Ưng Hà Tòng bước ra khỏi mật thất sau bảy cửa đá, ló đầu nhìn quanh:
– Tiếng gì vậy?
Lý Thịnh không tin nổi nhìn khe hở nhỏ lọt sáng, lẩm bẩm:
– Tên Lục Dao Quang này… có phải có bệnh không?
Chu Phỉ lúc đó liều sau lưng bị chém để bắt một bỏ một giữa hai Bắc Đẩu, nàng đã ưu tiên bắt Cốc Thiên Toàn cũng vì Cốc Thiên Toàn quá nhiều mưu mẹo, nếu giữ lại mạng ông ta, nói không chừng ông ta sẽ nghĩ ra chiêu ác độc gì đó, so ra thì giữ Lục Dao Quang lại có lợi với họ hơn.
Nhưng gã này không chỉ ngu mà còn đầy ích kỷ và ác độc, hai thứ kết hợp, thành ra không thể tính theo lẽ thường, ngay cả Chu Phỉ cũng không ngờ Lục Dao Quang có thể “siêu phàm thoát tục” đến vậy.
Ưng Hà Tòng ngạc nhiên nói:
– Ông ta không sợ đào ra mật đạo rồi phát hiện chúng ta đã chạy mất từ lối khác sao? Người này lai lịch thế nào, sao lại gia nhập được vào Bắc Đẩu thế?
– Xuất thân tốt? Hoặc là võ công cao, giỏi đánh nhau… ai mà biết.
Lý Thịnh cười khổ nói:
– Ta vốn lo xá muội làm việc không ổn, không kịp báo tin cho cô phụ, bây giờ xem ra là lo lắng dư thừa. Giang hồ đồn rằng mẫu tộc của vị Lục đại nhân này có quan hệ bạn bè thân thích gì đấy với Tào thị, hoàng thân quốc thích của họ không tới nỗi là nội ứng của phía nam đâu nhỉ?
Lục Dao Quang không biết lấy từ đâu ra mấy cái máy bắn đá, bắn từng đợt từng đợt vào chỗ vỡ bên này, đập khiến cấm địa dưới đất của Tề môn đất rung núi chuyển, mà hai “người thông minh” Lý Thịnh và Ưng Hà Tòng lại xúm lại với nhau anh một câu tôi một câu nghiên cứu về xuất thân của Lục Dao Quang.
Dương Cẩn bên cạnh nghe không nhịn nổi nữa, chen miệng vào:
– Lý Thịnh, cô phụ của ngươi chừng nào đến?
Lý Thịnh:
– …
Dương Cẩn tức giận nói:
– Nếu đại quân chưa tới, sao hai ngươi còn đứng đây thảnh thơi nói chuyện? Lo cho chính mình trước đi chớ!
– Tới thì tới, trong cấm địa Tề môn, ta sợ họ chắc?
Lý Thịnh cười lạnh, vỗ tay:
– Chư vị, gỡ hết mấy thanh gỗ chỉ đường ra, chúng ta đợi chúng tự chui vào lưới.
Đám lưu dân trải qua nhiều lận đận, khó khăn lắm mới sống đến bây giờ, mọi người đều tin theo Lý Thịnh, mới đầu nghe Lục Dao Quang không đi theo lối thường thì hơi hoảng nhưng bây giờ thấy vẻ mặt Lý Thịnh chắc chắn, không khỏi cảm giác như có chỗ dựa đáng tin cậy, lập tức nghe lời hành động.
Ưng Hà Tòng nhìn quanh, hỏi:
– Chu Phỉ đâu?
– Quay mặt vô tường trị thương rồi, để ta gọi muội ấy một tiếng.
Lý Thịnh huýt một tiếng dài, âm thanh vang vọng trong cấm địa dưới lòng đất âm u, hồi lâu vẫn không nghe Chu Phỉ đáp.
Lý Thịnh không nghi ngờ gì, vì từ nhỏ Chu Phỉ đã cảm thấy mấy ám hiệu giao hẹn sẵn này rất ngốc nghếch, nghe thì nghe chứ hiếm khi đáp, nên hắn không để tâm, nói:
– Muội ấy nghe được sẽ tự nắm chắc trong lòng, không cần quan tâm.
