*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Đêm trên núi lặng đáng sợ.

Thỉnh thoảng có tiếng của con gì đó không biết tên kêu, hồi ngắn hồi dài, không biết là thú hay chim.

Bỗng có gió từ lỗ thủng trên đỉnh đầu thổi ù ù vào thốc một vòng trong miếu rồi đi ra qua một lỗ thủng khác. Ván cửa cong vẹo che chắn cửa miếu rung bần bật trong gió đêm lung lay như sắp đổ.

Phùng Bất Cơ trát bùn đầy người đã ngồi trên bệ tượng thờ một canh giờ.

Bùn trên người đã gần khô hẳn, vừa cứng vừa ngứa, thực sự khổ sở, vậy mà hai vị bên dưới kia vẫn “ngủ say”, trông qua đúng giống một cặp trai gái bỏ trốn với nhau không biết đời hiểm ác.

Nhưng chính đôi trai gái này một canh giờ trước đã lừa huynh ta một vố cực kỳ tàn ác vô nhân đạo…

Đàm Vân Sơn: Tượng thần phải cao lớn, cường tráng, uy nghiêm.

Ký Linh: Ừ.

Đàm Vân Sơn: Bất Cơ không cần phải ngụy trang, thực sự chỉ ngồi tĩnh tọa ở đó thôi là đã giống thần thánh rồi.

Ký Linh: Đúng.

Đàm Vân Sơn: Tôi là mồi.

Ký Linh: Chắc chắn rồi.

Đàm Vân Sơn: Cô nương là con gái.

Ký Linh: Đóng giả không giống thần.

Đàm Vân Sơn: Từ giờ trở đi, mệnh hai người bọn tôi giao cho huynh.

Ký Linh: Nhận đi.

Lơ ma lơ mơ, ù ù cạc cạc, váng mắt váng đầu.

Tới lúc hoàn hồn thì người đã bị trát đầy bùn đặt lên bệ tượng thờ, sau đó cô nương công tử nhà người ta lưng tựa lưng đi ngủ.

Yêu quái liệu có đến không?

Phùng Bất Cơ không biết. Chỉ có điều huynh ta thật lòng khẩn cầu nếu có đến thì mau đến đi, giờ mũi huynh ta chỉ ngửi thấy mùi bùn tanh hôi mà lại còn cực kỳ ngứa, rất muốn hắt xì…

Không ổn.

Phùng Bất Cơ đang lẳng lặng hít hít mũi mấy cái cho đỡ ngứa thì bỗng phát hiện ra lẫn trong mùi bùn tanh hôi còn có cả chút mùi gì khác.

Huynh ta lại khe khẽ hít thêm mấy lượt nhưng mùi bùn át hết mọi mùi khác, khó mà ngửi ra được thứ mùi lạ kia có phải là yêu khí hay không.

Phùng Bất Cơ hơi buồn bực, đang bắt đầu thấy lo lắng thì bỗng nhớ ra giờ mình không còn là gã tu hành đơn độc, chuyển mắt xuống quan sát lư hương trước mặt.

Quả nhiên, dưới ánh trăng mờ, làn hương Phù Đồ đang bay thẳng ra cửa miếu đổ nát.

Phùng Bất Cơ nín thở, bất giác ưỡn thẳng sống lưng, thoáng chốc thực sự có được cái nét oai nghiêm của một vị thần.

Ngoài miếu bỗng yên tĩnh hẳn, hoặc phải nói là cả cánh rừng bỗng lặng như tờ, đến tiếng gió cũng sẽ lại như thể nó cũng biết có kẻ xấu đang tới.

Chim muông bặt tiếng, yêu vào cửa miếu.

Dường như có một chùm sáng tím sáng lên bên ngoài ván cửa sau đó lặng lẽ lẻn vào qua khe hở.

Đó là một cái bóng hẹp dài màu tím nhạt, có thể nhận ra là của một con thú nhỏ nhưng quá mờ nên không thể xác định được cụ thể.

Cái bóng này rõ ràng là rất quen thuộc với bài trí trong miếu, vừa vào cửa liền đi thẳng tới chỗ trải rơm ở góc tường – nơi Ký Linh và Đàm Vân Sơn đang say ngủ.

