Đã ba ngày qua, nhóm người ngựa vẫn đi về phương Bắc, lúc vượt rừng lúc băng suối, lúc trèo đèo trượt dốc, lúc phi nhanh rong ruổi trên đường cái quan, lúc len lỏi theo những đường sâu trong rừng rậm.

Mã Hóa Long cố tìm những ngả tắt để đi gấp đến Vạn Diệu sơn trang.

Ông ta cố tránh con mắt tò mò của người đi đường, chỉ dừng chân ở các thị trấn nhỏ khi cần phải cho ngựa nghỉ hay cần mua thêm lương thực, thuốc men cần thiết. Mỗi khi nghỉ tạm, ông chăm lo nắn bóp các huyệt đạo của thiếu niên trong khi Mã phu nhân sắc thuốc men để cầm giữ nguyên khí người bị thương. Vì vậy thiếu niên đủ hơi sức cầm cự với tử thần.

Tuy nhiên, sang tới ngày thứ ba thì thiếu niên chẳng thể một mình nằm phủ phục trên lưng ngựa được nữa. Hai mắt có quầng đen trũng sâu xuống, hai má hóp lại, da vàng lợt, mạch máu chạy yếu hẳn đi. Mã Hóa Long phải bế chàng trong tay, ngồi chung một ngựa tiếp tục cuộc hành trình... tìm danh y chữa chạy. Vẻ lo sợ của hai vợ chồng Mã Hóa Long càng hiện rõ trên nét mặt đầy ưu tư!

Mấy hôm đầu còn vừa đi vừa nghỉ, về sau tình trạng sức khỏe của thiếu niên trở nên suy yếu nhanh chóng, hai vợ chồng Mã Hóa Long mải miết thúc ngựa đi cả ngày lẫn đêm, không nói năng với nhau nửa lời. Ngọn Thất Chỉ sơn như bảy ngón tay chỉ thẳng lên trời, khi mờ khi hiện ở đằng xa. Mã Hóa Long bảo vợ rằng :

- Vạn Diệu sơn trang ở chân rặng núi kia. Dân cư vùng này ai cũng biết Thánh Thủ Lão Thần Y. Những đồi trồng chè ở đây sản xuất ra một loại chè rất ngon, bà nên tìm mua chút ít, uống vào cho đỡ mệt nhọc và khỏi khát.

Nhưng lạ thay, đi qua nhiều ngọn đồi chè lá mọc xanh um, rất tươi tốt, tìm vào một vài túp lều tranh trước đây có người ở mà nay thì hoang vắng. Không thấy một bóng người nào hết! Không có tiếng chó sủa, cũng không thấy một ngọn khói bốc lên, bóng gia súc, người đi hoặc trẻ nô đùa cũng như đi vào một khu rừng hoang thăm thẳm vô tận.

Mã Hóa Long tay bồng thiếu niên, tay ghì cương ngựa kiệu lên trên trước xem xét tình hình, chợt thấy bên đường cắm một tấm bảng trên úp chụp một sọ người phơi xương trắng hếu, hai con mắt rỗng đen ngòm với bộ răng nhe trắng nhởn, trên bảng có viết mấy chữ sau đây: “Ma Vương cấm địa: Kẻ nào xâm nhập Vạn Diệu sơn trang thì sẽ bị bêu đầu cắm trên cọc như người này!”.

Mã Hóa Long cau mày ngẫm nghĩ. Mã phu nhân tiến tới thấy vậy cũng hoang mang không hiểu sao. Bà nhìn chồng tỏ vẻ lo ngại bội phần!

Mã Hóa Long nói :

- Cách đây hơn tháng tôi trở về qua đây, cảnh trạng có như vậy đâu? Không biết biến cố gì đã xảy ra tại đây?

Với sự phập phồng lo sợ trong thâm tâm, hai vợ chồng thúc ngựa tới khu vực sát cận chân núi Thất Chỉ.

