Mê Tông Chi Quốc

Chương 49: Hồi thứ chin đường hầm chết

Hồi thứ chin: Đường hầm chết

Tiền Bảo Sơn nói, bản thân anh ta chưa bao giờ tin vào tà thuật, nhưng những gì gặp phải trong núi Dã Nhân, đã thực sự khiến anh ta cảm thấy dường như đã chạm tới hơi thở của ma quỷ.

Sau khi đội vận tải chạy trốn vào đường hầm, liền bị mất phương hướng, vô tình đâm xuống một hang sâu rộng lớn, thần bí. Huyệt động cổ xưa này được hình thành từ hàng trăm triệu năm về trước, đi đến đâu cũng thấy ngà và xương voi cao ngất như núi, mạng lưới huyệt động đá vôi và hành lang dưới lòng đất giao thoa chằng chịt, tuy nơi nào cũng rộng rãi bằng phẳng như đường hầm, thậm chí có chỗ còn to bằng mấy sân bóng đá gộp lại, nhưng nó thực sự là một mê cung vô cùng phức tạp, chằng chịt; không ít khu vực bị sương mù phong tỏa, nên phân đội trinh sát đi trước dò đường chẳng thấy ai trở về.

Anh Mukhan người Miến Điện đã nói với sư đoàn trưởng: chỉ e nơi này là huyệt động ma mút trong núi Dã Nhân. Anh ta còn tự nhận mình rất thông thạo tập tính của voi rừng, nên chắc chắn sẽ tìm thấy lối ra khỏi Tượng Môn, nói đoạn liền đi trước dẫn đường. Anh ta dẫn đội xe quay đầu về hướng có bức màn được kết thành bởi trùng điệp những mạng lưới đá vôi, rồi đi sâu mãi vào một huyệt động thấp lè tè, chiều cao của nó chỉ khoảng mười mấy mét, nhưng tứ phía vô cùng khoáng đạt, hình dáng tựa như vỏ sò, trên mặt đất chi chít những nếp gấp khúc, địa hình gồ ghề lồi lõm rất khó đi, hơn nữa phần phủ dưới đáy động cũng không phải lớp đất đá, mà dường như là một loài thực vật, nên đi được nửa đường thì nhiều bánh xe bắt đầu lún xuống.

Sư đoàn trưởng phát hiện tình hình không ổn, vội vàng ra lệnh cho cả đoàn vận tải bỏ xe chạy lấy người, rút trở về đường cũ, ai ngờ đáy động bị đoàn xe nặng trăm tấn đè xuống, nứt toác thành một khe hở rất rộng, rồi từ giữa kẽ nứt, sương mù trào lên mù mịt, chẳng đợi đoàn vận tải kịp hiểu ra chuyện gì, thì tất cả đã bị rơi vào sương mù.

Chiếc xe của Tiền Bảo Sơn và Mukhan rơi xuống tán lá một cây cổ thụ nằm sâu dưới lòng đất, người ngồi trong xe ngã xây xẩm mặt mày, chỗ nào cũng bê bết máu. Họ nghe có tiếng hét lớn kêu cứu vọng ra từ những chiếc xe khác, nhưng trong chớp mắt đã im bặt không một động tĩnh, cũng chẳng rõ họ đã gặp phải thảm cảnh gì. Hai người vội vàng trèo ra khỏi xe, định đến ứng cứu, nào ngờ chiếc xe tải mười bánh vắt vẻo trên một cành cây, phía dưới gốc cây là con đường sâu hút lênh láng nước tù. Tiền Bảo Sơn không phân biệt được phương hướng trong sương mù, vừa giẫm chân đã bước hụt xuống khoảng không chơi vơi, cả thân thể lập tức ngã nhào. Mukhan ở phía sau định kéo anh ta lên, kết quả Tiền Bảo Sơn lôi tuột cả hai xuống. Hai người men theo gốc cây lăn vào một huyệt động âm u, lạnh lẽo dưới lòng đất, suýt chút nữa thì sặc nước mà chết, rồi khi bọn họ giãy giụa bò được dậy, dùng đèn pin chiếu sáng, leo lên chỗ cao, thì mới phát hiện nơi rơi xuống khi nãy đã bị bánh xe lún xuống chặn đứng.

