Tầng không sương tỏa tưởng chừng chẳng bay.

Gió đêm thổi mạnh hơn, xỉa vào thân thể lạnh thấu xương, tuyết trút đằng chân trời như rèm đổ, ào ào trong không khí như bông liễu dập dờn. Quy Vãn siết chặt vạt áo, sải bước nhanh hơn. Bóng tối đổ sụp xuống, lúc này quân sư mời nàng tới, ắt hẳn thế cục đã nguy cấp quá đỗi mất rồi. Đang lặng nghĩ, lại thấy cảm giác mát lạnh rỉ rỉ trên mặt, nàng đưa tay vuốt nhẹ, vết nước còn lưu trên ấy. Ngước mắt nhìn vòm không, tuyết trắng tựa hoa lê, trăm đóa ngàn đóa bung nở giữa đêm đen, lòng nàng rộn lên niềm đau xót, sắc đỏ chói mắt giữa nền đất tuyết kia lại hiện lên rõ mồn một trước mắt, hơi thở lập tức nghẹn lại, nàng vội thu tầm mắt, không dám nhìn tuyết nữa.

Một ngôi nhà lớn gần ngay cửa thành trở thành lều chỉ huy lâm thời của quân đội, tất cả dân chúng quanh cổng thành chỉ nội trong một ngày đã được sơ tán vào trong, đường phố vốn vắng lặng tiêu điều giờ đây chỉ còn thấy bóng binh sĩ. Sắc trời tối đen, đại viện phủ ngập một tầng trắng xóa, luồng sáng bạc vây lấy mái ngói, đá xanh lộng lẫy màu trắng tinh khôi.

Ngày đông xơ xác tiêu điều, chẳng thấy hơi xuân.

Lâm Tướng quân rời chốn hồng trần ngang dọc, ngay cả mùa xuân cũng theo cùng sao?

Tơ lòng trăm mối bời bời, xót xa dâng trào sống mũi, Quy Vãn gắng gượng bình tĩnh lại, bước vào trong sân. Trong ấy, một người lính cao gầy đã đợi từ bao giờ, y cung kính nói: “Quân sư đã có lệnh, mời công tử theo tôi.” Chẳng nói đến lời thứ hai, đột ngột xoay người, dẫn đường đi trước.

Hai người đến sảnh chính, lúc này đã trở thành chốn nghị luận việc quân. Suốt dọc đường đi, chẳng thấy mảy may cờ trắng, binh sĩ cũng chẳng nhuốm màu thương đau, Quy Vãn ngờ vực, người lính kia dừng bước, đứng lặng bên cửa phòng trước sau không lên tiếng. Quy Vãn hiểu ý, gõ nhẹ cửa.

“Là Lâu phu nhân đó sao? Mời vào.” Giọng run nhè nhẹ.

Đẩy cửa ra, thấy bên trong hơi ấm rừng rực, giữa phòng đặt một chậu than lửa đỏ bốc lên như sao, nàng vòng qua chậu than, nhìn vào gian trong, thấy căn phòng trống trải chỉ bày duy nhất một cỗ quan tài, bên cạnh đó, một lư hương bằng bạc chạm khắc đang tỏa ra những cuộn khói lững lờ. Mờ mịt nhìn quanh, thấy quân sư đang cúi mình ngồi trên ghế, mắt mở trừng trừng như chuông đồng, ngơ ngẩn nhìn quan tài.

“Quân sư?” bước chân dừng lại, Quy Vãn đứng cách y chừng ba bước chân.

Quay đầu như người vừa sực tỉnh khỏi cơn mơ, quân sư chậm rãi hướng mắt nhìn qua: “Lâu phu nhân… Người đã đến rồi.” Buông một tiếng thở dài não nề, y đứng lên, bước ra khỏi nội sảnh trang nghiêm tĩnh lặng.