Trước một túp lều nhỏ bên đường, có hai con ngựa tốt buộc vào gốc cây dương liễu. Mã Hóa Long ra hiệu dừng ngựa đặt thiếu niên nằm phục trên yên, trao cương cho vợ vừa từ từ nhảy xuống đất, nhẹ nhàng đi lại túp lều. Ở trong lều có hai đại hán mặc võ phục toàn đen đương cùng nhau đối ẩm, vừa ăn uống thô tục vừa nói chuyện, tiếng nói oang oang :

- Hôm nay đến phiên chúng ta canh gác ở đầu đường này. Lệnh trên thì bảo đuổi dân cư đi, nhưng đại ca bảo có mật lệnh thịt hết không để một người nào, một con vật sống nào thoát ra ngoài báo tin. Dọa nạt cho chúng sợ phải rời bỏ đi. Nhưng đại ca đã cho người mai phục ở ngoài đây hàng trăm dặm, kẻ nào muốn mang tin Vạn Diệu sơn trang thoát ra ngoài đều bị tàn sát hết! Bây giờ đã được gần tháng rồi, vùng này đã biến thành hoang địa, nhiệm vụ đã làm xong từ lâu sao đại ca chưa có lệnh rút chúng ta về?

- Lâm huynh quên rằng còn có những người ở nơi khác tìm đến Vạn Diệu sơn trang, chúng ta có lệnh giết cả sao?

- Như vậy chúng ta phải canh gác nơi hoang địa này suốt đời à. Thật là buồn bỏ mẹ! Đã nửa tháng nay không gặp một bóng người nào. Tôi đã bảo Trần huynh giữ lại con bé nhà họ Đào làm thú tiêu khiển, có phải nhưng lúc buồn bã vắng vẻ như lúc này dễ chịu hơn không?

- Anh nói mà không biết nghĩ. Ngộ nhỡ đại ca biết chúng ta ra lệnh thì hai cái đầu đâu còn trên cổ này nữa.

- Ta tìm nơi kín đáo giấu chứ!

- Thì nào chúng mình có ai biết phải ở cái xóm thổ tả này lâu đâu. Tôi mong được trở về và công tác tại đồng bằng quá!

- Thôi đừng buồn phiền, rượu còn nhiều. Ông bạn uống thêm đi!

Nhắc lại Mã Hóa Long trong khi đến gần túp lều, bất chợt một âm thanh dịu dàng như có người vô hình đứng sau nói nhỏ bên tai :

- Sao Trấn Vệ tướng quân lại tự hủy mình như thế?

Mã Hóa Long mở mắt nhìn quanh thì thấy có một ông cụ già, râu tóc trắng bạc như tuyết, vẻ mặt uy nghiêm, thần thái tiên phong đạo cốt.

Ông cụ mặc đạo bào màu trắng, tay chống gậy trúc dài, lưng đeo giỏ thuốc lớn của người sơn thượng, đứng nhìn mình không chớp mắt. Nhãn quang của ông cụ phát ra oai lực hàng long phục hổ. Mã Hóa Long lớ ngớ chẳng biết nói năng ra sao. Ông cụ chỉ sẽ giơ đầu gậy gạt vào đầu lưỡi kiếm của Mã Hóa Long. Tức thời thanh trường kiếm rời khỏi tay người võ tướng sẹo mặt rồi rớt xuống đất kêu đến keng một tiếng.

- Lúc nãy tướng quân nói “Lý đại soái”, có phải là muốn nói tới “Lý Lăng vương” đã từng cầm quân Tống đánh bại giặc Liêu không? Tướng quân tự xưng là Trấn Vệ tướng quân, có phải người là Trấn Vệ Kỵ Đô Mã Hóa Long dưới trướng Lý Lăng vương không?

Ông cụ chậm rãi hỏi như vậy.

Mã Hóa Long quỳ xuống đáp rằng :

- Kính thưa lão trượng, tiểu sinh chính là Mã Hóa Long. Mười bảy năm trước đây đã từng hầu hạ dưới trướng của Lý Lăng vương. Nhưng từ ngày toàn gia Lý đại soái bị gian thần sát hại, tiểu sinh mang công tử đi trốn vào rừng núi. Cũng định nuôi nấng cho khôn lớn để mong có ngày minh oan cùng triều đình, trả mối hận thù, tiêu diệt lũ gian thần. Nhưng chưa giúp tiểu công tử thành toàn được di ngôn của chủ soái và chủ mẫu thì tiểu sinh đã lỡ tay làm tiểu công tử thọ thương đến chết mất rồi.

