Tôi va đập, quăng quật người vào thành rọ. Ai đó tóm lấy tôi, nhưng không phải bằng tay. Mà là tay đeo găng. Tôi cảm thấy những sợi dây thừng bị cắt, nhưng không có nhiều cơ hội để nắm bắt từng chi tiết. Họ làm việc này rất thành thạo, y như những tay cớm có thể lục soát anh, còng tay anh lại và tống vào thùng xe chỉ trong không đến mười giây. Cái rọ khạc tôi ra chỗ có ánh nắng, nóng như đổ dầu sôi lên da. Không khí có mùi ngòn ngọt lạ lùng. Tôi đang nằm úp sấp trên một phiến đá lát. Máu ấm dần len lỏi xuống bên chân còn tê cóng và chảy âm ỉ quanh những vết loét sau lưng tôi. Một đôi vịt nhà kêu quang quác bên tai. Rõ là không phải núi lửa phun trào rồi, - tôi nghĩ. Tay tôi, chính xác là bàn tay phải, sờ thấy một mẩu ðá mảnh và dài trên mặt ðá, tôi ðè ngón tay trỏ lên nó, nhý bám lấy một chỗ dựa tinh thần, nhý cách mà ngýời ta thýờng làm khi có chuyện không may xảy ra. Những lúc nhý thế, anh thýờng chộp lấy bất cứ thứ gì trong tầm tay như thể nó là bằng chứng chứng minh với anh rằng anh còn tồn tại.

Tôi đoán đúng, bây giờ là cuối buổi chiều. Và mặc dù không trông thấy mặt trời, chỉ bằng cảm giác về ánh nắng chiếu xiên bên cạnh người, khả năng phán đoán phương hướng của Chacal cũng giúp tôi xác định được vị trí. Tôi đang quay mặt về hướng nam. Nhưng hướng nam này khác với hướng nam trong nhận thức của Jed. Giống như tất cả những người khác ở thế kỷ 21, tôi có xu hướng coi hướng bắc ở trên, hướng nam ở dưới, hướng đông ở bên phải và hướng tây ở bên trái, chỉ vì trên các bản đồ người ta vẽ như thế. Nhưng trong suy nghĩ của Chacal, hướng đông nam ở trên, hướng tây bắc ở dưới, thế giới nằm hơi nghiêng và dốc về hướng tây, với…

Một giọng yết hầu cao chói vói, nửa ngân nga nửa lầm bầm với tôi:

"Into’on ho tuulo Ta’ănik-eech…"

- Năm người chúng ta

Hỏi kẻ đang nằm dưới chân

Ai là người sinh ra ngươi

Hỡi tên ung nhọt kia?

Người nói đứng cách tôi chừng mười tầm tay. Qua từ ngữ mà lão ta dùng, tôi đoán lão ta là một người đếm mặt trời của thị tộc Đại Bàng, một dạng như thầy mo nuôi trong nhà, và qua giọng nói… phải, một hình ảnh lờ mờ hiện lên qua ký ức của Chacal. Hình thù lão có phần kỳ quái, tuy không phải một người lùn… tôi biết tên lão ta, là… hừm… là gì nhỉ? Tôi biết là tôi biết mà…

- Cho hắn nước vàng,

Dầu đỏ, rượu đỏ,

Nước trắng, dầu xoa,

Và tro xanh trắng …

Trời bắt đầu mưa, một cơn mưa nóng, ập đến từ mọi hướng. Ôi, chết tiệt, là nước đái. Theo bản năng, tôi co tròn người lại, nhưng vẫn không có cảm giác gì về bên chân còn tê cứng trừ một vùng còn buốt nhói.

Có ít nhất bốn gã vây quanh tôi, mỗi gã tự giải thoát cho mình một lượng nước thải kha khá. Mẹ chúng mày, - tôi nghĩ, - đồ chết giẫm. Đây là trò giải trí à? Không, họ không nghĩ vậy đâu. Đây là sự tẩy uế. Phải vậy không? Có thể lắm.

