Khánh Hi Kỷ Sự

Chương 21: 21 Hoàng Hậu Vương Thị

Trận hỏa hoạn ở ngõ Lan Đình hôm mười sáu tháng Giêng đã ầm ĩ đến mức khiến kinh sư không yên, triều đình chấn động.

Tạm chưa nói đến không dưới trăm người bị bỏng, bị giẫm đạp, trong hơn ba mươi người chết còn có một vị chủ sự chính lục phẩm của bộ hộ bị thương nặng không chữa khỏi, hôm sau đã tắt thở.

Sau nỗi kinh hãi, hoàng đế hết sức nghi hoặc: “Mệnh quan triều đình lưu luyến câu lan[1] đến nỗi bỏ mạng là cớ làm sao? Thanh sắc[2] thế nào mà làm ông ta không màng kỷ cương triều đình, không màng mặt mũi của mình, không màng tiền đồ, tính mạng của mình? Người như vậy chết lại hay, trẫm đỡ phải tự mình khai đao với ông ta”.

La Tấn chỉ sợ bị liên lụy vào trong nên thấp thỏm lo âu, ống tay áo không ngừng run rẩy.

Khương Phóng thì ngậm chặt miệng, sắc mặt cũng rất khó coi.

Thành Thân vương vừa định mở miệng, hoàng đế đã nhìn y nói: “Không cần nói nữa.

Có biết kẻ gây chuyện là ai không? Ty binh mã ngũ thành vẫn chưa tìm bắt được à?”.

“Vâng”.

Đề đốc binh mã ngũ thành Viên Tấn cúi đầu lĩnh mệnh: “Mặc dù chưa bắt được kẻ gây chuyện, nhưng đám cháy xảy ra trước cửa viện Tê Hà, ngõ Lan Đình, chắc chắn là có dính dáng đến kẻ gây ra họa nên thần đã tìm bắt thẩm vấn…”.

“Được rồi!” Hoàng đế cảm thấy nói tiếp thì thực sự làm nhục sự văn nhã của triều đình, không nhịn được quát ngừng lại: “Khanh mau mau đi làm là được”.

Hôm nay vốn muốn sắp xếp các chuyện lớn ở kinh doanh nên từ sáng sớm hoàng đế đã vui sướng hưng phấn, ngờ đâu lại bị một vụ án ở ngõ Lan Đình quấy rối tình hình, lúc này trông Viên Tấn lui ra ngoài thì vô cùng mất hứng.

Lưu Viễn nói: “Hoàng thượng bớt giận.

Hôm nay nội các đều tại đây, ắt hẳn vạn tuế gia có dụ thị quan trọng hơn…”.

“Đúng thế”.

Hoàng đế bảo: “Thiết lập lại kinh doanh ở cửa khẩu Tiểu Hợp, đến nay vẫn chưa có thống soái, trẫm muốn lệnh cho thống lĩnh thị vệ Hạ Dã Niên làm tổng đốc nhung chính của kinh doanh.

Các vị ái khanh có ý kiến khác không?”.

Mọi người đều biết Hạ Dã Niên không được hoàng đế tin tưởng, chẳng biết tại sao hôm nay lại muốn giao bốn vạn tinh binh cho gã.

Mọi người hết sức bất ngờ, bỗng chốc nhìn nhau, không biết ý của hoàng đế nên không chịu nói trước.

Chỉ có Lưu Viễn đáp: “Hạ Dã Niên đã trải qua cả trăm trận chiến, trung thành, tận tâm, nhiều năm qua bảo vệ thánh giá, không có sơ hở.

Thần thấy rất thỏa đáng”.

Hoàng đế vui vẻ bảo: “Vậy là tốt rồi.

Có điều năm ngoái Hạ khanh thường xuyên mang bệnh, trẫm rất lo lắng.

Hạ khanh là bề tôi đắc lực, trẫm không đành lòng ép chịu đựng gánh nặng việc quân.

Khương Phóng, khanh và Hạ khanh cùng dẫn dắt thị vệ và cấm quân hai cung nhiều năm, hòa thuận với nhau.

Trẫm muốn lệnh cho khanh cùng nhau giải quyết việc phòng thủ kinh doanh, ý khanh thế nào?”.

Khương Phóng trầy trật đứng lên đáp: “Thần xuất thân thấp hèn, không có tài lớn có thể gánh được trọng trách, tất nhiên sẽ đền đáp đến thịt nát xương tan”.

“Tốt”.

Hoàng đế mỉm cười gật đầu.

Khương Phóng nói tiếp: “Chỉ là chức vụ thủ vệ hai cung nặng nề, sau khi hai người chúng thần dời đi thì ai sẽ kế nhiệm ạ?”.

Lưu Viễn đã lắc đầu tâu: “Hoàng thượng, chức vụ thị vệ liên quan đến an nguy của thánh thượng, không được có sơ xuất.

Hạ Dã Niên và Khương Phóng dời đi đồng thời hết sức không ổn”.

Hoàng đế nhíu mày: “Khương khanh, đành để khanh vất vả, tạm thời giữ chức thống lĩnh thị vệ và cấm quân hai cung, kiêm việc của kinh doanh.

Thế nào?”.

La Tấn nhìn thấu đầu mối, vội nói: “Đúng vậy, hoàng thượng thánh minh, như vậy vô cùng thỏa đáng”.

Hoàng đế bèn bảo: “Tốt, vậy thì nội các soạn chỉ đi”.

Khương Phóng vẫn không thức thời tranh nói một câu: “Hoàng thượng, trong kinh doanh có rất nhiều quan quân tỉnh ngoài, thần và Hạ thống lĩnh đều xa lạ, có thể điều động một nhóm thị vệ thâm niên trong cung, dùng để truyền đạt quân lệnh, kiểm tra quân kỷ không ạ?”

Hoàng đế nói: “Cho phép thỉnh cầu của khanh”.

Lúc bấy Ông Trực cũng đã nhận ra, bèn hỏi: “Trước nay việc thống lĩnh kinh doanh do tổng đốc, việc giám sát thì do nội thần.

Lần này thiết lập lại kinh doanh, có làm theo chế độ cũ, để nội thần giám quân không ạ?”.

La Tấn cũng nói: “Kinh doanh hộ tống thánh giá, bên trong thì phòng giữ kinh sư, ở bên ngoài thì theo giá đi chinh phạt.

Nếu kinh doanh chuyển quân ra ngoài, an nguy của hoàng thượng tất gắn liền với quân đội, chức giám quân không thể coi thường, nên để nội thần thân tín nhất bên cạnh thánh thượng đảm đương”.

Hoàng đế vui mừng, hiếm khi mỉm cười với La Tấn: “Lời ấy của khanh có lý.

Tịch Tà…”.

Hắn quay đầu hỏi thiếu niên trong góc: “Khanh có bằng lòng giám quân kinh doanh vì trẫm không?”.

Tịch Tà cười đáp: “Bẩm hoàng thượng, nô tỳ trẻ người non dạ, không biết giám quân là việc thế nào”.

Hoàng đế nói: “Khanh có thể làm được việc gì chứ? Chỉ bảo khanh làm chân chạy truyền tin tức thôi, đỡ khỏi lúc nào cũng ở trước mặt trẫm đến ngán ngẩm”.

“Đã như thế, nô tỳ xin tuân thánh chỉ”.

Mọi người đều thở một hơi nặng nề.

Việc canh phòng hai cung được giao vào tay Khương Phóng một cách danh chính ngôn thuận.