Hội Tư Mã Khôi nghe đối phương nói đến đây, mới biết dãy xe tải mười bánh xuất hiện trong cánh rừng rậm, quả nhiên từ trên cao rơi xuống, chẳng trách toàn thân xe đều vỡ nát, hư hỏng nặng nề. Quả của cây Udumbara to lớn hình thành một tầng kén hình chiếc ô che phủ toàn bộ thành cổ, giữa tầng kén tồn tại một khoảng không gian trống rỗng, không hề có sương mù. Đội vận tải bổ sung đoàn lính công trình tác chiến độc lập thứ sáu, vì tránh né sự truy sát của quân Nhật, đã lỡ chân lạc bước vào huyệt động ma mút giống như mê cung huyền bí, kết quả là cả đội xe đều rơi xuống đáy động, toàn bộ thành viên bị sương mù nuốt chửng, chỉ có hai người là Tiền Bảo Sơn và Mukhan may mắn sống sót, nhưng tiếp sau đó, hai người bọn họ đã gặp phải những tai ương gì? Làm sao có thể người chẳng ra người, ma chẳng ra ma, sinh tồn mấy chục năm ở nơi hoàn toàn đoạn tuyệt với thế giới bên ngoài này? Anh lính Miến Điện tên Mukhan bây giờ còn sống hay đã chết?

Tiền Bảo Sơn tiếp tục kể phần còn lại của câu chuyện: anh ta và Mukhan rơi vào một huyệt động ẩm ướt, âm u, lạnh lẽo, xung quanh tử khí bốc lên ngùn ngụt, chẳng nhìn thấy nửa bóng người, kêu trời trời không thấu, gọi đất đất không hay, nên thần kinh dường như suy sụp đến tột độ. Cũng chẳng biết họ lần mò bao lâu trong đường hầm rồi vô tình chui vào một sơn động rất sâu, trong động đá ngọc cao ngất, rêu xanh phủ dày, sinh trưởng rất nhiều loại nấm đất và quả mọng, thịt quả dày, nhiều nước, vị hơi đắng, nhưng có thể ăn được.

Hai người hoảng loạn trong lòng, ăn bừa vài trái quả mọng, rồi tiếp tục đi về phía trước, đi mãi cũng đến con đường hầm rộng rãi ẩn giấu dòng sông ngầm này, càng đi vào sâu, càng thấy khí đen âm u mịt mùng, khiến họ ớn lạnh tận tim, dừng chân không dám bước tiếp.

Tiền Bảo Sơn chỉ muốn quay đầu ra ngay, nhưng lúc này Mukhan lại tiêt lộ một câu chuyện rất kỳ lạ. Anh ta nói từ hơn một ngàn năm trước, sơn cốc núi Dã Nhân từng là thần cung của một vương triều Chăm Pa hiển hách. Thần cung dùng để thờ phụng các thần linh Vệ Đà trên trời, tầm cỡ tương đương như quốc miếu vậy. Sau khi người Chăm Pa chinh phục vương quốc Thaton, những nô lệ bị bắt giữ và một lượng lớn thợ mộc lành nghề điêu luyện, đều được tập hợp lại để xây dựng tháp cổ. Trong khoảng thời gian đằng đẵng trên dưới hai trăm năm, họ đã xây dựng được mười ba ngàn tháp đá lớn nhỏ với hình thù độc đáo, phong phú, mỗi tòa một khác, rồi đem toàn bộ châu báu của vương triều Chăm Pa cổ chôn cả xuống dưới chân tháp. Khi ấy, núi cao trập trùng, quần thể tháp cổ dày đặc như cánh rừng, trèo lên bất cứ tòa tháp nào, tiện tay chỉ về đâu, hướng tay chỉ cũng sẽ có một tòa tháp khác cao to sừng sững chắn ngang tầm mắt.

N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Mỗi khi mặt trời lặn, ánh hoàng hôn đỏ au và những vầng mây đầy trời sẽ nhuộm cả rừng tháp thành một màu vàng ánh kim rực rỡ, sau đó mới dần dần chìm sau những đỉnh núi nhọn hoắt trùng điệp ở phía xa. Phàm những ai đã tận mắt trông thấy kỳ quan này, đều không khỏi trầm trồ thán phục trước vẻ uy nghiêm, lộng lẫy như cõi mộng của nó.