Ai đó hướng tia nước vào mặt tôi. Tôi nghĩ tôi nghe thấy tiếng cười hinh hích, nhưng có thể là do tôi tưởng tượng ra thôi. Đừng tự ái, - tôi thầm nhắc nhở mình. Mày cần quái gì? Họ có biết mày là ai đâu. Nhưng dẫu sao cũng khó mà bình tĩnh được khi… giời ạ, mấy gã này lấy đâu ra lắm nước thế không biết? Dẹp đi, chúng mày, chúng mày thắng rồi. Lũ con hoang. Chờ đấy, đến khi tao lên nắm quyền ở đây. Tao sẽ cho chúng mày đi dọn nhà xí cả đời, chúng mày sẽ thành cái nhà xí.

Theo lẽ tự nhiên, chỗ nước ấy cuối cùng cũng cạn. Một khối nước khác xối vào người tôi, nó lành lạnh, trơn trơn, dính dính: một thứ hỗn hợp nước b’alche’ chua chua - gồm nước ép từ cây tử đinh hương, dầu ăn, nước kiềm, kết hợp với mùi chua như chanh vàng của axit foóc-mic, thứ axit mà trước khi ngành hóa dân dụng ra đời, người ta phải chiết xuất bằng cách nghiền nát những con kiến. Những vết tróc da trên người tôi như phải bỏng. Nếu còn là Jed, hẳn tôi đã gào lên không kém gì nữ thần báo tử bị sa bẫy, nhưng Chacal đã tập cho mình thói quen không bao giờ kêu la, không bao giờ gào thét, thậm chí không bao giờ quằn quại. Một trong những ký ức xa xưa nhất và cũng ám ảnh nhất của Chacal - vì nó đã xuất hiện trong đầu tôi hơn một lần - là hình ảnh anh ta nằm trần truồng, không xoa dầu tránh côn trùng, trên một đám cỏ cao, cho một đàn côn trùng rỉa thức ăn trên da để xem có thể nằm bao lâu mà không động đậy. Tôi lác cả mắt đi và cố cắn chặt miếng giẻ trong mồm, nhưng thứ nước tẩy uế kia đã tràn vào lỗ mũi tôi, và khi tôi hắt hơi thì nó chui vào cổ họng.

- Ku’ti bin oc, - một giọng khác ra lệnh bằng một thứ tiếng khác tiếng Ix nhưng tôi vẫn hiểu. "Lật nó lên".

Dây thần kinh của Chacal giật nẩy lên, như thể tôi vừa nếm một thứ không hợp với lưỡi anh ta. Trong giọng nói có cái gì đó nhỏ mọn và thấp hèn, chứng tỏ chủ nhân của nó chỉ là hạng tiện dân.

Họ lật ngửa tôi lên và kéo tôi nằm thẳng ra. Chờ đã, tôi cần mẩu đá của tôi. Nó là mẩu đá đặc biệt của tôi. Thêm hai đợt nước nữa dội xuống, và họ để tôi nằm đấy một lúc, quằn quại và nhỏ nước tong tong xuống mặt đá. Ai đó kéo miếng giẻ ra và đổ vào miệng tôi ít nước man mát. Oa. Sướng lịm cả người. Tôi tớp tớp như một con chó hớp nước phun ra từ vòi tưới cỏ. Tôi nhận ra họ đang vần tôi, nhưng vẫn không phải bằng tay trần. Họ đeo những cái găng hở ngón bằng da hươu. Bảo vệ mình khỏi sự ô uế của tôi đây mà. Họ cọ người tôi bằng một thứ mà tôi cho là đá cọ bằng vỏ sò. Họ tẩy rửa mọi khu vực khó-chạm-đến, nếu các bạn hiểu ý tôi muốn nói gì. Họ cậy đi một thứ mà tôi đoán là thuốc nhuộm màu xanh bôi cho vật hiến sinh còn bám trên bảy móng tay còn lại của tôi. Họ xát lên người tôi một loại dầu nào đó. Nó sực mùi vani và mùi hoa phong lữ, nhưng hơi tanh, chắc được lấy từ xác cá heo. Họ vuốt dầu lên mớ tóc, hay đúng hơn là những gì còn lại của mớ tóc, rồi chải. Và khi họ rờ đến cái mà trước vụ hiến sinh hụt còn là bím tóc hay đuôi sam gì đó của tôi, thì một cơn tự ái lại đầy ứ lên trong cổ họng tôi. Lũ con hoang! Cuối cùng, tôi được xoa một lớp bụi gì đó, chắc chắn là cái thứ "tro xanh trắng" mà lão kia đã nhắc tới. Tôi cứ nằm yên và mặc cho mọi chuyện diễn ra, như một cái bánh hạt dẻ nằm cho người ta rắc đường. Tôi cố tưởng tượng như đang được mát-xa toàn thân ở tiệm Georgette Klinger trên đường Madison nhưng không sao làm được.