Hạ Dã Niên thì bị hoàng đế đuổi ra khỏi cung thành một cách quang vinh, rõ ràng là tổng đốc kinh doanh, thực tế lại bị Khương Phóng và Tịch Tà tước mất quyền lực thành chức danh giả.

Đến khi giao cho nội các danh sách thị vệ được điều phái tới kinh doanh thì ý của hoàng đế càng là tỏ tường.

Những thị vệ phụng chỉ dời đi đều là thuộc hạ cũ và tâm phúc nhiều năm của Hạ Dã Niên, bây giờ cuối cùng cung Thanh Hòa này cũng đã trở thành cung đình của mình hoàng đế.

Thế lực của hai phái thái hậu phiên vương xuyên từ ngoài cung vào thẳng cung Càn Thanh như lưỡi dao sắc bén bị một lần hành động quét sạch.

So với mấy trăm quan tướng mà hoàng đế đặc cách cất nhắc trong kinh doanh mà nói thì ba mươi lăm thị vệ này chẳng qua chỉ là một tốp nho nhỏ, không đáng trọng dụng, sẽ lặng lẽ im ắng trong quân doanh ấy.

Vì thế tâm trạng của hoàng đế đã tốt hơn, giữ Thành Thân vương lại vườn Tử Nam cưỡi ngựa bắn cung.

Thành Thân vương thấy Tịch Tà không ở gần nên chẳng có hứng thú gì, qua quýt nửa ngày mới xin cáo lui về phủ.

Lúc cưỡi ngựa đi trên đường lớn Chu Tước, y thấy nghi trượng của đề đốc binh mã ngũ thàng nép cờ xuống định tránh ra thì vội sai người cưỡi ngựa mời Viên Tấn đến.

“Miễn lễ, miễn lễ”.

Thành Thân vương thấy hắn ta muốn nhảy xuống ngựa hành lễ thì mau chóng thúc ngựa lên kéo lại.

Hai người đi song song, Thành Thân vương dần nhắc đến viện Tê Hà.

Viên Tấn cười nói: “Vương gia nói muộn quá.

Chiều nay đã phóng thích rồi ạ”.

“Đã thả ra rồi ư?” Thành Thân vương ngẩn ra: “Vì sao?”

Vẻ mặt Viên Tấn có chút xấu hổ: “Vương gia cũng nói đám cháy ở ngõ Lan Đình vốn không liên can đến viện Tê Hà, đã như vậy thì cần gì tạm giữ những người phụ nữ này ở trong nha môn chịu tội chứ?”.

Thành Thân vương lập tức cười bảo: “Đúng vậy.

Thế đã tóm được nghi phạm chưa?”.

“Sau buổi trưa, Tịch Tà trong phòng sách có đến một chuyến, đã chỉ cho thần một câu: Nếu vô ý gây cháy thì tất nhiên không có nghi phạm, làm ầm ĩ khiến kinh sư không yên, hoàng thượng cũng chẳng vui vẻ gì đâu”.

“Đúng vậy”.

Thành Thân vương gật đầu cảm thán: “Hắn là người hiểu lòng dạ hoàng thượng.

Vì chuyện này mà hắn cố ý chạy ra khỏi cung à?”.

“Chắc là thế ạ”.

Viên Tấn cười, lên tiếng chào cáo từ.

Thành Thân vương rung động trong lòng, trở về phủ bèn gọi Triệu sư gia tâm phúc nhất tới, sai gã tự mình đến viện Tê Hà một chuyến, dò la xem Tịch Tà thường lui tới với ai, đối tốt với cô nương nào nhất trong viện Tê Hà các loại.

Tê Hà không dám coi thường việc này, vẫn bảo Khương Phóng báo cho Tịch Tà biết.

Tịch Tà cau mày hỏi: “Có ý gì?”.

Khương Phóng cười đáp: “Thành Thân vương cho rằng chắc chắn gia cố ý chạy đến ty binh mã ngũ thành nói giúp là vì cô nương nào đó.

Y không phải là một kẻ an phận, đã muốn lôi kéo gia từ lâu nên mới hỏi thăm rõ ràng để sau này dễ bề tính toán gì đó đây mà”.

“Khiến y nhọc lòng rồi”.

Tịch Tà không khỏi cười nói: “Một cô Hải Lâm mà thôi, y thích làm gì thì làm”.

“Vâng, tôi sẽ nói với Tê Hà”.

Khương Phóng đáp, lại dâng quân sách tới kinh doanh: “Hiện nay võ quan phụng lệnh điều vào kinh đã gần như đến đông đủ cả rồi, thẩm tra đối chiếu với thủ lệnh của bộ binh đều không sai”.

“Hạ Dã Niên thì sao?” Tịch Tà hỏi: “Không gây phiền phức à?”.

“Gã rất khôn khéo, nhận việc xong vẫn ở nhà dưỡng bệnh”.

Tịch Tà lật từng tờ quân sách ra xem, đột nhiên ngửa mặt cất tiếng cười to.

Khương Phóng ngạc nhiên hỏi: “Gia cười gì thế?”.

Tịch Tà đáp: “Cười tôi tự cao thông minh, chỉ nói hắn bịa ra một cái tên, không ngờ xem kỹ trên quân sách lại có người như vậy thật.

Thảo nào nhiều tai mắt trong kinh như vậy mà tìm suốt hai ba ngày vẫn không thấy hắn, thì ra đúng là trốn trong kinh doanh”.

Khương Phóng nhìn lên hướng tay hắn chỉ, thấy dưới hai chữ “Lê Xán” ngay ngắn, có người ký lên rồng bay phượng múa, không khỏi cười to: “Chẳng lẽ là cùng một người?”.

“Xem chữ này ngang ngược đến thế đã biết là không tệ rồi”.

Hôm sau, Tịch Tà vâng lệnh vua đến kinh doanh tuần sát, gặp Khương Phóng lúc sáng sớm rồi ra khỏi thành từ cửa Phủ Dân, chạy băng băng tiếp bốn mươi dặm thì tới cửa khẩu Tiểu Hợp.

Doanh trại quân đội dựa vào núi non, khe suối chảy quanh, xây công sự[3] từ đá, đông tây đều có cửa thành xây bằng gạch, nam bắc thông dòng, bốn góc đều có lầu quan sát và lỗ châu mai.

Khương Phóng sai người cầm cờ lệnh đi đầu, hô mở cửa thành.

Quan tọa doanh đi ra cúi người dẫn vào, tất cả đều ghìm ngựa chậm lại, tới trước nha môn trung quân thì xuống ngựa, Khương Phóng và Tịch Tà nghỉ ngơi ở hậu đường.

Tịch Tà ngồi đối diện quan tọa doanh, nói: “Phiền tướng quân mời du kích Ngô châu là Lê Xán tới hậu đường nói chuyện”.

Khương Phóng lắc đầu cười gượng: “Công công lại định xử trí hắn ta thế nào?”.

“Xử trí?” Tịch Tà cười nói: “Đại tướng như thế, cầu còn chẳng được, sao lại nhắc đến hai chữ “xử trí”?”.

Ngoài cửa vang lên tiếng bước chân nhỏ nhẹ, có người báo danh: “Mạt tướng Lê Xán cầu kiến giám quân đại nhân”.

Tịch Tà bảo Khương Phóng tránh đi rồi nói: “Mời”.

“Thuộc hạ Lê Xán xin vấn an giám quân đại nhân”.

Thanh niên cao to tiêu sái tiến đến ôm quyền thi lễ, giữa chân mày đen nhánh lại là vẻ đoan chính trang nghiêm vô tội.

Khóe miệng Tịch Tà đã cong lên, không khỏi khen ngợi sự trấn định can đảm và vô liêm sỉ của hắn ta.