Nó di chuyển không nhanh, bay từ từ để lại một vệt đuôi sáng màu tím nhạt trong miếu.

Cuối cùng nó dừng lại trước ổ rơm.

Giữa cảnh tĩnh lặng không một tiếng động, cái bóng biến từ nhỏ thành to, từ hư thành thực, cuối cùng thế mà lại biến thành một “người đàn ông”.

“Người đàn ông” này trông thực không dễ nhìn, mắt lệch mũi vẹo, mồm nhọn má khỉ, người choắt lưng còng. Nhưng xấu cũng không đáng sợ, thứ thực sự làm người ta thấy sợ hãi là đôi mắt hắn… đùng đục, u ám, vô cảm.

Đương nhiên Phùng Bất Cơ thì không sợ, huynh ta đã gặp nhiều yêu quái rồi, cỡ này không có gì đặc biệt.

Có điều Đàm lão đệ của huynh ta có lẽ sẽ không nghĩ như vậy.

Sau thoáng đánh giá ngắn ngủi, “người đàn ông” liền đi ngay tới phía bên Đàm Vân Sơn nằm, lặng lẽ ngồi xổm xuống, rõ ràng là đã chọn được sẽ ra tay với ai trước.

Phùng Bất Cơ rõ ràng trông thấy lúc “người đàn ông” ngồi xổm xuống trước mặt Đàm Vân Sơn, vai Đàm Vân Sơn run nhẹ một cái.

… Dẫu có kinh nghiệm làm mồi phong phú thì vẫn sợ hãi như thường.

Chỉ vậy thôi, “người đàn ông” đã phát giác ra điều bất thường, cơ thể đang từ từ nghiêng tới dừng khựng lại.

Không phải sợ mà là do thứ bản năng thận trọng của loài thú.

Đúng lúc này, Phùng Bất Cơ đột ngột nhảy lên, xông tới!

“Người đàn ông” giật mình, đứng dậy bỏ chạy. Nào ngờ mới bước được một bước đã ngã ầm xuống đất!

… Chẳng biết Đàm nhị thiếu gia ôm chặt cẳng chân hắn từ bao giờ, bất kể hắn đá thế nào vẫn không chịu thả tay.

Ký Linh bật dậy, ghì ngay lấy lưng nó!

Nhanh như chớp giật, đâm ngay một dao!

Kiếm gỗ đào của Phùng Bất Cơ tới cùng một lúc, đến chỗ chọn để đâm cũng giống Ký Linh: gáy gã “đàn ông”!

Con dao găm sắc lạnh và thanh kiếm gỗ đào nhuộm máu nhất tề đâm vào, khói trắng bốc lên, gã “đàn ông” thét lên thứ tiếng không phải của con người!

Ký Linh giật mình trước sự xuất hiện của khói trắng nhưng không kịp nghĩ ngợi, lần một tay lấy Lục Trần Kim Lung.

Phùng Bất Cơ ấn mạnh kiếm gỗ đào xuống, ghim chặt “gã đàn ông” dưới đất, vừa ngẩng đầu lên định nhắc Ký Linh thu yêu thì đã thấy cô nương nhà người ta cầm Kim Lung trong tay.

Lần đầu tiên trong đời Phùng Bất Cơ đi bắt yêu mà được thoải mái cả thể xác lẫn tinh thần: nếu là trước đây, lúc này huynh ta phải lựa chọn đánh yêu quái về nguyên hình hay diệt luôn tinh hồn, chỉ đánh về nguyên hình thôi thì sợ chưa đủ, còn bảo diệt tinh hồn thì hơi khó, nhất là khi huynh ta chỉ có một thanh kiếm gỗ đào, không có thứ gì thực sự là pháp khí, cho dù tinh hồn yêu quái có yếu thì muốn diệt nó bằng một thanh kiếm gỗ đào nhuộm máu, quá trình ấy cũng tốn sức tới mức ngang hành hạ tới chết, tàn nhẫn với yêu quái mà với huynh ta cũng là một dạng tra tấn.