Có điều, tuy địa thế núi Dã Nhân kỳ lạ tột độ nhưng đó lại là một ngọn núi cát có vỏ ngoài là đá. Vì bên trong toàn bộ là đất cát, nên lòng núi rỗng ruột, đáy thần điện che phủ dải hồ rộng lớn dưới lòng đất. Sau này, do mạch nước lún xuống, lòng núi sụt vỡ, nên vô số tháp cổ cùng toàn bộ thực vật trong cánh rừng gần đó đều bị lún chìm dưới vực sâu không đáy, từ đó hình thành nên khe sâu núi Dã Nhân.

Nói khe sâu núi Dã Nhân là một vực sâu không đáy, thì cũng chẳng ngoa chút nào. Thì ra, mạch nước hồ dưới lòng đất đã sớm khô kiệt, nhưng đáy hồ vẫn sót lại bể bùn rộng lớn vô biên, thành cổ và cánh rừng sụt xuống dưới, đều bị bùn lầy sâu khôn lường và khí mêtan che đỡ, và vì nằm chêch vênh trên lớp bùn lầy, nên bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng tiếp tục sụt lún sâu hơn.

Đại nạn khủng khiếp bất ngờ đổ xuống, khiến vương triều Chăm Pa vô cùng khiếp sợ. Họ cử người xuống khe núi thăm dò, chỉ thấy tòa thành bốn triệu bảo tháp bị hư hại nghiêm trọng, bèn cho rằng đây là họa trời tru đất diệt, là thần phật nổi trận lôi đình, là điềm hung vong quốc.

Quốc vương Chăm Pa lúc bấy giờ là vua Anagaya, ông ta nghĩ kế đề phòng hậu họa về sau, liền sai người luyện vàng, đúc cảnh tượng bốn triệu tòa bảo tháp lên bức tường thành, rồi từng thỏi vàng trùng trùng điệp điệp chồng chất lên nhau, tạo thành thứ kiến trúc hình con nhện quái dị. Bởi vậy, họ đặt tên cho khối vàng thỏi này là "tòa thành bốn triệu bảo tháp", với ý định lưu lại, đợi khi nào phục hưng đất nước thì sẽ dùng tới.

Cũng chẳng ai hiểu rõ vì sao người Chăm Pa khi ấy lại có nhiều vàng đến thế. Có thuyết nói, người cổ xưa biết nuôi loài "kiến tha vàng", vàng đúc tòa thành cũng không phải là loại vàng ròng tinh khiết, mà những thỏi vàng ấy thực ra là "vàng hời", loại vàng có pha lẫn bạc, màu vàng xanh được cán mỏng như tờ giấy, bọc bên ngoài viên gạch. Công nghệ xây dựng này rất thường thấy ở Miến Điện, nên ngẩng đầu lên nhìn chỉ thấy những tòa tháp vàng cao chọc trời, mà bên ngoài chính là lớp giấy vàng, nhìn từ đằng xa lấp lánh rực rỡ, sừng sững huy hoàng. Thế nhưng, nếu muốn tính riêng số vàng và đá quý bao bọc ở bề mặt, thì cũng chẳng thể biết chính xác rốt cục người Chăm Pa đã sử dụng bao nhiêu châu báu nữa.

Sau khi mạch nước trong khe núi biến mất, lòng núi bỗng dưng mọc lên cây thần Udumbara cổ xưa, nó dần dần bao trùm kín mít toàn bộ tòa thành Nhện Vàng dưới lòng đất, rồi từ đó sương mù bủa vây khắp nơi. Người Chăm Pa lại phá hủy toàn bộ những kiến trúc cổ đại còn sót lại trên mặt đất, đồng thời để lại lời nguyền độc địa: mãng xà và tháp cổ sẽ bảo vệ vĩnh viễn những bí mật của vua Anagaya, kẻ nào có ý đồ nhòm ngó kho báu của vương triều Chăm Pa, đôi cánh tử thần sẽ giáng xuống đầu kẻ đó.

Về sau, vương triều Chăm Pa quả nhiên dần dần suy vong, có điều dân tộc cổ xưa này vẫn còn chút thế lực nhất định ở phía bắc Việt Nam và Lào, thậm chí có thể nói, mấy trăm năm trở lại đây, cả lịch sử Việt Nam chính là lịch sử giao chiến giữa người Việt và người Chăm. Mãi đến ngày nay, hậu duệ người Chăm Pa vẫn còn rơi rớt lại ở hai đất nước này. Do ngày dài tháng rộng, họ dần dần cũng quên mất cội nguồn của chính mình, chẳng thể giải mã nổi ám hiệu của tiền nhân để lại, duy có một vài truyền thuyết cổ quái ly kỳ là vẫn lưu truyền cho đến giờ. Truyền thuyết nói: "Tòa thành cổ chìm sâu dưới lòng đất, rắn bay xuyên qua, sương mù bủa vây khe núi", nhưng chẳng ai có thể giải thích rõ ràng rốt cục đó là lời tiên tri hay ám thị.