“Nô tỳ là một kẻ hèn mọn trong cung, tướng quân không cần khách sáo”.

Tịch Tà khom người: “Mời ngồi”.

“Dạ”.

Lê Xán cung kính ngồi ở bên cạnh Tịch Tà, hỏi: “Giám quân đại nhân gọi mạt tướng đến, có gì dạy bảo ạ?”.

“Nào có điều gì dạy bảo chứ? Người tập võ chỉ coi so tài mài giũa là chuyện vui”.

Tịch Tà cười nói: “Ngày đó hai ta còn chưa phân thắng bại, hôm nay phân cao thấp được chứ?”.

Lê Xán thấy hắn nói thẳng một cách sảng khoái thì lại hơi kinh ngạc, ngẫm nghĩ một lát mới thở dài nói: “Tôi hiểu ý công công.

Nhưng tôi đã thay hồn đổi xác rồi, sau này cam nguyện nghe công công sai khiến, xin công công nương tay”.

Tịch Tà lấy làm lạ, hỏi: “Anh thân là mệnh quan triều đình lại ám sát nội thần tâm phúc của hoàng thượng.

Sự tình đã bại lộ, ắt bị tội chết, dựa vào đâu mà cò kè bớt một thêm hai?”.

“Không đúng”.

Lê Xán sát lại gần: “Chuyện ấy là vì công công lạm sát hòa thượng Văn Thiện mà ra, nói gì mà phụng mệnh vua trừ gian, công công coi tôi là trẻ con à?”.

Tịch Tà cười: “Nói đến đây, hai ta lại là kẻ cùng hội cùng thuyền đấy.

Dù tôi không giết ông ta diệt khẩu thì sau đó anh cũng sẽ không bỏ qua cho ông ta.

Dù sao thì anh cũng là người ngồi ngôi cửu ngũ trong pháp nhãn của Văn Thiện.

Nếu không ngu ngốc thì sẽ biết lấy việc này ra uy hiếp không có tác dụng gì”.

“Vâng vâng vâng”.

Lê Xán gật đầu lia lịa nói: “Ngài nói đúng.

Vả lại bây giờ tôi nằm trong lòng bàn tay của ngài, chỉ cần ở trong kinh doanh này thì ngài sẽ có cả nghìn cách lấy mạng của tôi”.

Đầu lông mày Tịch Tà cau lại, bảo: “Anh viết trong lý lịch là phụ mẫu đều mất, tứ cố vô thân, cũng chẳng có nỗi lo về sau, với bản lĩnh của anh, chạy khỏi kinh thành dễ như trở bàn tay, cần gì ở lại trong kinh doanh không rời?”.

Lê Xán cất cao giọng nói: “Tại hạ là mệnh quan triều đình, chịu ơn vua, sao dám không dốc hết sức đền đáp hoàng thượng? Sao có thể vì thù oán riêng với công công mà…”.

“Ha ha”.

Tịch Tà đang yên lặng uống trà, đột nhiên bật cười, lập tức cắt ngang lời phân trần sục sôi của hắn ta.

Lê Xán hỏi: “Công công?”.

Tịch Tà nhìn chằm chằm vào trong sắc trà màu xanh biếc, phản chiếu ánh sáng dập dềnh lên mặt hắn, ớn lạnh bức người, ánh mắt mỉm cười tức thì chuyển thành lạnh lẽo.

Lần đầu tiên Lê Xán không tự chủ được phải né tránh ánh mắt.

“Có chuyện nhất định phải làm ở trong kinh à?”

“Không có!” Lê Xán biến sắc, thấp giọng nói.

“Không có thì tốt”.

Hình như Tịch Tà cũng thở phào nhẹ nhõm, đoạn cười nói: “Tôi chỉ thấy lạ, sao người như anh lại cúi đầu xin tôi khoan dung.

Vừa mới nói cái gì ấy nhỉ? Anh nguyện để tôi sai khiến ư?”.

“Hay là thôi vậy”.

Lê Xán cười gượng nói: “Tôi không lừa bịp người như ngài được.

Nếu ngài muốn giết tôi thì cứ ra tay, tôi chờ là được.

Tội gì để ngài thao túng trong tay, sau này chết không minh bạch”.

“Được! Cũng coi như anh có chút can đảm”.

Tịch Tà vỗ tay cười, giọng điệu đoan chính, lại nói: “Tướng quân lo lắng chuyện không đâu rồi.

Hôm nay mời tướng quân tới, nguyên là vì nô tỳ đã bẩm với Khương thống lĩnh phép dùng giáo của Lê tướng quân xuất chúng, trong nước chưa gặp được địch thủ.

Sau khi bàn với Khương thống lĩnh, cảm thấy nếu tướng sĩ kinh doanh được tướng quân chỉ dạy huấn luyện phép dùng giáo thì quả là thượng sách.

Ý tướng quân thế nào?”.

Dường như thanh niên sát khí ngút trời trong hội đèn Nguyên tiêu hoàn toàn không có can hệ với hắn vậy.

Vẻ mặt Lê Xán vẫn như thường, giọng nói kiêu ngạo, mỉm cười lĩnh mệnh: “Vâng mệnh trước quân, nào dám không theo?”.

Tịch Tà gật đầu không nói.

Lê Xán đã lui về trong doanh trại, quả nhiên nhận được thủ lệnh sai hắn ta dạy dùng giáo gậy trong kinh doanh.

Thao luyện trong kinh doanh hết sức sít sao.

Khương Phóng phải bôn ba giữa Ly đô và cửa khẩu Tiểu Hợp, tuy là khổ cực nhưng không dám thả lỏng một ngày.

Tịch Tà hầu giá trong thư phòng, chỉ thỉnh thoảng tuần sát một lần, không để ý tới Lê Xán nữa.

Ngày mùng một tháng hai năm Khánh Hi thứ mười ba, công chúa Cảnh Ưu khởi hành hòa thân đến Đại Lý.

Tinh mơ, công chúa đã vận lễ phục từ biệt điện Phụng Tiên rồi lại tới cung Càn Thanh thăm thái hậu, thái phi, đế, hậu.

Mặt mày công chúa lạnh lùng, mặc cho Dương thái phi khóc nức nở ôm nàng vào trong lòng cũng không rơi lấy một giọt nước mắt.

Hoàng đế biết nàng khổ sở, trong chốc lát không biết nên nói gì.

Thái hậu chỉ bảo: “Con đến Đại Lý, phải hòa thuận tôn kính, sớm đêm cần cù”.

Công chúa Cảnh Ưu cúi đầu nghe dạy, đáp: “Dạ” rồi lại lạy bốn lạy, đứng dậy lui tới cửa, đột nhiên hất tay của nội mệnh phụ ra: “Hoàng thượng! Xin đừng nuốt lời đã hứa với thần”.

Nàng ngẩng đầu, mắt ngấn lệ kêu lên.

Sao có thể không giết kẻ tự tiện xông vào cung tấm, lén gặp công chúa được? Hoàng đế nghĩ tới đây vẫn cực kỳ giận dữ.

Công chúa Cảnh Ưu thấy hoàng đế không lên tiếng thì nhào xuống dưới chân hắn ta, khóc không ra tiếng: “Nếu như hoàng thượng đổi ý, thần không xuất giá nữa”.

“Nói bậy”.

Hoàng đế nâng nàng đứng lên, mỉm cười hỏi: “Ai bảo trẫm đổi ý? Yên tâm đi đi”.

Hoàng hậu bỗng nhiên đứng lên nói: “Để thần thiếp đưa tiễn”.