Bị ánh sáng của Kim Lung bao phủ, “gã đàn ông” từ từ thu nhỏ lại, hiện nguyên hình là một con chim trĩ đuôi dài bảy màu.

*ở ta gọi là chim trĩ, ở Trung gọi là gà rừng (tiếng Trung: 山鸡, khác loài gà rừng ở Việt Nam). Hình chim trĩ đuôi dài:

Đàm nhị thiếu gia vội thả tay, cặp chân chim lấy lại được tự do.

Song con chim trĩ không duy trì nguyên hình được bao lâu nhanh chóng biến thành tinh phách.

Tinh phách vẫn là chùm sáng màu tím nhưng khác với lúc đầu còn hơi có hình con thú, lúc này nó chỉ nhỏ chừng bằng viên thuốc tròn lẵn rồi cũng nhanh chóng biến thành vô số đốm sáng tứ tán khắp bốn phương tám hướng lọt qua khe tường, lỗ dột, quay về với tự nhiên.

Đàm Vân Sơn vừa xoa ngực mới bị đá đau vừa đứng dậy: “Xem ra còn chưa xấu tới tận cùng.”

Nếu chí tà chí ác giống Ứng Xà thì đã bị thu vào trong Kim Lung, nào còn có cơ hội trở về với đất trời.

“Lúc đầu chưa hại người, nó trộm nhiều thú săn nhưng không trộm chim trĩ, chứng tỏ vẫn còn biết không ăn thịt đồng loại.” Phùng Bất Cơ cất kiếm gỗ đào, thở dài thườn thượt, “Đáng tiếc, thành hình người rồi lại bắt đầu đi chệch đường.”

Ký Linh cất Lục Trần Kim Lung đàng hoàng xong lạnh lùng nói: “Nếu nó thực sự có tình đồng loại thì đã không đứng nhìn nhiều chim trĩ như vậy bị giết lấy máu vì nó. Suốt ba năm, vì phòng nó mà phỏng chừng chim trĩ trên núi đã bị các thợ săn săn bắt hết.”

Phùng Bất Cơ cười bất đắc dĩ: “Dù sao yêu cũng là yêu, Ký Linh đem tiêu chuẩn tình cảm của con người ra so thì hơi làm khó nó.”

Đàm Vân Sơn không ngờ lần này bắt yêu lại đơn giản như thế, chàng những tưởng không đại chiến ba trăm hiệp thì cũng phải đấu một trận cam go, nào ngờ mới chớp mắt một cái đã xong xuôi. Hơn nữa, rõ ràng là hai vị đồng đội của chàng đã quen với tình hình thế này, không vui vẻ vì bắt được yêu, cũng không tỏ ra sung sướng vì mạnh lấn át đối thủ, thái độ dửng dưng như thể chỉ ngồi xuống uống chén trà ven đường.

Cùng lúc với cảm giác khâm phục tán tụng trào dâng một cách tự nhiên, Đàm nhị thiếu gia cũng lặng lẽ khống chế biểu cảm để tránh có vẻ mình quá thiếu trải đời.

Vừa lắng dịu lại thì nghe Phùng Bất Cơ khuyên Ký Linh không nên lấy tiêu chuẩn của con người làm khó yêu thú, Đàm nhị thiếu bất giác muốn nói đỡ lời thay cho cô nương nằm lưng tựa lưng với mình một canh giờ: “Chẳng phải nó đã tu thành hình người rồi sao, thế thì không thể vẫn coi nó là một con chim.”

Phùng Bất Cơ giờ mới chú ý tới bên cạnh có một Đàm Vân Sơn mới nhập môn tu hành bèn giải thích: “Yêu tu luyện một số năm nhất định thì hầu hết sẽ hóa thành hình người, dần dần học được cách nói tiếng người, cách con người đi đứng, thậm chí có con còn ở lẫn với người. Nhưng yêu thì vẫn là yêu, mãi mãi không thể thực sự là người, hình người chẳng qua cũng giống như nguyên hình hay bóng yêu, là một hình thái tồn tại khác mà thôi. Vẫn ăn tinh khí, vẫn tu yêu đạo.”