Họ trói tay tôi ra đằng trước bằng một sợi thừng mềm, để chừa một đoạn dài ở mỗi đầu, sau đó dùng một sợi khác thắt hai cái thòng lọng quanh ngực và cổ tôi, như thắt đai cương cho chó. Cuối cùng, họ xốc nách lôi tôi đứng dậy. Như tôi đã nói, cơ thể của Chacal vốn quen bị bạc đãi. Tôi cảm nhận được sự khỏe mạnh của nó khác với cơ thể vận động viên ở thời hiện đại chúng ta, nó không nổi đầy cơ bắp hay nở nang ra nhờ vận động mà thon lẳn và săn chắc lại, tưởng như xe đâm vào cũng không ngã. Mặc dù mất khá nhiều máu và nhịn ăn mấy ngày liền trước lễ hiến sinh hụt vừa rồi, nhưng tôi, hay đúng hơn là nó, vẫn không lả hẳn đi. Họ cố dìu tôi đi và tôi cũng cố hợp tác, nhưng một chân tôi vẫn chưa nhấc lên được nên rốt cuộc, họ đành cắp tôi trong tư thế dựng đứng, chân kéo lê trên mặt đường.

Từ những cái bóng lướt qua trên đầu mà tôi cảm nhận được, tôi có ấn tượng rằng chúng tôi đi qua một ngách nhỏ trên bức tường trong sân, và qua cách di chuyển, tôi đoán chúng tôi đang đi lên một con đường dốc. Một luồng gió nhẹ và cảm giác về khoảng không. Có lẽ chúng tôi đang đứng ở sườn tây của một quả đồi. Sau sáu mươi bước, chúng tôi rẽ phải, đi vào bóng râm, đi lên mười tám bậc thang, đến một hành lang tối. Chúng tôi đi vòng vèo trong một lối đi hẹp hình chữ chi. Có mùi thuốc lá ngon rất đậm đặc, như thể chúng tôi đang ở trong một cái hộp chống ẩm cho xì gà khổng lồ, và thoáng có mùi vani. Chúng tôi dừng lại. Tiếng ai đó vén tấm rèm chuỗi hạt và chúng tôi bước tiếp vào một căn phòng mát hơi đá.

Ánh sáng màu hồng đào len vào cặp mắt bị bít chặt của tôi. Họ đặt tôi xuống tấm gì đó mỏng và mềm mềm trải trên sàn đá. Ai đó kéo chân tôi quỳ xuống và nắn tôi ngồi đúng theo tư thế lom khom của một tên tù. Tất cả dừng lại trong chốc lát.

- Thủ lĩnh, ở trên chúng ta, đòi ngươi đến dưới chân ngài, - cái giọng cao chói vói cất lên với nhịp đều đều bên trái tôi. Căn phòng này không gây tiếng vang, chẳng kém gì một phòng thu âm.