Đoạn hành lễ với thái hậu và hoàng đế rồi đỡ tay Cảnh Ưu, chậm rãi bước ra.

Hoàng đế đứng ở trước cửa điện, trông thấy công chúa Cảnh Ưu ôm hoàng hậu khóc một lát mới lên liễn đi mất, trong lòng càng sầu não lại hơi nghi hoặc, thấy hoàng hậu quay lại bèn hỏi: “Nàng nói gì với nó thế?”.

Hoàng hậu cười đáp: “Vừa nãy công chúa bảo thần thiếp, nếu hoàng thượng nuốt lời thì thần thiếp nhất định phải báo cho người biết ngay.

Thần thiếp đã nhận lời rồi”.

“Nàng lại thêm loạn cho trẫm đấy!” Hoàng đế hết sức oán hận phẫn nộ với nàng, chỉ nói một câu đã giận đến mức hét to.

Hoàng hậu kinh ngạc bảo: “Mặc dù thần thiếp không biết hoàng thượng và công chúa đã hứa hẹn gì, nhưng nếu là hoàng thượng chính miệng hứa thì dù thần thiếp có nhận lời cả ngàn vạn điều, cũng không sao đúng không ạ? Chỉ là để công chúa yên tâm mà thôi”.

Ngay trước mặt nhiều nô tài như vậy, hoàng đế không tiện tranh cãi với hoàng hậu, mới nén giận nói: “Cũng phải.

Công chúa xuất giá cách xa ngàn dặm thì có thể làm gì?”.

Hoàng hậu không nhịn được, tỏ vẻ giận dỗi lên mặt, thản nhiên nói: “Cũng phải.

Ngài ấy quý vì là hoàng hậu nước khác, muốn thế nào thì thế đó, hoàng thượng cũng chẳng quản được ngài ấy”.

Nàng nhìn sắc mặt hoàng đế từ đỏ bừng biến thành tái nhợt, không khỏi mỉm cười khoái trá.

Nhưng cánh tay nàng bị siết đến phát đau, thân thể bỗng nhẹ bẫng, bị hoàng đế kéo thẳng qua mấy ngưỡng cửa, quăng xuống nền đất của buồng lò sưởi.

“Trẫm nên phế nàng, phế nàng từ lâu rồi!” Tiếng gầm khẽ đè nén của hoàng đế không ngừng run rẩy tựa như một sợi dây đàn căng sắp đứt: “Trẫm còn muốn giữ lại mặt mũi cho mọi người mà nàng cứ ép trẫm? Nàng tàn nhẫn hạ độc thủ với cốt nhục của trẫm, còn muốn chia rẽ khiến công chúa đối nghịch với trẫm.

Nói gì mà quý vì là hoàng hậu, muốn thế nào thì thế đó, cái ý xấu này nàng tự mình giữ đi, còn muốn Cảnh Ưu tạo phản theo nàng à?”.

“Nếu hoàng thượng đã cho là vậy, chi bằng dứt khoát phế thần thiếp đi”.

Khi cơn choáng váng qua đi, hoàng hậu nhanh chóng đứng dậy, khẽ thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào ánh mắt của hoàng đế: “Chi bằng đuổi thần thiếp ra khỏi cung Khôn Ninh, cùng trị tội cả nhà thần thiếp”.

Nàng cười nói: “Hoàng thượng đang sợ cái gì, đang chờ cái gì chứ?”.

Hoàng đế chưa từng xung đột với ai như thế, ngây ra chốc lát mới trỏ vào mặt nàng, gằn giọng nói: “Nàng về cung Khôn Ninh của nàng đi! Nếu không nể mặt cha nàng thì lúc này trẫm đã bóp chết nàng rồi”.

“Hoàng thượng cho rằng lúc này thần thiếp vẫn còn màng đến sống chết nữa sao?” Hoàng hậu nói: “Vì sao thần thiếp phải gánh lấy thứ hư danh này, mỗi ngày hầu hạ trước mặt thái hậu, thái phi? Chẳng thà ở trong lãnh cung, đỡ phải chịu bao nhiêu tội? Chẳng thà để hoàng thượng bóp chết trong tay, đỡ phải chịu bao nhiêu cô quạng?”

“Nàng đang nói trẫm đúng không? Trẫm bạc đãi nàng chỗ nào? Ngang ngạnh quá thể!R ra ngoài!” Hoàng đế không thể nhịn được nữa, đưa tay tóm lấy cánh tay hoàng hậu, lại bị hoàng hậu cản lại.

“Thần thiếp tự đi ra ngoài”.

Hoàng hậu hết sức quật cường, lạnh lùng thốt lên.

Hoàng đế khiếp sợ hơn là phẫn nộ, trợn to hai mắt.

“Thế này đã làm hoàng thượng nhìn thẳng thần thiếp rồi ư?” Biểu cảm của hoàng hậu như thể không biết nên khóc hay cười: “Kể từ khi hoàng trưởng tử chết yểu, đây là lần đầu tiên hoàng thượng liếc mắt nhìn thiếp một cách chính thức đấy”.

Nàng khom người chào: “Thần thiếp cáo lui”.

“Chờ đã”.

Hoàng đế hỏi: “Có phải nàng cảm thấy hoàng trưởng tử chết yểu là lỗi của trẫm không?”.

“Chẳng lẽ là lỗi của thần thiếp?” Mắt hoàng hậu sáng quắc, hỏi ngược lại.

Chính là ánh mắt ấy! Hoàng đế bỗng nhiên cả kinh.

Đã né tránh nhiều năm như vậy, ánh mắt kia vẫn đâm đến khiến mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, hổ thẹn và bực bội đan xen vào nhau.

Hắn ta miễn cưỡng nói: “Đó là số trời, chẳng trách ai được”.

Hoàng hậu ngửa đầu cười khẩy một tiếng: “Hoàng thượng coi như Hoà thục nghi cũng thuận theo số trời đi, chẳng thể trách bất cứ ai được”.

“Đừng nhắc tới nàng ấy!” Tiếng nói thẹn quá hóa giận của hoàng đế nặng nề, phẫn nộ như sấm đánh nơi xa, chộp lấy vạt áo hoàng hậu, đẩy mạnh xuống giường: “Nàng còn mặt mũi nào nhắc tới nàng ấy ở trước mặt trẫm?”.

Tay nắm lấy cái eo thon của hoàng hậu, ký ức xa lạ khiến hoàng đế nhớ ra hắn ta đã từng ái mộ và lưu luyến người phụ nữ trước mắt đến nhường nào.

Khác với sự hầu hạ làm dáng của đám phi tần, hoàng hậu điềm tĩnh và thông tuệ.

Khi nàng mặc triều phục xuất hiện trên chỗ ngồi chính giữa cung Khôn Ninh, hắn ta luôn mê mệt trong vầng sáng thánh khiết của nàng.

“Tại sao lại biến thành như vậy chứ?” Hắn ta khẽ lắc đầu, cắn răng nghiến lợi nói: “Trước đây nàng không như thế”.

Quái gở xảo trá, ngay cả khóe miệng cười chúm chím đẹp đẽ cũng biến thành nụ cười nhạt xảo trá hung bạo.

Chẳng lẽ đó thật sự là cùng một người ư? Hoàng đế vừa đau lòng vừa căm hận: “Trẫm chưa từng hận một ai tới vậy”.

Hắn ta cực chẳng đã nói.

“Thần thiếp cũng thế”.

Mặt hoàng hậu hiện lên màu đỏ bệnh tật, con mắt hung ác quắp lấy sự hổ thẹn tận đáy lòng hoàng đế không buông.