Ông già cầm gậy trúc chỉ vào thiếu niên đương nắm sóng sượt gần đó hỏi rằng :

- Cậu trẻ tuổi kia là con của Lý Lăng vương chăng? Có gì minh chứng?

Mã Hóa Long đứng dậy, lấy trong bọc một chiếc nhẫn và một tấm áo lụa trẻ nít mặt trên có viết hàng chữ máu, có đóng dấu son đỏ và nói rằng :

- Đây là chiếc áo tiểu công tử mặc khi tiểu sinh ẵm đi tỵ nạn. Còn đây là chiếc nhẫn ngọc có khắc triện của Lý tướng quân. Tiểu sinh định mang tiểu công tử đến đây định nhờ Lão Thần Y chữa trị nhưng mà không ngờ Vạn Diệu sơn trang đã bị đốt phá tiêu tan nên tiểu sinh thất vọng chẳng muốn sống nữa! Sau khi tiểu sinh chết xin lão tiền bối đã biết hết căn nguyên câu chuyện, giữ hộ những kỷ vật này, nếu có thể xin đưa tới tay, một người tên là Nam Bình hầu Vương Thế Cát...

Ông cụ già cầm lấy chiếc nhẫn và cái áo lụa xem xét giây lâu, lẳng lặng đi tới cạnh thiếu niên. Cụ để giỏ thuốc xuống đất và quỳ xuống xem mạch, đặt tay lên ngực thiếu niên... Mã Hóa Long cũng chạy lại đứng gần lão trượng. Cụ vạch mí mắt thiếu niên, cởi bỏ lần áo ngoài, xem xét kỹ càng vết thương rồi nói rằng :

- Cậu trẻ tuổi này đích thị là con Lý Lăng vương. Y mắc phải chất độc Huyết Ma dị thảo. Không chết còn sống được đến bây giờ thực là một sự khác thường! Y chỉ ngất đi, chưa chết!

Ông ta nói tiếp :

- Ta là bạn của Thánh Thủ Thần Y. Để ta chữa chạy cho y mà cả cho ngươi nữa.

Mã Hóa Long giật mình kinh sợ nói rằng :

- Tiểu công tử bị thương, mắc độc. Chứ còn tôi thì khỏe mạnh như thường có làm sao đâu?

Ông lão không trả lời, đi lại lẳng thuốc, lấy ra một cái bình bằng bạch ngọc. Rồi lựa chọn một củ rễ cây màu trắng trông giống như một chi nhân sâm còn tươi. Ông ta cậy răng thiếu niên, vắt chất nhựa chảy nhỏ giọt vô miệng. Một mùi thơm lạ xông lên. Sau đó ông lấy tay vứt bỏ chỗ thuốc đắp trên vai và dùng nước trong bình ngọc rửa sạch vết thương. Nước trong bình chảy ra màu trắng như sữa làm mùi hôi tanh bay đi mất. Ông lấy bã rễ cây đắp vào vết thương rồi xé áo, lấy vải buộc chặt lại.

Kế đó, ông bắt Mã Hóa Long xòe hai bàn tay ra, trút đổ nước sữa trong bình vô rồi bảo Mã Hóa Long xoa hai bàn tay với nhau. Viên võ tướng mặt sẹo cảm thấy nước trong bình chạm vào da thịt lạnh mát như băng tuyết. Sau đó một luồng hơi nóng ngấm vào các châu thân xông lên tới ót và truyền qua các kinh mạch trong người. Từ các lỗ chân lông trên bàn tay đã tiết ra đầm đìa những giọt nước đen như mực.

Ông lão bảo lấy nước rửa sạch chất dơ đi và nói rằng :

- Tướng quân đã bọ nhiễm độc vì đã dùng tay nắm lấy chuôi thanh độc kiếm kia!