Ánh sáng chiếu hắt trên gương mặt y, Quy Vãn kinh ngạc, rất lâu sau mới lên tiếng: “Quân sư vất vả quá rồi.” Một đêm bi ai, nỗi thê lương trên gương mặt y, dùng một chữ tiều tụy chẳng đủ để miêu tả. Tất thảy tự tin nho nhã trước kia đã biến mất không vết tích.

“Phu nhân có vẻ rất ngạc nhiên?” Quân sư nhận ra ánh mắt Quy Vãn, nói như tự giễu: “Người đang ngờ vực, hôm qua ta kiên quyết không phát binh cứu viện, đến giờ lại bày ra dáng vẻ bi thương như mèo khóc chuột, thực sự là nực cười vô cùng, có phải không…” Nói đến nửa, y lập tức cười đến điên cuồng, lệ bất giác rỉ qua khóe mắt.

“Quân sư nghĩ ngợi nhiều rồi, suy nghĩ chu toàn, Tướng quân hiểu rõ nặng nhẹ, làm sao không biết…”

Tiếng cười cuồng ngạo đột nhiên dừng bặt, quân sư quay lại, thẳng thắn lắc đầu: “Giờ này phút này, ta bí mật không phát tang, dưới suối vàng chẳng biết hắn có đang trách ta chăng?”

Bí mật không phát tang? Quy Vãn thầm nhắc lại, sớm hôm nay vừa tới Đốc Thành, xuống khỏi ngựa, nàng kiệt sức liền té xỉu, ngủ suốt một ngày, lẽ nào trong một ngày qua quân sư vẫn chưa phát tin Lâm Tướng quân đã tử trận hay sao?

“Quân sư sợ nhiễu loạn lòng quân, ảnh hưởng đến sĩ khí sao?”

Vừa nghe vậy thân mình liền kịch chấn, quân sư xúc động nhẹ than: “Đây chỉ là một lý do, mà lý do chính vẫn là, Lâm Tướng quân mới chỉ tới đây hơn ba tháng, tướng lĩnh địa phương vốn không phải người thuộc Lâm gia, rất khó uốn nắn. Lúc Tướng quân còn tại thế còn ổn, nếu lúc này công bố tin tử trận, chỉ e Đốc Thành lập tức sinh loạn.”

Quy Vãn gật đầu, lông mày dãn ra: “Thời điểm phi thường, phải dùng phương pháp khác thường, cũng là bất đắc dĩ.”

Thời điểm phi thường, phải dùng phương pháp khác thường, quân sư lẩm nhẩm nhắc lại mấy lần, như thể vén mây thấy trăng, lòng nhẹ nhõm phần nào, nhớ tới ánh mắt oán hận vừa rồi của những binh sĩ biết được tình thế, y bất đắc dĩ cười khổ, cô gái trước mặt đây còn hiểu thấu thời thế hơn cả bọn họ. Nhấc một phong thư trên bàn, y đưa tới trước mặt Quy Vãn: “Phu nhân có thể xem qua một chút.”

Để nàng xem quân văn quan trọng? Nhớ tới lời bản thân vừa nói ra, Quy Vãn mở phong thư, là thư tuyên chiến của Nỗ quân, trong thư viết cho Đốc Thành ba ngày suy nghĩ, không đầu hàng, giết.

Ngạc nhiên nhìn về phía quân sư, lại thấy y khó nhọc nén nỗi bi thương nhìn cỗ quan tài yên vị trong phòng, Quy Vãn đặt phong thư xuống bàn, hỏi: “Quân sư tính toán ra sao?”

“Chưa đầy ba vạn quân đối đầu với hơn mười vạn quân Nỗ dốc toàn lực, phu nhân cho rằng có kế hay được sao?”

“Quy Vãn chẳng nói nên lời, lửa than trong chậu đột nhiên lóe ra, bật ra tiếng lách tách, chấn động lòng người.

Quân sư suy sụp ngồi xuống ghế, hỏi: “Phu nhân đến Đốc Thành đã hơn một tháng. Lẽ nào Lâu Thừa tướng không nhớ mong gì sao?”