Thù hận như sắp xé rách cổ họng của nàng, nàng nói với chất giọng khản đặc: “Con trai còn chưa kịp uống một ngụm sữa của ta, còn chưa kịp ôm một cái đã để thái hậu và hoàng thượng ôm đi, rồi lại chết không minh bạch như vậy, ngay cả một lần cuối cùng cũng không được gặp…”.

“Câm miệng!” Sự khó chịu cuồn cuộn trong lòng hoàng đế, hắn ta không nhịn được quát lên.

Hoàng hậu im lặng một lát, mới nhỏ giọng nói: “Rốt cuộc hoàng trưởng tử chết như thế nào, cầu xin hoàng thượng nói cho thần thiếp biết”.

“Trẫm cũng không biết, trẫm không chăm sóc tốt cho nó”.

Mặt hoàng đế đỏ lên, nói câu này xong thì đột nhiên cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.

Hoàng hậu hít một hơi sâu, thất vọng không lên tiếng.

Trong ánh mắt u oán, đau thương của nàng, dường như hoàng đế tìm được chút bóng dáng xưa kia.

Hắn ta đưa tay gạt đi nước mắt trên mặt nàng, cảm nhận được cơ thể ấm áp mềm mại, hơi thở của hắn ta chợt bắt đầu gấp gáp.

Sắc mặt hoàng hậu tái đi, chợt cong người giãy dụa.

Hoàng đế xoay tay hất cái bàn trên giường xuống đất, tóm lấy người nàng: “Trẫm nói như vậy, nàng đã vừa lòng chưa? Đã hả giận chưa? Chúng ta đã huề nhau rồi, từ nay về sau, trẫm không tội gì phải tránh nàng nữa.

Tránh nhiều năm như vậy vẫn không tránh thoát”.

“Tại sao phải tránh chứ?” Hoàng hậu cười khẩy: “Cho dù thần thiếp chết trong tay hoàng thượng thì cũng bằng lòng đấy…”.

Vậy thì chết đi! Hoàng đế không nhịn được nghĩ như vậy trong lòng.

Cho dù là sau bảy năm qua đi mới lại có được người phụ nữ này, cho dù lại phát hiện ra vẻ mỹ lệ lạ thường và tình cảm sâu nặng của nàng thì nỗi thù hận của hắn ta vẫn không hề vơi bớt mảy may.

Tựa như muốn nuốt chửng đối phương, đế hậu giương cung bạt kiếm khiêu khích lẫn nhau, ánh mắt hung ác lưu luyến chuyển động trên mặt đối phương, từ đầu đến cuối đều không hề rên rỉ trong lúc thở dốc nặng nề.

Cuối cùng hoàng đế mới bình tĩnh và tỉnh táo lại, phát hiện hoàng hậu đã cắn rách môi, đỏ thẫm như son.

Hắn ta cúi đầu xuống, mút lấy giọt máu diễm lệ.

“Hừ!” Hắn ta bị đau, phải nâng người lên, ôm cánh môi bị hoàng hậu cắn trúng, khoái trá cười gằn: “Lá gan không nhỏ”.

Hoàng hậu nhanh chóng che lại đôi chân dài trần trụi, khoác quần áo rồi lảo đảo đi tới bên cửa, run rẩy dùng trâm vàng búi lại mái tóc dài tán loạn lên rồi mới bình tĩnh nói: “Thần thiếp xin cáo lui”.

Nàng vẫn lẳng lặng cúi chào, sau đó xoay người bước ra khỏi cửa.

Hoàng đế phục hồi tinh thần lại từ cơn mệt nhọc trong chớp mắt, chỉ cảm thấy cơn buồn nôn co quắp ở dạ dày, đưa tay phất châu ngọc trên giường xuống đất rồi gọi: “Cát Tường, Như Ý”.

Cát Tường vui tươi hớn hở tiến vào, nói: “Vạn tuế gia, Như Ý vừa mới theo công chúa xuôi nam rồi”.

“Trẫm quên mất”.

Hoàng đế nói, mặc Cát Tường sửa sang xiêm áo cho mình: “Khương Phóng đã đến cửa khẩu Tiểu Hợp chưa?”.

“Vẫn chưa ạ”.

Cát Tường nói: “Đang dẫn các thị vệ phụng chỉ điều động chờ dập đầu tạ ơn ngoài cửa, sau đó mới cùng đi đấy ạ”.

Trong buồng lò sưởi còn thoang thoảng mùi hương nhạt chỉ có trên người hoàng hậu, hoàng đế không muốn nán lại thêm một khắc nào nữa, dùng khăn tay lau mặt và nói: “Trẫm vào thượng thư phòng.

Gọi đến đó đi”.

Ba mươi lăm thị vệ phụng lệnh điều đến kinh doanh quỳ chờ ở thượng thư phòng.

Hoàng đế ngồi xuống rồi khuyến khích, khuyên răn vài câu.

Cuối cùng hắn ta hỏi Hạ Thiên Khánh: “Vì sao anh trưởng của khanh chưa vào cung tạ ơn?”.

Hạ Thiên Khánh dập đầu tâu: “Mấy ngày gần đây anh cả thần ôm bệnh.

Anh nói với thần, trách nhiệm ở kinh doanh nặng nề, chỉ sợ khó có thể một mình gánh vác, vả lại bệnh cứ quấn thân, cho dù có lòng biết ơn báo đáp nhiều hơn nữa cũng không có cơ hội máu chảy đầu rơi vì hoàng thượng nữa”.

Hoàng đế cảm thán một tiếng: “Bảo thái y đến phủ của Hạ khanh khám đi, đợi thời tiết ấm áp trở lại thì bệnh gì cũng sẽ khỏe lại thôi”.

“Tạ chủ long ân”.

Tiếng Hạ Thiên Khánh nghẹn ngào khiến cho những người bị điều đi đều buồn bã, xót xa.

“Đi hết cả đi”.

Hoàng đế thấy trong đó còn có mấy cận thị trước kia, không nỡ nói gì nữa, phất tay cho họ lui ra rồi theo Khương Phóng đến kinh doanh nhậm chức.

Khương Phóng sai quan tướng tọa doanh ở cửa khẩu Tiểu Hợp ghi tên ba mươi lăm người này lên danh sách quân nhân, cuối cùng đến hôm nay, tất cả quan quân đều đã tới nhậm chức.

Lại làm một bản sao danh sách quân nhân rồi hạ lệnh cho Lê Xán chuyển tới bộ binh.

Lê Xán không phải người rảnh rang, nhận được công việc như thế thì khá bất ngờ.

Lúc hắn ta vào thành thì đã là buổi chiều, đưa danh sách quân nhân lên rồi chờ trả lời.

Tiểu lại[4] bên trong đi ra chào hỏi: “Thượng thư đại nhân nói, e là không thẩm tra đối chiếu xong ngay trong hôm nay được, mà ngày mai còn có nhiều công văn phải đưa tới cửa khẩu Tiểu Hợp.

Hay là tướng quân ngủ lại dịch quán rồi ngày mai cùng nhau mang về cửa khẩu Tiểu Hợp hộ”.

Việc ấy vừa hay đúng ý Lê Xán.

Hắn ta cưỡi ngựa chạy thẳng đến dịch quán trên đường lớn Thanh Long.

Đoạn đường này vô số tiệm rượu quán ăn xanh xanh đỏ đỏ, hắn ta ở trên ngựa, phất tay tách cờ rượu quất vào mặt ra, đến trước cửa dịch quán thì nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa.