Sương mù trong khe núi Dã Nhân sinh ra bởi thực vật dưới lòng đất. Tương truyền, đài hoa dạng sương mù Udumbara tuy sợ nước, nhưng với địa hình đặc thù của sơn cốc, nếu chẳng phải mưa lớn cuồng phong khiến lũ lụt kéo về đột ngột, thì cũng rất khó có thể xua tan được đám sương mù. Trong khi đó người Chăm Pa lại đào một huyệt động hình bụng rắn ở phần đáy tòa cổ thành, đồng thời cài đặt rất nhiều hố cát ngấm nước suốt dải rừng; nước tụ thành dòng ở đáy động, hàng tượng đá dọc hai bờ sông đều há miệng rỗng bụng, tất thảy đều liên quan đến bùn cát dưới đáy thành cổ, nó có tác dụng điều chỉnh mực nước, mà những khu vực có nước tù, sương mù sẽ không xuất hiện, bởi vậy đường hầm này là nơi an toàn duy nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân.

Mukhan không phải hậu duệ của triều đại Chăm Pa còn sót lại ở Bắc Miến, sở dĩ anh ta biết những chuyện này là bởi vì trong thời kỳ thực dân Anh thống trị, anh là lính Anh quốc tịch Miến Điện, từng chuyên trợ giúp đoàn thám hiểm Anh tìm kiếm tin tình báo khắp nơi, nhưng chưa kịp đợi đến khi người Anh khai quật kho báu của quốc vương Anagaya, thì quân Nhật đã đánh chiếm toàn bộ Miến Điện.

Về sau, quân Đồng minh phản công, thu hồi phần lớn vùng đất đã mất, Mukhan trở thành phiên dịch, chẳng ngờ lần thi hành nhiệm vụ đi theo đoàn vận tải này, lại rơi vào khe sâu trong núi Dã Nhân, nơi các đoàn thám hiểm nằm mơ cũng muốn tới, đúng là kết quả vượt xa dự tính ban đầu của con người. Nhưng trong tình hình này, những người còn lại chỉ sợ đều đã gặp nạn, bởi đường hầm chẳng có lối nào thoát thân, bên ngoài sương mù che phủ khắp nơi, lại còn mất liên lạc, còn những đội quân Đồng minh khác, căn bản không hề hay biết việc đội vận tải bổ sung đã bị rơi xuống huyệt động ma mút, nên chẳng thể hi vọng bọn họ đến cứu viện.

Mukhan nói với Tiền Bảo Sơn rằng kỳ thực tòa thành bốn triệu bảo tháp vốn dĩ không phải thành trì, và bên trong chỉ có một con đường duy nhất, ngoài con đường đó ra, thì không tồn tại bất kỳ khoảng không gian nào. Trên thực tế, cả tòa thành cổ là một con đường xuyên suốt, tất cả bí mật của quốc vương Chăm Pa đều được cất giấu sau bức tường phía cuối con đường, nhưng tình hình bên trong cụ thể ra làm sao, thì anh ta không hề hay biết.

Mukhan cho rằng trước mắt chỉ có nghĩ cách thăm dò nơi sâu nhất, may chăng mới tìm được lối ra, bởi vì sau khi đất sụt, người Chăm Pa mới xuống khe núi xây dựng tòa thành cổ. Nơi này lại quá sâu, không thể trực tiếp xuống dưới được, nên chắc chắn phải còn một lối vào bí mật khác, có điều tất cả chỉ là phỏng đoán, không thể xác định chắc chắn. Anh ta lại nói: "Tương truyền bất cứ kẻ nào to gan dám nhòm ngó bí mật của vua Anagaya, thì kẻ đó sẽ bị chết bất đắc kỳ tử. Tình hình trước mắt hoàn toàn mờ mịt, nếu lỡ bên trong quả thực có ác quỷ, thì chắc phải nạp mạng cho nó, chi bằng bây giờ một người vào trong trước, nếu lỡ không may gặp phải điều gì bất trắc, thì cũng không đến nỗi cả hai đều bỏ mạng." Thế là Mukhan để Tiền Bảo Sơn đứng đợi bên ngoài, một mình xách súng bước sâu vào trong đường hầm tìm lối. Thế nhưng anh ta đã một đi không trở lại, như tượng đất chìm bể sâu, trâm bạc rơi đáy giếng, từ đó trở đi hoàn toàn bặt vô âm tín, mặc kệ Tiền Bảo Sơn ở ngoài hét khản cả cổ họng, bên trong vẫn chẳng tiếng hồi âm.