Đuôi mày khẽ nhướng lên, Quy Vãn kinh nghi tại sao giờ khắc này rồi y lại đột nhiên nhắc tới chuyện không liên quan như vậy, nghĩ sâu xa ra, mới sực tỉnh ngộ, đáp: “Còn hơn một tháng nữa.”

Biểu cảm quân sư xem ra có chút nghiêm trọng: “Một tháng có lẽ hơi dài, nhưng hiện tại, cũng không thể không làm.” Phía sau Đốc Thành là vạn dặm núi non, nơi chốn hẻo lánh, thưa thớt, giờ phút này bị vây hãm, tin tức đều bị phong tỏa, mặc dù y cũng cảm thấy sự tình thật kì quái, nhưng không cách nào tìm hiểu sâu hơn, chợt nhớ ra Quy Vãn lúc này vẫn ở trong thành, Lâu Thừa tướng nhất đinh sẽ không làm ngơ không hỏi không biết, viện quân kéo đến nhất định còn có đường sống, nhưng giờ đây nghe được kì hạn một tháng nữa… Tình cảnh Đốc Thành có thể nói là hung hiểm vạn phần.

“Phu nhân, người có biết điều kiện tiên quyết để thủ thành?” Quân sư bình tĩnh lại, chân thành nói: “Thủ thành quan trọng nhất là trên dưới một lòng, thấy chết không sờn. Kế đó mới tính tới việc tổ chức bố phòng hợp lý, tận dụng tối đa các nguồn lực; thứ ba cần lương thực dồi dào, nguồn cung sung túc, thứ tư cần phòng ngự đầy đủ, cẩn mật không kẽ hở.”

Quy Vãn lần đầu được nghe giảng về các nguyên lý quân sự, có chút thụ giáo, im lặng lắng nghe. Quân sư tiếp tục phân tích: “Đốc Thành là chốn giao thương nhiều đời, tường thành vững chắc, đáy thành hơn hai mươi thước, phòng bị có thể coi là hoàn hảo. Ở đây giao thương phát đạt, vật tư cũng coi như sung túc đầy đủ, nhưng lúc này, quân không tướng, quân dân nháo nhác như cát lở, đây mới là mấu chốt của vấn đề.”

“Nghe quân sư nói, lẽ nào đã có giải pháp?” Quy Vãn nhìn quân sư với ánh mắt đề phòng, nói chuyện với y, tuyệt đối không thể lơ là.

Quân sư đột nhiên đứng dậy, tới thẳng trước mặt Quy Vãn, hai tay ôm quyền, khom lưng lên tiếng: “Chuyện này, xin nhờ phu nhân hỗ trợ.”

* * *

Gió lạnh vi vu, tuyết ào ào réo đập cửa lớn.

Mới sáng sớm, mấy vị Tướng quân ở Đốc Thành đã vội vàng kéo tới đại viện đang được dùng như chỗ nghị sự việc quân. Giày họ lốm đốm trắng xóa, bước trên mặt tuyết phát ra tiếng sột soạt, vang vang mà nặng nề. Gặp mặt nhau giữa đại viện, những tiếng hỏi thăm hàn huyên thường ngày giờ đây biến mất, chỉ đơn giản trao nhau một cái gật đầu, cũng như chào hỏi.

“Hàn Phó đô thống, Lâm Tướng quân rốt cuộc sao rồi?” Thủ úy Đốc Thành dung mạo chất phác, đôi mắt sáng ngời có thần lặng lẽ giữ chặt Hàn Tắc Minh, trầm giọng hỏi han.

“Không biết nữa, nghe nói Lâm Tướng quân bị thương, đến giờ thành đã bị vây chặt như nêm cối, hơn một ngày trôi qua Tướng quân vẫn chưa ra mặt, e là thương thế kia cũng chẳng nhẹ.” Thủ úy Đốc Thành gật đầu đồng tình, sắc mặt càng tối sầm xuống.