Lúc đó chàng thiếu niên cũng đã hồ tỉnh ngơ ngác nhìn quanh và hỏi rằng :

- Mẹ tôi đâu?

Mã Hóa Long nhớ tới vợ mình, liền chạy ra nâng đỡ người đàn bà lay gọi cho tỉnh lại :

- Lan nương! Lan nương! Mau tỉnh lại!

Người vợ, hai hàng nước mắt đầm đìa trên gò má, than vãn như nói thầm trong mơ :

- Trời ơi! Chồng tôi, con tôi đều chết cả thì tôi sống làm gì nữa?

Mã Hóa Long nói rằng :

- Tỉnh lại! Tỉnh lại! Tiểu công tử đã có người cứu rồi, mình tỉnh dậy mà xem!

Vương Ngọc Lan phu nhân vội đứng dậy, lảo đảo chạy lại phía thiếu niên, thấy chàng còn sống, xiết bao mừng rỡ, bà ta ôm choàng lấy đứa con yêu quý. Sau đó bà ta sụp lạy ông già mà rằng :

- Cám ơn lão trượng gia ân tái sinh cho lũ chúng tôi! Cụ có phải là Thánh Thủ Lão Thần Y không?

Ông cụ đỡ Vương Ngọc Lan đứng dậy và đáp rằng :

- Ta chỉ là bạn Lão Thần Y. Có phải phu nhân đã đắp lá thuốc lên chỗ vết thương của lệnh công tử đây không? Ta khen phu nhân cũng giỏi nghề thuốc lắm đấy! Nếu không có phu nhân tận lực chăm sóc thì tiểu tử này chẳng thể còn sống tới ngày nay!

Ông lão bỗng lắng tai nghe. Mọi người không thấy động tĩnh gì cả. Ông lão nói :

- Có nhiều người sắp tới đây! Chỗ này chẳng phải là chỗ chúng ta ở lâu đặng. Tướng quân và phu nhân hãy lo vực công tử lên ngựa, dắt theo cả bốn con ngựa kia, rồi sẵn sàng chờ ta. Ta còn chút việc phải làm cho xong đã.

Nói rồi ông già tay xách lẵng thuốc, tay chống gậy trúc lướt mình như bay tới hốc đá gần đó. Ông thò gậy trúc vào trong khoắng mạnh rồi lấy ra một hộp gỗ sơn đen hình chữ nhật, trông giống như một tráp thuốc của mọi thầy lang. Thật không ai ngờ trong hốc đá nhỏ lại dấu một vật như vậy. Và cũng không ai biết ông già dùng thủ pháp gì, cầm cây gậy trúc không có móc câu ở đầu mà lại kéo được cái hộp ra khỏi hốc đá sâu. Kế đó ông mở hộp gỗ, cầm lấy tờ giấy gấp tư để ở trong hộp ra xem. Ông lẩm bẩm đọc, đầu khẽ gật không nói năng gì. Sẵn trong hộp có giấy, có bút, có mực, ông viết một phong thư bỏ vào trong hốc đá rồi lấy ra một viên đá đậy lên che kín miệng lỗ như cũ.

Sau đó ông tiến lại gần một tảng đá lớn, nặng kể vạn cân ở gần đấy, ông chuyển thần lực lật đẩy tảng đá ngửa lên trên rồi xòe bàn tay phóng ra một đạo thanh quang xanh lè như một ngọn lửa ma, quét vòng tròn lên bề mặt đáy tảng đá. Ông đổ tất cả những cành lá, rễ cây rừng trong lẵng thuốc vào lỗ trũng. Tảng đá được lật lại ở tư thế cũ.

Thiệt không ai ngờ trong lòng dưới đáy tảng đá, ông cụ già đã giấu một kho tàng cây thuốc quý! Ông nhặt bình ngọc, cái tráp gỗ cả thanh độc kiếm bỏ vào lẵng mây rỗng đeo lên vai rời khỏi Vạn Diệu sơn trang.

Cả đoàn bốn người biến dạng vào rừng sâu, vượt ra ngoài rặng Thất Chỉ sơn.