Lúc này, Bắc quân trên cấm địa đào hừng hực khí thế, Lý Thịnh trong cấm địa dùng khinh công như bay, mang đám lưu dân thu dọn cọc gỗ chỉ đường một cách trật tự nề nếp, mọi người bận rộn tất bật.
Chu Phỉ nghe tiếng những Bắc quân kia đào, đương nhiên cũng nghe tiếng huýt sáo của Lý Thịnh, nhưng nàng dường như rơi vào một hoàn cảnh cực kỳ lúng túng, vừa không hoàn toàn nhập định vừa khó thoát khỏi trạng thái “bị yểm”, chỉ có thể bị kẹt ở giữa không lên không xuống, chân khí toàn thân như bị Tề vật quyết bá đạo nửa phần sau rút sạch, càng lúc càng vào được ra không được.
Vết rìu trên vách đá ngưng tụ thành ánh đao bóng kiếm như thực, làm tiêu hao chút nội tức ít ỏi còn lại của nàng, đầu tiên là lòng bàn tay rướm máu, sau đó là mười hai kinh mạch chính dần dần luân hãm, thậm chí tới mức toàn thân gần như không chỗ nào không đau.
Cơn đau này hơi quen quen, rất giống cảm giác như lăng trì năm xưa khi Đoàn Cửu Nương ở thành Hoa Dung lỗ mãng đẩy Khô Vinh chân khí vào cơ thể nàng, có điều khi đó nàng như muốn nổ tung, còn giờ là muốn nứt, khó nói cái nào gian nan hơn cái nào.
Bên trên cấm địa bị máy bắn đá đập ra tiếng vang to, mặt đất ầm ầm rung chuyển, cánh cửa đá chìm xuống bị đập ra vết nứt, Chu Phỉ cảm giác mình bị một thanh đao chẻ từ đầu xuống ra làm hai. Đầu nàng ong lên, mắt tối sầm, gần như không còn tri giác, những tiếng động quấy nhiễu xung quanh càng lúc càng xa, tầm nhìn cũng càng lúc càng mờ, nửa bộ Tề vật quyết hại người kia cuối cùng cũng làm nhạt đi tầm mắt nàng, ảo giác ánh đao bóng kiếm cũng nhạt theo sự tê dại của ngũ quan lục giác. Có một khoảnh khắc ngắn ngủi, Chu Phỉ thậm chí cảm thấy thân thể mình đang lạnh đi.
Khi ý thức bắt đầu tan rã, đủ loại nỗi lo nơi trần thế quấy nhiễu nàng cũng tan theo, nàng đã không rảnh lo tới Bắc quân có lẽ gần trong gang tấc, quên mất những chất vấn bi phẫn đối với “định mệnh”, những buồn vui sướng khổ quẩn quanh trong lòng không dứt trở nên không còn quan trọng, nàng thậm chí ngay cả mình họ gì tên chi cũng mơ hồ không nhớ được.
Toàn bộ thần trí của Chu Phỉ chỉ đủ giữ lại chút tỉnh táo nhỏ nhoi, toàn thân như lùi về thuở nàng mới sinh ra, để lộ bản năng hiếu thắng tự nhiên – chính là chết đến nơi cũng tuyệt đối không chủ động tránh lui.
Ngơ ngơ ngác ngác như vậy không biết qua bao lâu, Chu Phỉ cảm giác như mình đã trải qua cả một đời dài đằng đẵng, đột nhiên, một cảm giác khó tả từ đan điền của nàng hiện lên, như một cơn gió xuân dịu nhẹ gột rửa qua kinh mạch khô cằn nứt nẻ của nàng.
Mà chân khí đã khô kiệt giờ như tro tàn lại cháy, chậm rãi chảy qua kinh mạch vốn trì trệ, mới đầu cực kỳ yếu ớt, gần như không cảm giác được, sau đó mạnh lên từng chút một, hòa cùng tiếng tim đập trở nên rõ rệt của nàng.
Tiếng vang và ánh sáng bên ngoài lần nữa ùa vào tai vào mắt, ánh mắt hơi rời rạc của Chu Phỉ từ từ ngưng tụ, nửa phần sau Tề vật quyết lại ập vào đáy mắt, nhưng nàng ngạc nhiên phát hiện, mình có thể nhìn rõ những vết khắc như muốn ăn người kia!