Mấy người lặng lẽ tiến vào trong viện, vừa đặt chân vào nội viện, chợt nghe một tiếng du dương mơ hồ theo gió truyền đến, bọn họ chậm bước chân, cẩn trọng lắng tai nghe, hình như trong phòng có người đang hát kịch. Triệu Hân xanh mét mặt mày, hừ lạnh một tiếng: “Chúng ông nhọc nhằn vất vả vì quốc gia, suốt một đêm không ngủ, ở đây còn có người mời con hát đến vui vầy!” Hắn có làn da ngăm đen, râu hùm hàm én, bản chất uy mãnh hơn người, giờ đây còn thêm chút giận dữ, càng thấy uy phong lẫm liệt.

Các Tướng quân khác đều nhíu mày bất mãn, rảo bước nhanh hơn tiến vào trong phòng.

Tiếng hát lẫn trong tiếng gió mỗi lúc một rõ ràng hơn. “Trăm hận ngàn hận, núi non trập trùng. Người nói kiệu rộng, nào hay chàng khuất, ngóng trông chẳng thấy…”(1) Du dương uyển chuyển, như chim hoàng oanh líu lo, lúc lớn lúc nhỏ, giục lòng người thấp thỏm không yên. Mấy vị Tướng quân bất giác chậm bước, không muốn thừa nhận, nhưng ai nấy đều bị âm thanh ai oán ấy gọi mất mấy phần hồn phách. Bọn họ đều là nam nhi chí tại bốn phương, ngày thường chỉ biết khua đao múa kiếm, làm sao biết tới những làn điệu du dương uyển lệ như vậy. Vừa nghe qua, liền giống như bước lạc giữa làn mưa bụi mông lung của Giang Nam, tựa như thấy thấp thoáng đâu đó bóng nữ tử tựa mình bên cầu rủ rỉ kể nỗi sầu lo, nhói lòng nhói dạ, thấu tận xương cốt, từng giọt từng giọt rớt xuống hồ xuân, gợn sóng lăn tăn, kéo người nhuốm vào.

(1) Trích từ bài từ làm theo điệu “Nam ca tử” của từ gia đời Tống là Tân Khí Tật (40-11207) tự Ấn An, hiệu Giá Hiên. Những bài từ của ông thường mang âm điệu hào phóng mà bi tráng, thơ văn lưu lại đến nay còn mười hai quyển “Giá Hiên trường đoản cú”.

Như nhạc như không, tiếng véo von như hát như không ngân lên một tiếng dài rồi hoàn toàn biến mất, mấy vị Tướng quân như thể vừa được nhấp một ngụm rượu ngon, còn chưa tàn vị đã thấy rượu vung vãi trên nền đất, dư vị còn cào cấu mãi trong tim. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, ngạc nhiên quá đỗi. Tiếng ca khe khẽ lại vang lên, đất bằng dậy sóng vỡ toang, mới rồi còn là âm điệu ai oán du dương, tức thì biến thành giao long xuất hải, khí thế rợp bốn bề.

“Trước ngày Trùng Cửu lúc thu sang, Cúc ta nở rộ trăm hoa tàn, Trường An trời thấu hương bát ngát, Thành quách vừa thay áo giáp vàng(2)!”

(2) Nguyên văn vốn là bài “Bất đệ hậu phú cúc” của Hoàng Sào (?-884), người Sơn Đông, là một lãnh tụ nông dân nổi tiếng thời cổ đại Trung Quốc, đã dẫn dắt dân chúng nổi dậy khởi nghĩa năm Đường Hy Tông thứ hai (875). Ông là người văn võ toàn tài, tuy nhiên tác phẩm văn thơ lưu lại đến nay chỉ còn ba bài tuyệt cú chép trong “Toàn Đường thi”bao gồm: “Đề cúc hoa”, “Bất đệ hậu phú cúc” và “Tự đê tượng”.

Bóng kiếm chợt lóe, như từ dưới đất mọc lên, cuồng phong loạn vũ, phất cao như diều gặp gió, dâng ngập chín tầng.