*bóng yêu: t không tìm được định nghĩa chính xác của thứ này, mọi người căn cứ vào miêu tả từ đầu chương tới giờ về cái khối sáng có màu tím hình con thú, là một hình thái tồn tại khác ngang với nguyên hình để tự tưởng tượng vậy. Theo t tưởng tượng thì nó trông giống thần hộ mệnh trong Harry Porter.

Đàm Vân Sơn kinh ngạc nhìn sang Ký Linh.

Ký Linh gật đầu, song vẫn nói thêm: “Cũng có yêu thực sự hiểu tình cảm, biết thiện ác, thậm chí có con còn có tình cảm hơn con người, cho nên là người hay là yêu không phải ở chỗ hấp thụ tinh khí hay ăn ngũ cốc mà là tại tâm.”

Lời này rất có lý, Phùng Bất Cơ thậm chí bắt đầu nghĩ lại xem phải chăng tiêu chuẩn phán định “yêu quái có tình cảm” của mình quá thấp.

Đàm Vân Sơn không nghĩ sâu như Phùng Bất Cơ, chỉ cảm thấy khó lắm mới tu được hình người vậy mà vị tu được hình người ban nãy còn không đẹp bằng nguyên hình, nếu là chàng thì thà tiếp tục làm một con chim trĩ kiêu hãnh hiên ngang. Đuôi dài bảy màu cơ mà, ngẩng đầu dạo bước trong rừng, nghĩ thôi đã thấy đầy khí thế!

Yêu quái đã đền tội nhưng không biết có còn con cá lọt lưới nào không. Cuối cùng Ký Linh đề nghị ngày mai ban ngày đi tuần núi. Phùng Bất Cơ với nguyên tắc cứu người cứu tới cùng liền đồng ý, Đàm Vân Sơn một lần vấp ngã là một lần bớt dại cũng nhanh nhẹn tán thành.

Ký Linh bực bội lườm chàng một cái, rõ ràng là đã nhìn thấu sự “dối lòng” của chàng.

Đàm Vân Sơn bị lườm lại thấy rất thoải mái, dù sao sẵn lòng lườm chàng, vậy chứng tỏ là chuyện lúc trước đã được bỏ qua, không giận nữa.

Phùng Bất Cơ đi ra một con suối nhỏ gần đó gột rửa bùn sình trên người sạch sẽ trở về thì hai bạn đồng hành đã trải ổ rơm cho huynh ta.

Vốn lúc rửa ráy, Phùng Bất Cơ còn buồn bực, nếu biết sớm con yêu đấy không chịu nổi một đòn như thế thì đã chẳng cần phải tốn công như vậy, nào ngụy trang nào giả ngủ rồi tập kích sau lưng làm huynh ta nửa đêm còn phải tắm nước lạnh; song tới lúc trông thấy ổ rơm đồng đội trải sẵn cho mình, những bức bối trong trái tim tục tằn của huynh ta liền lắng lại, bỗng thấy hạnh phúc lạ lùng vì được “chăm sóc”.

Trải rộng ổ rơm, ba người nằm thành dãy.

Không biết có phải do vừa bắt yêu xong nên tinh thần hưng phấn không mà nửa canh giờ trôi qua, cả ba đều vẫn mở mắt thao láo nhìn lên lỗ dột trên xà nhà.

Cuối cùng, đã không ngủ được cũng không thể đi đường được, không còn cách nào hơn, ba người đành ngồi dậy mượn ánh trăng sáng để nghiên cứu Trần Thủy tiên duyên đồ.

Mỗi lần nhìn bức đồ này, Ký Linh lại tức: “Đã nói là không bỏ huynh lại rồi, không thể vẽ cho hoàn chỉnh được à?”

Đàm Vân Sơn không nói gì, vờ ngớ ngẩn lần thứ một trăm lẻ một.

Phùng Bất Cơ vươn người chỉ tay vào chỗ của Sùng Ngục, đánh trống lảng giải vây giúp Đàm nhị thiếu gia: “Tôi nhớ ra rồi, U Thôn Mặc Châu này tôi đã từng đi qua, chỉ mới năm, sáu năm trước, gọi là thôn nhưng không khác gì một trấn, cực kỳ náo nhiệt, hồi đó không hề thấy có yêu khí.”

