nên không ai dám đuổi anh ra ngoài. Cố Minh Tịch cũng không làm phiền người khác, anh sẽ không vẽ ngay ở lớp trong giờ vẽ thực thể mà chỉ nghe, nhìn, ghi nhớ và sau khi trở về mới luyện tập lại trong phòng vẽ tranh.
Gần như lúc nào tâm trạng Cố Minh Tịch cũng vô cùng lặng lẽ nhưng đôi khi anh cũng cảm thấy phiền muộn. Những lúc như vậy anh sẽ một mình đi tới cây cầu vượt ở cạnh trung tâm giới thiệu việc làm của thành phố S để nói chuyện với Thành Đại Pháo.
Thành Đại Pháo là một người tốt bụng, mỗi khi nói chuyện với anh ta, Cố Minh Tịch cảm thấy rất thoải mái. Thành Đại Pháo còn dạy Cố Minh Tịch tết các con vật như ếch, cua, bướm, châu chấu, thỏ… Anh từ tốn bện chúng bằng đôi chân của mình, thỉnh thoảng thì dựa lưng vào lan can của cây cầu, cứ thế ngồi bần thần.
Mùa đông thành phố S cũng rét cắt da cắt thịt như ở tỉnh Z, nhiệt độ ngoài trời hạ xuống rất thấp, người qua đường ai cũng mặc áo bành tô dày hối hả ngược xuôi. Cố Minh Tịch mặc nhiều quần áo ngồi trên cây cầu, gió lạnh thổi rối mái tóc anh. Anh ngước mắt nhìn lên bầu trời u ám, lặng lẽ chẳng nói năng gì.
Một lần có người đi qua anh rồi lùi lại mấy bước, thả tờ 15 nghìn xuống nền đất trước mặt Cố Minh Tịch rồi đi tiếp.
Cố Minh Tịch nhìn chằm chằm tờ 15 nghìn đó, Thành Đại Pháo cười nắc nẻ bên cạnh, cười xong liền hỏi Cố Minh Tịch: “Tiểu Cố, bây giờ cuộc sống của cậu còn khó khăn không?”
Cố Minh Tịch lắc đầu: “Không ạ, bây giờ em rất ổn.”
Thành Đại Pháo móc tờ tiền 1,5 triệu trong túi quần mình ra, gấp nhỏ lại rồi nhét vào túi quần Cố Minh Tịch bất chấp sự phản đối của anh: “Cầm đi mua chút đồ ăn ngon, cậu gầy quá!”
Cố Minh Tịch vẫn thầm lặng vẽ dưới danh nghĩa của người khác, hết cuốn truyện này đến cuốn truyện khác, trầy trật kiếm từng đồng tiền. Mãi cho đến đầu năm 2007, Từ Song Hoa mới đưa danh thiếp của Khương Kỳ cho anh và nói là một công ty xuất bản sách có hứng thú với tranh của anh.
Cuối năm 2007 Cố Minh Tịch quyết định Nam tiến. Trước khi đi anh lên cầu gặp Thành Đại Pháo nhưng đã đi suốt mấy ngày mà vẫn không thấy anh ta.
Người phụ nữ bán bật lửa gần đó nói với anh là con trai Thành Đại Pháo bị ốm, anh ta đã đưa thằng bé đi khám ở tỉnh khác.
Từ đó trở đi, Cố Minh Tịch không còn gặp lại Thành Đại Pháo lần nào nữa.
Tới trạm dừng xe bus, Cố Minh Tịch và Bàng Sảnh cùng xuống xe. Nơi ở của họ cách xa trung tâm, hai bên vỉa hè trồng rất nhiều các loại cây nhiệt đới sum suê. Bàng Sảnh vẫn chưa nhận ra đó là cây dừa hay cây cọ, cô kéo va ly đi bên cạnh Cố Minh Tịch và liên tục đưa ra các câu hỏi.
“Cố Minh Tịch, anh dạy môn gì ở trường?”
“Em đoán xem.” Anh quay lại nhìn cô và mỉm cười.
Cô ngẫm nghĩ: “Mỹ thuật?”
“Đúng nhưng chưa đủ.”
“Còn gì nữa?”
“Toán và tiếng Anh.” Cố Minh Tịch nói, “Trường bọn anh không có nhiều giáo viên nên ai cũng phải dạy vài môn.”
“Vậy anh còn thời gian vẽ tranh không?”
“Đúng là thời gian tương đối eo hẹp nhưng vẫn phải cố tranh thủ. Cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ tết, buổi tối đều vẽ được.” Anh khẽ nhún vai, “Một mình anh cũng không có trò gì vui.”
Bàng Sảnh lại hỏi: “Anh ở ký túc có gì bất tiện không?”
“Chắc chắn là có.” Cố Minh Tịch nói: “Chân anh có được việc đến đâu cũng không thể bằng được tay của mọi người.”
Anh nói thật nhẹ nhàng nhưng Bàng Sảnh nghe thế thì không khỏi buồn bã, cô cởi mũ rơm ra đội lên đầu anh rồi phụng phịu nói: “Ai bảo anh cứ trốn biệt tăm biệt tích ở đây, ai kêu anh không tới tìm em?! Nếu ở thành phố E thì anh có phải cô độc một mình không? Em, em chắc chắn là sẽ giúp anh được nhiều việc.”
Chiếc mũ rơm của cô màu xanh da trời, viền mũ còn được trang trí bằng một cái nơ màu hồng rất to. Cố Minh Tịch lắc lắc đầu nhưng không những không khiến chiếc mũ rơi xuống mà còn khiến nó thít chặt vào đầu hơn. Anh bất đắc dĩ gọi: “Bàng Bàng…”
Bàng Sảnh cười khanh khách một tràng dài. Cố Minh Tịch bảo cô bỏ mũ ra cho mình nhưng cô không chịu, Cố Minh Tịch liền đứng ngay trước mặt Bàng Sảnh, giơ chân giật nhẹ gấu váy cô, Bàng Sảnh liền bật cười chạy đi.
Lúc này họ đã đi tới cổng trường tiểu học. Hai người đang đùa giỡn thì một giọng nói vang lên bên cạnh: “Thầy tiểu Cố về rồi à? Ủa, cô gái xinh đẹp này là ai?”
Bàng Sảnh và Cố Minh Tịch cùng quay lại thì liền một lúc nhìn thấy năm người, ba người đàn ông trẻ, một cô gái trẻ và một cậu bé chừng sáu, bảy tuổi.
Cố Minh Tịch đang phải đội chiếc mũ rơm rộng vành có thắt nơ nên xấu hổ đỏ bừng mặt. Anh lại tiếp tục gọi Bàng Sảnh: “Bàng Bàng, mau bỏ mũ xuống cho anh đi.”