Mỗi vết khắc đều trở nên rõ rệt, trong đó tuy chứa đầy khí tiêu điều xơ xác nhưng ngoan ngoãn nằm trên tường, không đả thương người nữa. Những vết khắc đó cũng như những nét bút bay loạn trong nửa bộ đầu, đều là một bộ nội công tâm pháp hoàn chỉnh, lúc Chu Phỉ chưa phản ứng lại đã tự động vận chuyển nội tức theo hướng dẫn công pháp trên bức vẽ.
Nàng chưa bao giờ có cảm giác thần kỳ như vậy, căn bệnh trầm kha quanh thân đột nhiên nhẹ bẫng, nàng cảm nhận được sức khống chế mạnh mẽ trước nay chưa từng có.
Đoàn Cửu Nương dùng Khô thủ cưỡng chế đánh một luồng chân khí Vinh vào trong cơ thể Chu Phỉ, luồng chân khí bạo ngược ấy suýt lấy mạng nàng, nhưng bà chưa kịp nói rõ với nàng Khô Vinh chân khí luyện thế nào, dùng thế nào.
Mấy năm nay, Chu Phỉ vừa không có tâm pháp vừa không có khẩu quyết, chỉ có thể dựa theo Tề vật quyết mà Xung Tiêu đạo trưởng giao cho nàng để điều hòa vỗ về hai cỗ chân khí bài xích nhau, luôn bình an vô sự với Khô Vinh chân khí.
Nàng chưa bao giờ nghĩ thế nào là “khô” thế nào là “vinh”, chỉ khi ngẫu nhiên tiến bộ cảnh giới Phá Tuyết đao mới có thể nhờ “đại đạo quy về một mối” mà dòm ngó chút ít đạo của Khô Vinh chân khí.
Mấy năm nay, đối với Chu Phỉ, Khô Vinh chân khí ngoại trừ có thể phối hợp chín thức Phá Tuyết đao thì về cơ bản là giậm chân tại chỗ, không tiến bộ gì.
Mãi đến khi nàng thấy nửa bộ Tề vật quyết bị người nào đó không biết là ai sửa chữa.
Tâm pháp ôn hòa vốn thuộc đạo gia kia trở nên hung hiểm và ác độc, lại đúng lúc Chu Phỉ bị nội thương rất nặng, tâm trạng bất ổn, suýt làm kinh mạch nàng chết khô. Thế nhưng nàng không chịu tùy tiện chết, trong lúc mỏng manh đã ngộ được đạo khô vinh lưu chuyển, không ngừng sinh sôi, vô tình đả thông được Khô Vinh chân khí chân chính, bước ra một bước mà năm xưa sư huynh muội Đoàn Cửu Nương mãi chưa đạt đến!
Ngẫm kỹ, đạo gia âm dương tương sinh, vốn cùng đạo khô vinh tương hỗ lẫn nhau, cũng xem như để lại dấu vết.
Chu Phỉ cuối cùng có thể xem kỹ nửa phần sau Tề vật quyết.
Giữa “Đạo đức kinh” thiếu cân thiếu lượng kia và vết rìu có một đoạn chữ khắc cực nhỏ, với nhãn lực của Chu Phỉ mà phải tập trung tinh thần vào mắt mới có thể miễn cưỡng nhận ra được. Trước đó, bức tường đá tà môn này quá có tính công kích, khiến người ta căn bản không thể nhìn thẳng, nên không ai chú ý tới dòng chữ này.
Nét chữ xinh xắn chỉnh tề ấy giống hệt bút tích trong di thư của Lữ quốc sư sau bảy cửa đá, cực kỳ rõ ràng so với vết rìu như cuồng phong bão táp xung quanh. Nó viết:
“Tề vật quyết, bí pháp Tề môn, tu âm dương nhị khí, có tác dụng lớn trong hóa công trị thương, rèn luyện kinh mạch, tích lũy lâu dài sẽ giúp ích không nhỏ. Song, sự ôn hòa của nó chung quy chẳng ngoài đạo nhỏ bé cường thân kiện thể.”Câu này vô cùng ngông cuồng, thiếu điều nói rõ công pháp nhà người ta có cái rắm để dùng, nhưng nghĩ kỹ cũng có lý. Cẩn thận ngẫm lại quyển Tề vật quyết mà Xung Tiêu đạo trưởng giao cho nàng, cả quyển chẳng ngoài hai chữ “điều hòa”, cũng tức là lúc đó nếu Chu Phỉ không bị bà điên họ Đoàn chơi dở sống dở chết, nhờ Tề vật quyết ẩn trong “Đạo đức kinh” giúp cường thân kiện thể, thì đúng là chẳng có tác dụng gì.