Trên lầu rượu đối diện dịch quán, Tiểu Thuận Tử đảo mắt láo liên, quan sát vị công tử khí phách ném dây cương cho kẻ phục dịch trong quán, hâm mộ chép miệng nửa ngày mới nhận ra miệng đã khô rồi.

Cậu bèn ngậm ít rượu, lại nhòm xuống dưới cửa sổ, thiếu điều phun rượu xuống tay áo.

“Tiểu nhị, tính tiền”.

Cậu ném đồng tiền rồi dùng mũ trùm đầu che đi nửa gương mặt, lặng lẽ chuồn xuống lầu chạy vào trong cung.

Tìm được Tịch Tà bên trong phòng trực của ngự thư phòng, cậu nói: “Thầy đúng là liệu sự như thần, kẻ tìm Lê Xán quả nhiên là Úc Tri Thu”.

“Úc Tri Thu đi một mình à?” Tịch Tà lại hỏi tiếp.

“Chắc chắn là một mình ạ”.

Tiểu Thuận Tử ra hiệu nói: “Thậm thà thậm thụt, thời tiết như này còn đội nón chắn tuyết để che mặt”.

Tịch Tà cười hỏi: “Thế mà con cũng thấy rõ à?”.

“Thầy đã bảo phải chú ý coi chừng gã nên con nhớ rất rõ vóc người và tiếng nói của gã.

Có hóa thành tro con cũng nhận ra, tuyệt đối không sai đâu ạ”.

“Quả nhiên là chú ý, thế mới là đứa trẻ ngoan chứ”.

Có lẽ qua một thời gian đã không thể gọi cậu là đứa trẻ nữa.

Tịch Tà trông vẻ mặt đắc ý của Tiểu Thuận Tử, mỉm cười nói: “Dọn đồ của ta đi, chúng ta về thôi”.

“Vâng”.

Tiểu Thuận Tử nhanh nhảu bọc lại vài thứ như bút, mực, sách vở và dụng cụ pha trà mà Tịch Tà thường dùng lại, vô cùng vui vẻ theo đuôi Tịch Tà trở về viện Cư Dưỡng, lại còn mời Minh Châu tới.

Lúc bấy viện Cư Dưỡng mới có hơi người hiếm thấy.

Náo nhiệt đến nửa đêm, Tịch Tà để bút xuống, gọi Tiểu Thuận Tử mang áo choàng tới.

Minh Châu hỏi: “Không phải chỉ là theo dõi thôi sao? Tôi đi là được”.

Tịch Tà vội vàng lắc đầu nói: “Võ công của hắn ta cao hơn cô nhiều lắm, cô mà bị thương thì lợi bất cập hại”.

“Tôi là hạng chuyên gây họa”.

Dưới ngọn đèn, Minh Châu cười nhạt: “Gia sợ tôi làm hỏng việc thì có”.

“Cũng đúng đấy.

Hai người đều nghỉ sớm đi”.

Tiểu Thuận Tử mở cửa, mặt có vẻ buồn rầu, nói: “Sư phụ phải thật cẩn thận đấy, lần trước…”.

“Lần trước cái gì?” Tịch Tà sẵng giọng, người đã bay ra khỏi cửa.

Đi về phía đông được một lát, hắn hạ xuống tường cung góc đông bắc của vườn Minh Tri, tùng cao chọc trời, cành tùng quấn quýt, che kín người hắn.

Bởi vậy Tịch Tà không đi xa, chỉ ở ngay cửa đông bắc của thành cung, bọc kín áo choàng và núp mình ở chỗ cao, ỷ vào thị lực hơn người, nhìn bao quát hết động tĩnh trước cửa.

Đêm mồng một không trăng, màn đêm phủ xuống thành trì, đảo mắt đã qua canh ba, chỉ thấy cửa nách khẽ mở ra, bóng người cao to lóe cái vọt vào.

Thân pháp cởi mở tuyệt luân, tay áo cũng mang theo vẻ ngạo nghễ, bay về hướng tây, chính là Lê Xán không thể nghi ngờ.

Tịch Tà quan sát tỉ mỉ, thấy trong tay hắn ta không mang binh khí, biết hắn không đến vì ám sát thì thoáng yên tâm, khẽ mở áo choàng ra, lơ lửng bay theo sát.

Tuy võ công Lê Xán cao cường nhưng không dám công khai đi lại trên đường trong cung.

Hắn ta tung người lên đỉnh quyển bồng của phòng trực ở cục Châm Công vọng ra phía tây, xác định phương hướng.

Tịch Tà thấy bóng lưng hắn ta khẽ run, không biết lúc này hắn ta có tâm trạng thế nào làm hắn do dự một lát, băn khoăn không tiến lên.

Phía tây phòng trực chỉ có hai tòa cung viện là cung Vĩnh Tú và cung Tiêu Cát, lúc này cung Vĩnh Tú lại không có ai ở.

Quả nhiên lần này hắn ta đến cung Tiêu Cát.

Tịch Tà lộ hàm răng ra, lặng lẽ nở nụ cười.

Cuối cùng Lê Xán chậm rãi buông hai nắm tay đang siết chặt ra, bay vọt về phía trước, thẳng đến chính điện của cung Tiêu Cát.

Tịch Tà không dám theo quá sát, chờ hắn hạ xuống vững vàng ở sân trong của cung Tiêu Cát thì đã không thấy bóng dáng Lê Xán đâu.

“Nhanh thật”.

Tịch Tà cười thầm.

Cả sân vắng vẻ, hầu như có thể nghe tiếng sương trắng phủ xuống đất.

Sau một lát mới có tiếng người như côn trùng mùa thu thì thầm loáng thoáng lọt ra từ điện bên cạnh.

Tịch Tà núp phía sau cây, tập trung lắng nghe nhưng không thu hoạch được gì.

Đột nhiên chấn song kêu “kẹt” một tiếng, thiếu nữ dịu dàng ấy khẽ gọi: “Đừng đi!”.

Lê Xán đã nhảy ra ngoài, vẻ mặt không còn sự tươi cười kiêu ngạo bình thường mà là cơn giận dữ đáng sợ, sát khí khắp mặt khiến phần trán xoắn lại, nhìn vào còn lạnh lẽo âm u hơn cả bóng đêm.

Tịch Tà căng thẳng trong lòng, gấp gáp đuổi theo.

Chỉ sợ hắn ta chạy tới cung Khôn Ninh trước nên búng ngón tay lên không trung, xuyên vào giữa lưng Lê Xán.

Dù đang giận dữ, Lê Xán vẫn nhanh nhạy, nghe thấy tiếng nội lực xé gió thì lập tức vượt lên nửa trượng, xoay người nhào tới.

“Là tôi”.

Tịch Tà trầm giọng hô.

Lê Xán không nói một lời, mắt lộ hung quang, đã quyết tâm giết người.

Hắn ta đưa tay mò mẫm ở eo, binh khí đâm thẳng đến yết hầu Tịch Tà như mặt trời nhô ra khỏi mặt biển.

Tịch Tà tưởng hắn ta đến tay không nên không hề đề phòng, không kịp thấy rõ khí giới, bất đắc dĩ lấy hai ngón tay cưỡng ép kẹp lấy.

Mũi nhọn đó chợt co lại, rút về đánh “xoẹt” một tiếng, suýt nữa tước mất ngón tay Tịch Tà.

“Kiếm Kim Xà?” Tịch Tà giận dữ, quát khẽ: “Không biết phân biệt!” Đoạn lui lại hơn năm thước, bị ép lui tới xon đường lát gạch thắp đèn của đông đại thiên đạo.