Tiền Bảo Sơn cho rằng Mukhan chắc chắn đã gặp phải ác quỷ, và ít ra là cũng đã bị nó lột da nuốt sống. Tuy anh ta cũng từng làm lính, nhưng tính tình lại yếu đuối nhát gan, chẳng bao giờ cương quyết làm nổi việc gì, nên lúc này trong lòng cũng khiếp vía, chẳng dám lại gần đường hầm nơi Mukhan mất tích nữa.

Do bản năng mưu cầu sinh tồn của loài người, anh ta đành ăn loài nấm đất sinh trưởng trong huyệt động để sống qua ngày. Gắng gượng khổ sở suốt gần ba mươi năm dưới đường hầm, ngày nào Tiền Bảo Sơn cũng phải liên tục tự nói chuyện một mình, nếu không có khi ngay cả ngôn ngữ của loài người cũng quên mất. Hơn nữa, do sống lâu trong đêm tối âm u, sinh khí của người sống trên cơ thể cũng dần dần biến mất, nên bản thân anh ta cũng chẳng rõ rốt cục mình là người hay là ma, và đã sớm từ bỏ mọi hi vọng thoát thân khỏi nơi này, chỉ đợi dương thọ vừa tận, là đổ vật nằm chết mà thôi. Nhưng hôm nay đột nhiên lại nghe thấy ở bên trên dường như trời long đất lở, rồi nước tù trong đường hầm cũng theo đó dâng lên mạnh mẽ, anh ta lại cho rằng nước lũ trên núi tràn xuống, liền liều chết trèo lên để nhìn cho rõ trắng đen. Vì sống quá lâu trong bóng tối, hai mắt đã thích ứng với môi trường nơi đây, lúc nhìn thấy hội Tư Mã Khôi ẩn mình trong hốc cây nghỉ ngơi, anh ta không biết kẻ đến là loại người nào, nếu lỡ gặp phải bọn gian tặc tìm đến khai quật kho báu vua Chăm Pa, thì khó mà tránh khỏi họa giết người diệt khẩu, bởi vậy chỉ âm thầm theo dõi trong bóng tối, không dám lại gần.

Tiền Bảo Sơn quan sát rất lâu, và cảm thấy hội Tư Mã Khôi không giống bọn phỉ. Mãi đến khi Udumbara khô héo bắt đầu hồi sinh trở lại, rồi sương mù theo đó xuất hiện ngày càng dày đặc, bốn kẻ may mắn sống sót bị lạc đường giữa đám tàn tích rừng thực vật, anh ta mới dùng pháo phát tín hiệu để dẫn họ vào đường hầm bụng rắn.

Khi kể hết câu chuyện, Tiền Bảo Sơn liền dò hỏi hội Tư Mã Khôi vì sao lại đến đây. Tư Mã Khôi chỉ nói bọn họ đều là dân du kích, căn bản không hề hay biết trong núi Dã Nhân có tồn tại tòa thành Nhện vàng của vua Anagaya, rồi vì gặp phải cơn bão nhiệt đới, buộc phải nhảy vào sơn cốc tránh né, không ngờ mặt đất sụt lở, mới lạc bước đến nơi đây. Còn về những chuyện quan trọng khác như: sau khi quân Đồng minh phản công Miến Điện, tình hình thế giới thay đổi thế nào, và cả chuyện bọn họ vào núi tìm chiếc tiêm kích vận tải, kích nổ quả bom địa chấn v.v... thì anh không nhắc đến chữ nào.