Ký Linh và Đàm Vân Sơn cùng nhìn huynh ta: “Chuyện quan trọng vậy giờ huynh mới nhớ ra?!”

Phùng Bất Cơ chùi nước bọt bắn vào mặt, cười ngượng ngùng: “Nhiều tuổi rồi mà, sao có thể chuyện nào cũng nhớ rõ được.”

Đàm Vân Sơn nghiêm túc đánh giá vị đồng đội này.

Tuy lôi thôi lếch thếch, nhất là dạo này râu tóc mọc có vẻ nhiều nhưng nhìn thế nào cũng chỉ ba lăm, ba sáu, cao tuổi đâu ra!

Ký Linh cũng cạn lời nhưng so với chuyện này thì tin tức Phùng Bất Cơ tiết lộ quan trọng hơn: “Chắc chắn không có yêu khí à?”

Phùng Bất Cơ trở nên nghiêm túc, đáp đầy thận trọng: “Nếu yêu khí của bốn con yêu thú còn lại đều như Ứng Xà thì tôi có thể khẳng định là không có, ít nhất lúc tôi đi qua đó thì không có. Về phần rốt cuộc là Sùng Ngục không có ở đó hay lúc tôi đi qua đó nó vừa đi mất hay là yêu khí của nó cực kỳ yếu thì không thể biết được.”

Ký Linh im lặng.

Trần Thủy tiên duyên đồ được để lại từ hai mươi năm trước. Phùng Bất Cơ đi qua đó từ năm, sáu năm trước. Mười mấy năm ở giữa đã xảy ra biến cố gì đấy không phải là chuyện không thể.

Chỉ là manh mối hiện giờ có được quá ít ỏi, tất thảy đành phải đợi tới U Thôn mới có thể chứng thực.

Đàm Vân Sơn nói: “Bất Cơ huynh còn ấn tượng gì không nhớ được rõ thì cũng nói hết ra đi, bọn tôi nghĩ giúp huynh.”

Bản ý của chàng chỉ là châm chọc thôi, không ngờ Phùng Bất Cơ lại thực sự thò tay chọc chọc vào hai chữ “Trần Thủy” trên bản đồ: “Tôi cứ có cảm giác từng nghe hai chữ này ở đâu rồi…”

Đàm Vân Sơn ngạc nhiên, không ngờ lại có thu hoạch ngoài mong đợi.

Điểm bắt mắt nhất trên Trần Thủy tiên duyên đồ chính là dòng Trần Thủy chạy xuyên suốt bản đồ này song trước nay chàng chưa từng nghe nói thế gian có một con sông như vậy. Được thôi, cho dù chàng hiểu biết nông cạn nhưng Ký Linh từng đi rất nhiều nơi cũng hoàn toàn xa lạ với cái tên này. Quan trọng hơn nữa là trên bản đồ, điểm đánh dấu có Ứng Xà chính là sông hộ thành bên ngoài Hòe Thành nhưng con sông có tên có tuổi này ở trên bản đồ cũng không có tên, chỉ thấy nó là một nhánh của dòng chính Trần Thủy.

Từ đó suy ra, hai chữ “Trần Thủy” rất có thể không phải do dân gian đặt mà là tiên giới hay chính vị tiên vẽ bức đồ này đặt tên gọi chung cho một số con sông ở nhân gian.

“Không được, chuyện này thực sự không nghĩ ra…” Vắt óc nghĩ hồi lâu, Phùng Bất Cơ bỏ cuộc.

Đàm Vân Sơn tuy hụt hẫng nhưng nhanh chóng nghĩ thoáng, còn an ủi đồng đội: “Không hề gì, chưa biết chừng một hôm nào đấy lại bỗng nhớ ra.”

Ký Linh vốn đang thất vọng nghe Đàm Vân Sơn nói vậy cũng thấy quả thực không có gì đáng ngại, cúi xuống xem tiếp tiên duyên đồ, kết quả còn chưa xem được gì đã nhìn thấy ngay mấy chấm đỏ.