Thêm một khoảng im lặng dài dằng dặc nữa. Rồi chắc có người đưa ra mệnh lệnh gì đó vì tôi thấy có hai bàn tay chộp lấy đầu tôi và hai bàn tay khác… Ối giời ơi… chọc mù mắt tôi… ôi, Chúa ơi… không, chờ đã… không phải… họ đang cắt các vết khâu trên mắt tôi bằng một lưỡi dao rất nhỏ. Nếu là tôi thì đương nhiên tôi đã vùng vẫy, nhưng cơ thể của Chacal không hề động tĩnh. Cuối cùng, tôi nhận thấy không còn ai giữ mình nữa, tôi nặng nhọc hé một mắt ra. Thứ đầu tiên tôi trông thấy là cái của quý trụi thùi lụi, trông lạ lẫm vì còn nguyên bao quy đầu, nằm vắt vẻo giữa hai đùi.

Hừm, tôi nghĩ, cái này mới đây. Phần lớn người Maya ở thế kỷ 21 không cắt bao quy đầu, nhưng tôi được sinh ra trong bệnh viện và ở đấy người ta có quan điểm riêng của người ta. Thứ tiếp theo tôi nhìn thấy là những cục chai sần của dân chơi bóng trên đầu gối, chúng phồng lên như cái súp lơ, nhìn phát ghê. Và tiếp nữa là những giọt nước mắt lẫn máu nhỏ lên hai bên đùi màu xanh lá cây… màu xanh lá cây à? … rồi đến một vết sẹo lõm trên khung xương chậu, chắc do quả bóng đập vào, rồi một ký tự màu xanh tím sẫm to bằng cái bật lửa Zippo xăm trên ngực. Từ ký ức của Chacal, tôi biết hình xăm đó tượng trưng cho đẳng cấp "chín sọ" trong môn bóng hông. Khắp sàn nhà được phủ một lượt màu đo đỏ, cánh của một loài hoa nào đó. Là hoa phong lữ. Nhưng hoa phong lữ không hẳn màu đỏ. Màu đỏ là do thứ gì khác kìa. Còn da tôi đúng là có màu xanh lá cây thật, và không phải do lớp dầu họ đã xoa lên. Màu sắc khác quá. Và không phải do thuốc thang hay do màng máu đọng lại từ những vết khâu. Nếu là khi khác, tôi đã ngờ vực lắm, nhưng lúc này, tôi còn phải bận tâm chuyện khác nên nhún vai cho qua.

Cặp mắt của Chacal rất khác lạ. Màu sắc không như cặp mắt của Jed thường thấy. Da tôi cũng không hẳn màu xanh lá cây. Nó giống màu xanh giả tạo anh có được khi lấy sơn vàng trộn với sơn đen hơn. Nhưng cũng không hẳn thế. Màu của tấm thảm rắc cánh hoa phong lữ dại trên sàn nhà nhẽ ra phải là màu da cam trong suốt thì lại đỏ óng lên. Nhưng vẫn không hẳn, màu sắc mà tôi đang nhìn thấy vẫn hơi… khác đi, hay Chacal bị mù màu, theo một kiểu khác thường nào đó? Song tôi lại thấy nhiều màu hơn bình thường. Chắc anh ta có cặp mắt tứ sắc, tức là có thể nhìn thấy bốn màu cơ bản thay vì ba. Đúng thế rồi. Chỉ có điều, các trường hợp mắt tứ sắc được ghi nhận từ trước đến nay đều là phụ nữ. Hừ…

Khoan đã. Tập trung vào việc chính đi. Để chuyện đó đấy, nghĩ sau.

- Sọ Đá Quý 2

Muốn ngươi

Tên tù dưới chân ngài kia

Ngẩng đầu lên

Nghe lời phán bảo của ngài.

Đó là tiếng phát ra từ cái giọng cao chói vói kia. Tôi ngẩng đầu lên và hướng mặt về cái bóng mờ mờ đo đỏ.