Tiền Bảo Sơn cũng chẳng dò hỏi thêm về việc này nữa, mà chỉ nói chắc do trời còn thương nên khiến anh ta còn sống sót sau hàng trăm tai nạn lẽ ra phải chết, không những vậy, còn có thể gặp được đồng hương. Anh ta sống trong đường hầm chớp mắt đã mấy chục năm, hiểu rõ địa hình nơi này tựa lòng bàn tay, phát hiện phía dưới đường hầm là bãi đầm lầy không đáy, quả thực chẳng tồn tại bất kỳ lối ra nào. Hơn nữa, cơn địa chấn lúc trước đã khiến huyệt động tàn phế này xuất hiện rất nhiều chỗ sụt lở, giờ đây chỉ có đường hầm chính trong tòa cổ thành có thể tạm coi là an toàn, còn những khu vực xung quanh đều bị chặn đứng hoàn toàn, khí ôxy còn sót lại chỉ sợ không thể duy trì lâu dài. Cũng may người nhiều thế mạnh, có thể giúp đỡ lẫn nhau, biết đâu lại vững dạ dám chui vào trong thăm dò, tìm hiểu rõ trắng đen ngọn ngành thế nào, như vậy còn tốt hơn tiếp tục bị nhốt dưới lòng đất đợi ngày thần chết dang tay ra đón. Lúc đó, hai bên vẫn đứng cách nhau một dòng sông, trong nước vẫn lảng vảng lũ cá sấu hung tợn, nên họ đành phải ẩn mình sau bệ đá nói chuyện, tạm thời không thể gặp mặt.

Tư Mã Khôi từ khi mưu sinh ở khu Hắc Ốc đã sớm thấu hiểu sự nham hiểm của thế nhân, nên không thể không đề phòng kẻ khác. Càng ngẫm nghĩ câu chuyện của Tiền Bảo Sơn, anh càng thấy bên trong có gì không ổn, nên thầm nghĩ: "Gã ta tự xưng là thành viên bị mất tích của quân Đồng minh, cứ tưởng bịa chuyện ma như thể Robison Crusoe một mình giữa đảo hoang, là có thể hù dọa được ông mày sao? Trong đường hầm chẳng có ác ma thì thôi, chứ nếu quả thực có ác ma tồn tại, thì tuyệt đối cũng chính là mi, kẻ may mắn sống sót thứ năm!"

Tư Mã Khôi cẩn thận xem lại cuốn nhật ký của ông Từ Bình An, bên trong có ghi chép rất nhiều tư liệu liên quan đến quá trình xây dựng đường bộ trong núi Dã Nhân của đoàn lính công trình độc lập tác chiến thứ sáu. Anh lại phát hiện những lời kể của Tiền Bảo Sơn có lẽ nửa thực nửa hư, bên trong nhất định có phần thực, ví dụ như truyền thuyết về vua Anagaya và vương triều Chăm Pa, chuyện đoàn vận tải bị sụt xuống cánh rừng rậm dưới lòng đất coi như tương đối đáng tin; nhưng những thông tin liên quan đến thân phận và lai lịch của Tiền Bảo Sơn thì chưa hẳn là thật, rất có thể hắn mạo nhận tên tuổi ai đó.

Những nghi hoặc này đã khiến Tư Mã Khôi cảm thấy vô cùng bất an. Nơi sâu nhất trong sơn cốc núi Dã Nhân vốn dĩ là một không gian hoàn toàn khép kín, phía dưới tòa thành cổ lại là bãi đầm lầy tràn ngập khí mêtan, nếu chẳng phải chất độc màu da cam khiến Udumbara khô héo, khiến lượng bùn nước trầm tích trên tầng kén bị sụt lở xuống lòng đất, thì không khí trong huyệt động và đường hầm căn bản không thể đủ ột người bình thường sống sót suốt thời gian dài. Ngoại trừ loài thực vật đặc biệt không chịu sự ràng buộc của môi trường như Udumbara, thì trong huyệt động chắc chắn không thể xuất hiện bất kỳ loài nấm đất nào, mà điều đáng nghi nhất là đối phương không mang theo máy bộ đàm, cho dù anh ta là lính thông tin, mang chiếc bộ đàm không dây SCR cũ rích từ thời chiến tranh thế giới thứ hai, thì trải qua khoảng thời gian dài đằng đẵng như thế, máy cũng đã sớm hỏng hóc, không thể sử dụng được nữa.

Từ tình hình trên có thể suy đoán: kẻ tự xưng là cựu binh Tiền Bảo Sơn, chắc chắn đang âm mưu che giấu ý đồ gì đó, hơn nữa lại không dám trực diện lộ mặt ọi người biết, hành tung lén lút khác thường, chẳng biết phía dưới chiếc mũ sắt M1 kia, rốt cục ẩn giấu một khuôn mặt như thế nào?