Chỗ đó nhìn là biết ngay là vết máu ngón tay chọc vào, Ký Linh chợt nhớ ra chuyện mình đã trót quên.

Nàng vội ngẩng đầu gọi Phùng Bất Cơ còn đang bận âu sầu: “Suýt thì quên mất, chỉ bắt một con yêu nhỏ như vậy, huynh đâu cần phải cắn nát đầu ngón tay chứ.”

Lúc trông thấy thương tổn do kiếm gỗ đào đâm vào gáy yêu quái, nàng đã biết Phùng Bất Cơ lại bôi máu lên kiếm nhưng họ ba đánh một còn đối đầu với một con yêu nhỏ không hề có sức kháng cự, đến chuông Tịnh yêu còn không phải dùng tới, căn bản không cần liều lĩnh làm thế.

Phùng Bất Cơ không hiểu tiếng lòng của Ký Linh chỉ thấy câu này rất kỳ cục: “Tôi không tấn công bằng kiếm máu làm nó bị thương thì sao Ký Linh dùng Lục Trần Kim Lung bắt được?”

Ký Linh dở khóc dở cười trước câu hỏi vặn lại đầy hợp tình hợp lý này: “Tôi có thể dùng chuông Tịnh Yêu mà, chẳng lẽ trước khi quen biết huynh, tôi bắt yêu đều phải chờ người ta đánh yêu quái bị thương tương đối rồi mới lấy Kim Lung ra sao.”

Phùng Bất Cơ không đồng ý: “Chuông Tịnh Yêu của Ký Linh còn phải đọc chú mới dùng được, quá chậm. Chờ Ký Linh niệm chú xong, Đàm Nhị đã sớm bị yêu quái hút hết tinh khí rồi.”

Đàm Vân Sơn đang nhàn nhã nghe nói chuyện sôi nổi giật mình. Mà khoan, sao chàng lại thành Đàm Nhị?

Chẳng ai quan tâm tâm tình của Đàm nhị thiếu gia, Ký Linh lại hỏi tiếp: “Huynh cả thảy chỉ có mười ngón tay, chẳng lẽ cứ gặp một yêu phải cắn một ngón?”

Phùng Bất Cơ thẳng thắn: “Chiêu này không thể dùng thường xuyên được, dù gì cũng là máu thịt, làm cho mười ngón tay đều nát bét hết thì đúng là quá có lỗi với bản thân. Có điều…”

Ký Linh nhíu mày, chăm chú lắng nghe.

Phùng Bất Cơ ăn ngay nói thật: “Trước đây tôi không thường xuyên gặp yêu quái đến thế, kể từ khi quen biết hai người thì… yêu nghiệt đeo bám.”

Bốn chữ cuối cùng, Phùng Bất Cơ nói đầy chân thành tha thiết.

Ký Linh không còn biết phải nói gì, vừa bực mình vừa buồn cười. Tuy lúc ở Đàm phủ nàng cũng từng cắt máu ngâm chuông Tịnh Yêu nhưng lúc ấy phải đối đầu với Ứng Xà, bắt buộc phải vậy, như hôm nay thì nàng chỉ dùng dao găm mang theo người, không hề dùng chút pháp lực nào.

“Được thôi, tôi hiểu ý tốt của Ký Linh, nhưng ai bảo tôi không có pháp khí sư phụ truyền cho cơ chứ,” Phùng Bất Cơ thở dài, “đành phải chịu khổ vậy.”

Ký Linh bất đắc dĩ, thuận miệng nói: “Thế thì dùng lá ngải cứu cũng được mà.”

Vốn tưởng Phùng Bất Cơ sẽ nói lá ngải cứu pháp lực không mạnh bằng máu các kiểu, không ngờ huynh ta nghe xong thì đâm ra ngơ ngác: “Ngải cứu?”

Ký Linh không ngờ tới: “Kiếm gỗ đào có thể dùng lá ngải cứu chà xát, dù không bì được với máu người tu hành nhưng vẫn có chút pháp lực… Huynh không biết à?”

Bốn chữ cuối như đâm dao vào tim Phùng Bất Cơ.