Kiếm của Lê Xán cứ mãi dây dưa, không chiêu nào không nhằm vào chỗ hiểm của Tịch Tà.

Ánh bạc vẩy ra quanh người Tịch Tà, hắn đã lùi liền ba trượng, sắc mặt bất giác trầm xuống, trở tay gạt áo choàng ra, quấn lấy mũi kiếm như keo như sơn.

Kiếm của Lê Xán lập tức như rồng sa lưới vàng, bị Tịch Tà quấn lấy thân kiếm.

Lê Xán thấy ngón tay trắng như tuyết của hắn khẽ vươn ra khiến thân kiếm thẳng tắp thì không khỏi kinh hãi, nội lực cuồn cuộn bắn vào thân kiếm, dùng sức ngược lại, ý đồ xé tan áo choàng.

Không ngờ Tịch Tà cười khẩy nói: “Kém xa lắm!”.

Cánh tay khẽ rung lên, cổ tay xuyên nhanh tới.

Ngực Lê Xán chợt như bị núi băng sừng sững đụng trúng, đau đến mức mắt tối sầm lại.

Hắn ta cố nén ngụm máu tươi ở yết hầu xuống, song kiếm không cầm được nữa, rồng trắng vọt lên trời, tuột ra khỏi tay, bị gãy “Keng” một tiếng thành ba đoạn trên không trung.

Tịch Tà nhẹ nhàng nhảy lên, chộp lấy kiếm gãy, phủi phủi áo choàng rồi lại khoác trên vai, lạnh lùng nhìn hắn ta và nói: “Anh vào cung làm gì? Chỉ cần không cản trở chuyện của tôi thì tôi sẽ mặc anh.

Nhưng không được giết người, càng đừng nói đến chuyện người anh muốn giết lại là hoàng hậu”.

Lê Xán cười gằn bảo: “Hôm nay bị ngài nhìn trộm, chỉ có một con đường một mất một còn.

Không cần nói nhảm nữa, chiến tiếp đi!”.

“Anh không phải là đối thủ của tôi”.

Tịch Tà phì cười: “Tôi không định làm anh bị thương, cũng không định bắt anh.

Vậy thì tội gì phải khổ thế chứ? Mau đi theo tôi”.

Lê Xán tức đến mức toàn thân run rẩy, chỉ đành ngậm miệng lảo đảo đi theo hắn.

Cung thành ngay trước mắt, trong hoảng hốt, hắn ta thấy Tịch Tà quay đầu lại, gương mặt trắng như tuyết nom như tia chớp trắng bệch trong đêm tối, chiếu cho hắn ta choáng váng một hồi.

May được Tịch Tà đặt ngón tay lên huyệt Thiên Trung kịp thời nên khí lạnh ứ đọng trong ngực bỗng được hút ra nhẹ nhàng, cuối cùng mới thở ra thuận lợi.

Tịch Tà nói: “Nơi này không phải chỗ cho anh ở lâu, anh lại ra khỏi cung từ cửa nách đi.

Ngày mai tôi tất sẽ đến tìm anh”.

Lê Xán hung ác trợn trừng với hắn, nói: “Được, tôi sẽ chờ”.

“Úc Tri Thu kia…” Tịch Tà bỗng nhiên đuổi theo, nói: “Tôi giữ gã lại để còn dùng.

Anh đừng giết gã diệt khẩu”.

Lê Xán bị hắn nói trúng tim đen thì khẽ giật mình, nhưng chỉ gật đầu, mặt mày như thường.

Gắng gượng trở lại dịch quán, hắn ta điều hòa nội tức, dần dần phát tán nội thương trên ngực, ho ra một ngụm máu tươi rồi mới đi nằm.

Hôm sau nhận công văn rồi ra khỏi bộ binh, Lê Xán đã thấy Tịch Tà mặc áo xanh với con ngựa trắng ở ngoài cửa, hệt như Bồ Tát ngồi ngay ngắn trên áng mây trong ánh nắng đầu xuân.

Mắt hắn nhìn xuống, mỉm cười nói: “Lê tướng quân, lần này hai ta cùng đến cửa khẩu Tiểu Hợp, được chứ?”.

“Được theo hầu bên cạnh giám quân đại nhân quả là vô cùng vinh hạnh.

Xin mời”.

Lê Xán phóng người lên ngựa, sánh vai Tịch Tà đi về phía trước, thấp giọng cười khẩy nói: “Ngài muốn thế nào? Muốn chơi trò gì, tôi đều chơi tới cùng”.

Tịch Tà cười nói: “Kẻ thù của tôi ít nhất cũng có nghìn vạn, muốn tôi đối phó anh thì xin hãy đứng xếp hàng lấy số trước đã”.

Lê Xán giận quá hóa cười, nói: “Hạng người thế nào mới có đủ tư cách xưng là kẻ thù của ngài đây?”.

“Tôi làm việc thay hoàng thượng, kẻ thù của hoàng thượng mới là kẻ thù của tôi”.

Tịch Tà bảo: “Không giấu gì anh, tôi vốn tưởng rằng anh là thích khách do phiên vương sai tới.

Không ngờ anh thua thì đi thẳng, kẻ bắn cung tiếp ứng cho anh để ngăn cản tôi tới gần ở ngõ Lan Đình lại là Úc Tri Thu, đã nằm ngoài dự liệu của tôi đấy”.

Lê Xán thở dài rồi mới chậm rãi nói: “Úc Tri Thu bắn lén, vẫn chưa lộ mặt, làm sao ngài biết là gã?”.

Tịch Tà đáp: “Quả thực tôi chưa trông thấy gã nhưng đã lượm được đầu mũi tên của gã.

Cung tên mà gã dùng khác với người thường, người ta gọi là “cung Nhân Nghĩa”, vốn do thống lĩnh thị vệ Khương Phóng sử dụng, phụng chỉ ban thưởng một cái dư lại cho gã.

Cung này rất mạnh, đầu mũi tên cũng được đặc chế từ thép ròng theo lệnh tiên đế, có thể xuyên qua ba tầng áo giáp, năm đó chỉ được ngàn mũi, chia thưởng cho cận thị và hoàng tử theo hộ tống ở Thượng Giang.

Sau này vì uy lực của nó cực lớn, sợ dùng để ám sát làm phản nên dần dần đều thu về tay thống lĩnh thị vệ, chỉ còn lại chừng trăm mũi.

Năm ngoái ở Thượng Giang, hoàng thượng đều thưởng cả cho Úc Tri Thu.

Đáng tiếc gã lại là kẻ cẩu thả, không tử tế nhìn ra sự lợi hại của mũi tên này, tùy tiện mang đi vứt bỏ ở bên ngoài, người sáng suốt vừa thấy đầu mũi tên này liền biết ngay là gã”.

Lê Xán hừ một tiếng, nói: “Theo như ngài nói, ắt hẳn ngài cũng đã đoán được tôi là người thế nào?”.

“Không chỉ đoán được.

Lần trước gặp lại ở cửa khẩu Tiểu Hợp, khi về tôi đã điều tra ra lai lịch của anh rõ như ban ngày.

Anh muốn vào cung làm gì, tôi cũng tường đến tám chín phần.

Chỉ cần anh không đến cung Khôn Ninh thì còn lâu tôi mới thò một đầu ngón tay vào cản trở anh”.

Bị lời sắc bén nói trúng tim đen, lúc này Lê Xán nghĩ lại mà sợ, lặng lẽ rùng mình, hỏi: “Việc tôi đến bộ binh là do ngài phái xuống phỏng?”.

“Tôi vẫn luôn muốn xác định xem anh và Úc Tri Thu đang giở trò gì.