Phần sau Lữ quốc sư lại viết:
“Đạo âm dương tương sinh tương khắc, các tiểu hữu Tề môn đa số lánh đời, sống hòa hợp không tranh giành, nên thường bỏ thuật “tương khắc” không dùng, nào biết tiêu sơ khởi nguồn khi cực thịnh, cỏ cây đâm chồi từ mảnh đất cằn khô, lửa mạnh tan băng mới sinh ra nước chảy, không biết nơi tử địa thì nói gì tới tìm sinh cơ? Nay Lữ mỗ xóa đi nửa bộ tiểu Tề vật quyết, thay bằng thuật đại sát, thành “đại Tề vật quyết” để chờ đợi hậu nhân. Công pháp hung hiểm, cửu tử nhất sinh, xin thận trọng.”Chu Phỉ:
– …
Lão già họ Lữ viết ba chữ “xin thận trọng” ở đây, mẹ kiếp ai mà thấy?
Thất đức quá!
Lúc này, lại một tiếng “rầm”chát chúa vang lên, núi đá to lớn đổ ào ào sập xuống, cửa đá trong cấm địa không chịu nổi, sụp trong nháy mắt.
Cùng lúc đó, tiếng kêu la và tiếng ầm ầm cùng vang lên, núi đá vỡ ra, đất sụp xuống.
Lục Dao Quang dùng sức mạnh thô bạo, nhất định đưa cấm địa Tề môn hiện dưới ánh mặt trời, không mảy may lo lắng chôn binh tướng thuộc hạ của mình, mở ra một hố to rộng mấy trượng bên trên cấm địa.
Lục Dao Quang phủi bụi đất trên mặt, chỉ vào cái hố to hét ra lệnh:
– Xông xuống!
Một đám lớn Bắc quân thét gào lao xuống hố.
Mấy kẻ tiên phong vừa xông vào cấm địa liền bị sơn cốc mênh mông dưới lòng đất dọa ngây người, tướng lĩnh Bắc quân dẫn binh không khỏi dừng bước.
Ánh sáng không mời mà tới chiếu sáng cả cấm địa Tề môn, phô bày hình bát quái khổng lồ trên mặt đất, mang theo chút thần thánh khó tả, những hạt bụi li ti trôi nổi giữa không trung như những đốm sao tản khắp bốn phương tám hướng, lặng lẽ lướt qua những kẻ xâm nhập ngang ngược.
Đột nhiên có một bóng người lóe qua, một Bắc quân nói:
– Tướng quân, chúng ở kia, vẫn chưa chạy!
Tướng lĩnh tiên phong ngẩng đầu nhìn, thấy cách đó không xa có một khu trụ đá với những tảng đá to cỡ hai cánh tay ôm mọc như rừng, chống đỡ động tiên này, một thiếu niên lưu dân đang trơ mắt đứng đó, giống như bị Bắc quân từ trên trời rơi xuống dọa ngây người.
Hai bên mắt to trừng mắt nhỏ chốc lát, thiếu niên hét to, xoay người lao vào đám trụ đá.
Tướng lĩnh Bắc quân tiên phong theo Tào Ninh vào sinh ra tử bao nhiêu năm, tuy chưa thể vừa nhìn là thấy cấm địa Tề môn có huyền cơ gì, nhưng bản năng mách bảo không ổn, nhất thời do dự.
Lục Dao Quang đã dẫn người chạy tới, mắng:
– Còn ngây ra đó làm gì!
Tướng lĩnh Bắc quân đi theo một chủ soái khó tả thế này cũng bó tay, đành dẫn người đuổi theo.
Thiếu niên lưu dân kia nhỏ con chân ngắn, dáng vẻ ăn chưa đủ no, trong lúc hoang mang sao chạy trốn được Bắc quân khí thế ào ạt?