Tôi đang quỳ giữa một căn phòng trần cao, vuông vắn, mỗi cạnh chừng mười lăm sải tay. Bức tường hình như có màu đỏ sẫm, sáng bóng, hay đúng hơn là màu mà trong mắt của Jed là đỏ sẫm. Nhưng trong mắt của Chacal, nó lại nửa xanh lam nửa đỏ, loang loáng kỳ cục. Hai bức tường hai bên hơi nghiêng vào trong chừng ba mươi độ, vì thế, bức tường trước mặt tạo thành một hình tam giác cân khá cao, đỉnh cách sàn độ ba mươi sải. Xem ra không còn cánh cửa nào khác ngoài lối chúng tôi vừa vào, nằm ngay sau lưng tôi. Khi mọi thứ trở nên sáng sủa hơn, tôi thấy các bức tường như được soi sáng từ phía sau. Thực ra, chúng được phủ những tấm thảm thêu, hoặc giả là những tấm kết từ sợi gì đó nhìn như lông ức chim đuôi seo đỏ gắn trên phên sậy, chúng phản chiếu ánh sáng gián tiếp chiếu xuống từ một cửa sổ tròn trên đỉnh tường hình thang phía sau lưng tôi.

Có cả thảy sáu người trong phòng. Ba trong số đó là vệ sĩ, những gã đưa tôi vào đây lúc nãy. Hai người gã quỳ khom lưng ở hai bên cạnh tôi, và tôi cảm thấy hơi gã thứ ba đằng sau lưng. Mỗi gã đều cầm một cây gậy hay chùy gì đó, tôi đoán là để khống chế tôi ở khoảng cách ngoài một tầm tay. Đầu của một cây chùy dứ dứ ngay sát mặt tôi nên tôi nhận ra nó không phải bằng đá mà là một thứ có đinh nhọn tua tủa như cái gối giắt kim. Còn một người nữa đứng trước mặt tôi, cách chừng ba sải tay và hơi chếch về phía bên trái. Một tên gù! Tầm vóc gần bằng người bình thường song cái đầu to phểnh ra, rộng bẹt và rối bù, bộ mặt lệch vẹo vọ bôi những vệt màu xanh lam, trên chụp cái mũ túm lại hình nón khiến hắn nom không khác gì một con vẹt xanh đuôi dài. Tôi chắc các bạn nghĩ một bộ mặt như vậy thì thật ngớ ngẩn, nhưng ở đây, hoặc trong bộ óc mới này của tôi, nó hoàn toàn không ngớ ngẩn chút nào, trái lại, tôi thấy nó nghiêm nghị đến phát sợ.

Tiếp nữa, cách tôi bốn sải tay, dần hiện ra trong bóng tối lờ mờ, Sọ Đá Quý 2 ngồi khoanh tròn trên một tấm da báo hai đầu trải rộng, hít một điếu xì gà dài màu xanh lá cây qua lỗ mũi bên trái.