Hôm qua anh vào dịch quán, Úc Tri Thu lập tức đến gặp, bị thuộc hạ tôi trông thấy, tôi đành chờ anh vào cung lúc nửa đêm.

Anh mới vào kinh không lâu mà lại thân thiết với gã như thế.

Bản lĩnh làm việc của Úc Tri Thu không nhỏ đâu”.

Lê Xán khẽ nhíu mày như thể đau khổ, thấp giọng nói: “Quả thật tôi không phải là đối thủ của ngài, nhưng sự việc quan trọng, nếu ngài có ý tiết lộ thì tôi chỉ đành liều mạng dán miệng ngài lại thôi”.

Tịch Tà khẽ cười, bảo: “Tôi chỉ vâng mệnh vua bảo vệ cung Khôn Ninh.

Trước đó anh đến nơi nào, tôi không phát hiện, cũng không muốn thấy”.

Lê Xán thở phào nhẹ nhõm, nói: “Ngài gánh không ít mệnh vua nhỉ”.

Tịch Tà đáp: “Nói sao nhỉ? Tôi cũng coi là một người bận rộn đấy.

Có điều anh cứ bận việc anh, tôi bận việc tôi, anh không biết tôi, tôi không biết anh, hai ta không can hệ gì với nhau là được”.

Lê Xán nghe thấy rõ ràng, nhưng vẫn hơi nghi hoặc: “Ngài dễ nói chuyện thế á?”.

“Trong số những người tôi từng gặp thì kẻ có võ công cao như anh chỉ đếm được trên đầu ngón tay thôi.

Quốc gia đương lúc dùng người, hai ta vì chút chuyện nhỏ như vậy mà chém chém giết giết cũng chẳng thú vị gì”.

Lê Xán trầm ngâm nói: “Úc Tri Thu bằng lòng cho tôi lẻn vào trong cung, tôi bằng lòng giết người thay gã, đều là việc làm ăn rơi đầu.

Tôi đã không làm được, chỉ sợ gã sẽ không từ bỏ ý đồ, sớm muộn cũng tiết lộ phong thanh.

Trừ phi…”.

“Việc đó không thể theo anh được”.

Tịch Tà nói: “Cứ ghi hai mạng người mà anh muốn ở chỗ tôi, chờ tôi sai khiến hết công dụng xong, anh cứ việc lấy”.

“Úc Tri Thu này có thể có đất dụng võ nào chứ?” Lê Xán cười khẩy nói: “Thuê người giết người, quan trọng nhất là việc diệt khẩu.

Nếu Úc Tri Thu thông minh thì mũi tên bắn ra đêm đó phải nhằm vào du kích Lê Xán, chứ không phải tổng quản áo xanh”.

“Anh thông minh xảo trá, làm việc không từ thủ đoạn hơn gã, võ công lại cực cao”.

Tịch Tà bật cười nói: “Thế nhưng anh không ôm chí lớn, chìm nổi theo sóng thì có thể thế nào được?”.

Lê Xán chán nản nói: “Không sai, những năm gần đây ý nghĩ duy nhất của tôi chỉ là được nhìn thấy nó một lần.

Bây giờ gặp được rồi, ngày sau lại ra sao đây? Có điều…”.

Hắn ta lại liếc nhìn Tịch Tà: “Ngài thì có hùng tâm tráng chí gì à?”.

Tịch Tà phì cười: “Coi là có đi”.

“Chờ chí lớn của ngài được thực hiện thì ngài có thể làm gì chứ?”

Tịch Tà bị hắn ta hỏi đến ngẩn ra.

Lê Xán trông sắc mặt hắn dần trở nên trắng bệch trong suốt thì không khỏi cất tiếng cười to.

Từ đó Tịch Tà không lên tiếng nữa, giục ngựa chạy mau, ra khỏi thành trước.

Lê Xán theo sát phía sau, chạy băng băng hơn hai mươi dặm, thấy Tịch Tà ghìm chặt ngựa vẫy tay với hắn ta, mới cùng nhau lui ra ven đường.

Lê Xán ở trên ngựa nhìn về nơi xa, chỉ thấy trên đường cái bụi bay cuồn cuộn là một đường cờ nền đen chữ đỏ thì hỏi: “Sao thế? Đại tướng quân Chấn Bắc Vương Cử về kinh rồi ư?”.

“Đúng vậy”.

Tịch Tà gật đầu, nhảy xuống ngựa: “Hoàng thượng cho đòi ông ta về kinh”.

“Lẽ nào triều đình sắp đánh Hung Nô rồi ư?”

“Hung Nô vốn luôn xâm nhập phía nam vào lúc cuối thu ngựa béo, lần này triều đình muốn dùng binh liền hai mùa xuân hạ, không cho cơ hội tạm nghỉ”.

Chớp mắt ngàn thớt ngựa tốt chỉnh tề chạy tới trước mặt, dưới cờ xí là một ông lão ngoài năm mươi, mặt mày nghiêm nghị, không giận tự uy, hai mắt không chịu cụp xuống thỏa hiệp như thể mãi lom lom ra phía chân trời xa xăm.

“Người ta nói tính tình Vương Cử cương trực, xem ra không sai”.

Tiếng Tịch Tà lại như khẽ thở dài.

“Từ trước đến giờ ông ta giống như một thanh kiếm, lòng ngay dạ thằng.

Những năm trước đây dẫn quân Chấn Bắc đi nghìn dặm đánh đuổi Hung Nô, coi như là một nhân vật dám liều mạng”.

Lê Xán thở dài bảo: “Khốn nỗi Quân Thành không phải quân ô hợp, sau này nếu Vương Cử giở tính ương ngạnh, đại quân đi vào sâu thì vô cùng hung hiểm”.

Trong đội kỵ mã có một người đàn ông vạm vỡ không biết có phải đã nghe được lời nói của Lê Xán hay không mà hung tợn trợn mắt nguýt họ từ xa, lại còn thét họ tránh ra từ bên cạnh.

Cát bụi do móng ngựa hất lên đập vào mặt Tịch Tà làm hắn cảm thấy đau rát.

Sau đầu xuân, hai trăm ngàn đại quân sẽ được giao vào tay đại tướng quân Chấn Bắc Vương Cử.

Mà Thiền Vu Quân Thành xa ngoài ngàn dặm hình như rất thờ ơ đối với sự bố trí của trung nguyên phía nam Nỗ Tây A Hà, chỉ lẳng lặng chậm rãi đợi kết cục dự tính.

Tịch Tà phảng phất nhớ lại ánh mắt Quân Thành: lúc yên lặng, con mắt màu xanh lam của Thiền Vu sẽ chuyển thành sự sâu xa vô cùng vô tận, đó là một tương lai tăm tối không nhìn thấu được.

Hắn nghĩ ngợi, khẽ rùng mình một cái.

“Hung ác nham hiểm thật”.

Lê Xán nhìn bụi mù do ngàn kỵ sư bốc lên, lại nói.

“Đúng vậy”.

Thật lâu, Tịch Tà mới thở dài theo hắn ta.[1] Nơi múa và diễn kịch.

[2] Múa hát và sắc đẹp của phụ nữ.

[3] Công sự là công nghệ xây dựng pháo đài dùng để bảo đảm an toàn cho người và phương tiện vật chất, kho tàng, bảo đảm chỉ huy ổn định, nâng cao hiệu quả sử dụng vũ khí và phương tiện kỹ thuật quân sự, chống các phương tiện sát thương của địch.

[4] Chức vụ không có phẩm cấp, dưới quyền quan..