Cậu nhờ trụ đá che chắn, chạy quanh tại chỗ vài vòng, thấy sắp bị Bắc quân đuổi kịp, nơi sâu trong đám trụ đá vang lên tiếng kêu, hình như có một nữ tử trẻ trốn ở đó, nhỏ giọng gọi:
– Tiểu Hổ! Tiểu Hổ chạy mau!
Lục Dao Quang dẫn người xông vào trận trụ đá, đương nhiên nghe tiếng kêu kinh hãi ấy, lập tức vung tay:
– Chia ra bao vây!
Bắc quân lập tức tản ra tại chỗ, một nhóm đi lùng bắt thiếu niên cùng đường, một nhóm chạy về hướng tiếng kêu của nữ tử.
Tướng quân tiên phong của Bắc quân huýt tiếng còi dài, người truy kích lập tức tách ra, chia hướng bao vây thiếu niên, sắp vây cậu vào giữa.
Đúng lúc này, thiếu niên đột nhiên quay đầu chui vào sau một trụ đá lớn, cứ thế biến mất trước con mắt trừng trừng của mọi người!
Chúng Bắc quân từ bốn phương tám hướng vây quanh trụ đá ấy nhưng không ai thấy rõ cậu biến mất thế nào. Chẳng lẽ có người biết độn thổ?
Cùng lúc, giọng nữ ban nãy cũng im bặt, trận trụ đá to lớn nhất thời yên tĩnh đến mức có thể nghe tiếng kim rơi, đám Bắc quân nhìn nhau, cực kỳ quái dị.
Tướng quân tiên phong nổi hết da gà da vịt, đến trước mặt Lục Dao Quang nói:
– Đại, đại nhân…
Ông vừa lên tiếng, âm thanh liền vang vọng khắp cấm địa Tề môn, vô cùng chói tai, dọa ông sợ hết hồn.
Lục Dao Quang giơ một ngón tay ra hiệu ông im lặng. Thính lực của Bắc Đẩu Phá Quân cực tốt, ông ta nhắm mắt nghiêng tai lắng nghe chốc lát, đột nhiên vung ống tay áo dài chỉ về một hướng, nói:
– Bọn chuột giả thần giả quỷ trốn bên đó!
Hai nhánh Bắc quân chưa đợi ra lệnh đã bọc đánh về hướng Lục Dao Quang chỉ.
Đến nơi nhìn thì ở đó chỉ có một người nộm nhỏ.
Lúc này, phía sau họ đột nhiên “vút” một tiếng, một Bắc quân tránh không kịp, bị bắn thủng cổ họng tại chỗ, tức khắc mất mạng. Hung khí là một mũi tên gỗ được vót nhọn hai đầu!
– Cẩn thận đề phòng!
– Có mai phục!
– Lùi! Lùi lại!
Trong lúc họ lên tiếng, vô số mũi tên gỗ từ bốn phương tám hướng bắn về phía Bắc quân bao vây trận trụ đá, tuy làm bằng gỗ nhưng không biết bắn từ cơ quan nào, chẳng nhẹ nhàng hơn tên sắt chân chính là bao, nháy mắt đã đánh ngã một đám lớn. Chờ Lục Dao Quang rống giận bảo thuộc hạ liều mạng đi ngược dòng, men theo chỗ bắn tên tìm tới thì không thấy nửa người mà chỉ có hình nộm châu chấu được bện bằng lá!
– Đại nhân, đám trụ đá này quái gở quá, ra ngoài trước nói sau!
Thái dương Lục Dao Quang nổi gân xanh, Bắc quân hoảng hốt lui khỏi đám trụ đá, ra rồi nhìn, lại phát hiện họ không phải về theo đường cũ mà lạc vào một rừng đá cao chót vót.
Lục Dao Quang nối gót sau đội tiên phong, ban nãy ông ta lao quá nhanh nên bị nhốt trong rừng đá, không tìm được đại đội nhân mã của mình.
Đúng lúc này, một bóng người đột nhiên lóe qua, một Bắc quân không phản ứng kịp, lặng lẽ ngã xuống, thanh đao trong tay bị cướp, ánh đao như tuyết chém về phía Lục Dao Quang.