Tiếp đó, Ký Linh truyền thụ lại toàn bộ các mánh lới bắt yêu học được từ sư phụ cho Phùng Bất Cơ.

Phùng Bất Cơ càng nghe càng đau lòng, nghe xong chui vào xó tường, xoay lưng về phía mọi người để suy ngẫm sự đời.

Đàm Vân Sơn cũng nghe từ đầu tới đuôi, học được không ít, đồng thời cũng đau lòng thay cho Phùng Bất Cơ, nói nhỏ với Ký Linh: “Giờ chắc huynh ấy vừa buồn vừa tức.”

“Buồn” thì Ký Linh hiểu, dù sao Phùng Bất Cơ thường xuyên dùng cách bắt yêu “nghiêm túc”, máu chảy uổng phí chắc có thể nhuộm đỏ hồ nước Đàm phủ, nhưng mà: “Tức là từ đâu ra?”

Đàm Vân Sơn đáp đầy sâu sắc: “Thế gian này nợ huynh ấy một người sư phụ tốt.”

Ký Linh cười.

Cơn tức hồi chiều đến giờ coi như hoàn toàn hết hẳn, tuy Ký Linh vẫn không thể tán thành suy nghĩ của Đàm Vân Sơn như cũ nhưng cũng biết bản thân không có quyền bắt ép người khác.

Tương lai còn “tranh cãi” vì bất đồng quan điểm với con người này bao nhiêu lần nữa? Ký Linh không biết. Có điều, tối thiểu thì trước mắt là không khí hòa hảo, tựa như ánh trăng lọt qua mái nhà vậy, sáng trong, tĩnh lặng.

Ký Linh bỗng hỏi: “Nếu như năm nốt ruồi tiên biên mất, huynh thật sự thành tiên thì thế nào nữa?”

“Vui thôi.” Đàm Vân Sơn không hề do dự, “Thành tiên dù sao cũng là một chuyện tốt, trường sinh bất tử, lên trời xuống biển, muốn làm gì thì làm đó.”

“Vậy rốt cuộc huynh muốn làm gì?” Ký Linh thực sự tò mò nhìn sang Đàm Vân Sơn.

Đàm Vân Sơn cứng họng, một lúc sau mới nói: “Cô nương đúng thật là, “rốt cuộc” ở đâu ra mà nhiều vậy, tóm lại là tiêu diêu tự tại giữa đất trời, có chuyện gì nghiêm túc để làm hay không thì tôi cũng vẫn tiêu diêu!”

Ký Linh liếc mắt xem thường, nói vậy chẳng khác gì chưa nói.

Đàm Vân Sơn thật sự không giỏi đối đáp khi bị “truy hỏi tới tận cùng” bởi vì chính chàng cũng không biết tận cùng là gì bèn hỏi ngược lại: “Cô nương thì sao, tới ngày thiên hạ thái bình rồi, cô nương muốn làm gì?”

Ký Linh ngửa đầu nhìn ánh trăng rọi qua mái nhà xập xệ, môi mỉm cười: “Đi viếng mộ sư phụ, nói cho sư phụ biết thiên hạ đã thái bình rồi.”

Đàm Vân Sơn lẳng lặng nhìn nàng, hơi hiểu vì sao nàng khăng khăng hỏi rốt cuộc chàng muốn làm gì. Bởi vì so với sự rõ ràng rành mạch của nàng, chuyện chàng “muốn làm gì thì làm đó” thực sự ngu ngốc, qua quýt.

Thời khắc này rất đẹp, giai nhân ngắm trăng, chàng ngắm giai nhân, trăng như sương, gió như nước.

Nếu như không phải giai nhân bỗng “té xỉu”.

Không một dấu hiệu báo trước, không hề có nguyên do, không hề phát ra một tiếng động.

Ký Linh cứ thế mềm người ngã xuống.

Đàm Vân Sơn vội vã đưa tay đỡ những mong tối thiểu thì không để người bị ngã ra đất.

Tay còn chưa chạm được vào xiêm y của đối phương, bỗng chàng cũng thấy mệt kỳ lạ rồi sau đó không còn biết gì nữa.