Ông ta ngồi quay một góc bốn mươi nhăm độ so với hướng chính diện của tôi, và thay vì nhìn tôi, ông ta nhìn xuống một cặp vỏ bầu hay bình gỗ gì đó, sẫm màu, to bằng cái hộp đựng bánh mì, đặt dưới sàn trước mặt ông ta, mỗi chiếc đều được khảm đá màu xanh trắng, xếp thành hình kí tự đọc là awal, nghĩa là "kẻ thù". Ông ta mặc một cái khố hình chân váy, quấn chiếc thắt lưng to bản, gần chạm đến xương ức, và tôi chỉ nhìn thấy những đường nét lờ mờ của một cái đầu bé quắt queo, được nối liền với mảnh khăn sau gáy bằng mớ tóc, vì thế, nhìn nó như ngật ra sau, nhòm xuống lưng với vẻ sưng sỉa. Ngoài đôi dép xăng-đan bằng da sống cùng mấy cái vòng đeo tay và đeo cổ chân bằng ngọc bích ra, trên người ông ta chỉ còn chiếc khăn xếp không chỏm, rất cầu kỳ với một bông lan vani - tôi đoán là làm giả từ lông đại bàng tẩy trắng đi - gài trước trán. Một con chim ruồi ức xanh lục - một con chim thật, được nhồi rơm, với cặp mắt loang loáng sống động - treo lơ lửng phía trước bông hoa bằng một cuống dây gần như vô hình, trông thật như thể thời gian đã ngừng lại đúng lúc nó chuẩn bị châm vòi vào mật hoa. Nó khiến tôi bối rối mất một lúc, vì suốt thời gian huấn luyện, người ta cứ chăm chăm làm sao để tôi hình dung ra được Chim Ruồi Có Nanh 9, người mà chắc các bạn cũng còn nhớ, là ahau của dân tộc cai trị vùng đất này, thị tộc Mèo Rừng, là k’alomte’. Nhưng ở đây, mọi thứ phức tạp hơn một chút. Chim Ruồi Có Nanh 9 chỉ là một cái tên, cái tên như trăm ngàn cái tên của các k’alom’te’ khác, và nó cũng chẳng dính líu gì đến tô-tem hay uay của ông ta, cũng như một người có tên là "Cá Tháng Tư" thì hoàn toàn không có nghĩa anh ta sinh ra vào tháng tư hay là một con cá. Vì vậy, con chim ruồi gắn trên khăn xếp của Sọ Đá Quý 2 không biểu thị sự liên quan của ông ta và con chim ruồi - tuy nhiên, nó có thể có ẩn ý rằng thời này người ta thích vani. Tôi nhớ láng máng rằng hạt vani có vai trò rất quan trọng đối với thị tộc Đại Bàng, hình như là một trong những nguồn lợi chính của họ thì phải.

Dưới bông hoa phong lan, cái trán xuôi xuống theo một góc hẹp, nối với sống mũi nhỏ, cứng đơ, chính cái sống mũi này giúp trán ông ta bớt lõm và hài hòa với chỏm mũi khoằm như mỏ chim kền kền. Những chấm xanh lam xăm theo hình xoắn ốc chạy từ hai khóe miệng lên tận mí mắt được bôi đen. Bất chấp làn da nhăn nheo và cháy nắng, ông ta vẫn không có vẻ gì là già nua… tuy ông ta già thật, tôi biết điều đó qua ký ức của Chacal, ông ta chí ít đã tái sinh đến lần thứ hai, tức là qua tuổi năm mươi hai, và tôi nghĩ tôi biết ông ta còn già hơn thế một chút.

Cặp mắt ông ta liếc sang bên và hướng thẳng vào mắt tôi. Người ta thường nói rằng trong mắt của một kẻ từng giết rất nhiều người luôn có sự trống rỗng nhất định. Tôi không nghĩ vậy. Không ít những con hùm khát máu nhất hành tinh có cặp mắt hết sức biểu cảm. Nhưng quả là vẫn có sự lạnh lùng trong đó, một sự khinh bỉ cố hữu mà những con lợn có thể bắt gặp trong ánh mắt tên đồ tể, và tôi thực sự cảm thấy run sợ. Mắt tôi dao động, tôi chớp mắt và nhìn xuống những quả bầu dưới sàn. Chúng đang chuyển động, lê từ chỗ này sang chỗ khác trên những bàn tay nhỏ, vài giây sau tôi mới nhận ra đó là những con tatu, trên mai mỗi con đều được gắn những mẩu a-zu-rít (Loại khoáng vật có màu xanh lam sẫm óng ánh ) và được xích xuống sàn bằng một dải băng xâu qua tai.

- Chuột Mickey là ai? - Sọ Đá Quý 2 hỏi.

Tim tôi không hẳn ngừng đập, nhưng dường như nó co thắt lại chỉ còn bằng một quả bóng bé xíu. Ông ta nói bằng tiếng Anh.