“Hay!” Một tiếng hét lớn vọt khỏi miệng Triệu Hân, hắn vốn là kẻ thô kệch, văn không thông viết chẳng thạo, câu chữ trong bài ca vừa rồi quá nửa hắn nghe mà chẳng hiểu, thế nhưng từng câu từng chữ trong lời hát rực lên ngạo khí tựa như chim bằng giương cao đôi cánh, thâm sâu như bảo kiếm giấu trong nhà tranh, khơi gợi lên khí khái hào hùng của kẻ theo nghiệp binh đao như hắn. Đến khi nghe được một câu: “Rồng thiêng choàng tỉnh giấc chiêm bao, một tiếng gầm vang dậy ngàn non”, lại thấy lồng ngực hừng hực khí thế như thể muốn cùng cất cao giọng, hòa vào lời ca ngạo nghễ ấy, khí phách cưỡi mây đạp gió một đời những muốn được ở chính chỗ này đây triển hết, lộ hết…

Cánh cửa đột nhiên bật mở, giữa lúc tất cả còn đang ngây ngất chưa hoàn hồn, đập vào mắt họ lại chính là một “công tử” thanh thuần phiêu nhiên vừa bước khỏi sương phòng. Con người đó, tuấn mỹ như ngọc, gương mặt hơi tái, nhưng đôi con ngươi đen thẳm lóng lánh như đêm đen, tay áo rộng thùng thình thoạt mở lại thoạt khép giấu giếm thứ gì đó, hai mắt đảo qua vô cùng dị mị, phong thái cao ngạo khác người, vừa bước từng bước vừa đảo mắt một vòng, thản nhiên nói: “Các vị theo ta.” Rồi không nhanh không chậm, hướng thẳng về phía căn phòng trống kề bên.

Chúng tướng lũ lượt theo vào, mấy vị thống lĩnh quân đội đều thoáng kinh nghi. Bọn họ thường ngày cũng là nhân vật oai phong lẫm liệt trên chiến trường, đến nay mới biết, trên đời này có những người trời sinh bản chất cao quý, khiến người ta không khỏi nể phục.

Chờ chúng tướng vào cả trong phòng, lần lượt ngồi xuống xong xuôi, Quy Vãn liền không hề khách khí tiến thẳng tới vị trí chủ tọa, thản nhiên ngồi xuống. Mấy vị Tướng quân như Hàn Tắc Minh, Triệu Hân bất mãn ra mặt, nhưng chẳng dám mạo muội lên tiếng.

Giữa lúc ngờ vực, tò mò, băn khoăn thay nhau cuộn trào trong phòng, đột nhiên “soạt” một tiếng, Quy Vãn ném mạnh hai khối lệnh bài trên mặt đất. Chúng tướng cúi đầu trông, một vàng một trắng, một Lâu một Lâm.

“Ta là thê tử của Lâu Thừa tướng, Lâm Tướng quân bị thương nặng, không nên hoạt động nhiều, mọi việc sau này do ngài lập kế trong trướng, ta thay mặt thi lệnh”. Không đợi chúng tướng kịp đặt câu hỏi, Quy Vãn lớn tiếng phủ đầu, khí định thần nhàn, rất có phong thái một vị thống soái. Nàng và quân sư bàn bạc suốt một đêm, quyết định sẽ giấu chuyện Lâm Tướng quân tử trận, mà quân sư phẩm hàm thấp kém, Lâm Tướng quân vừa qua đời, quân sư liền mất hẳn tư cách thuyết giảng kẻ khác, bởi vậy mới để nàng điều khiển thay. Quân sư định mưu sau rèm, còn nàng nhận nhiệm vụ ổn định các vị tướng lĩnh.

Thế nên hôm nay đành dùng trọn cả vốn liếng, trước nhu sau cương, vận dụng chiến thuật tâm lý thu phục nhân tâm kẻ khác, nhất định phải thu phục lòng quân trên dưới để tất cả đồng lòng kháng địch, chỉ cần cố gắng chống chịu thêm một tháng nữa, tin chắc sẽ có người từ kinh thành tới cứu. Thứ hi vọng này, dẫu có xa vời nhưng vẫn phải dốc toàn lực liều chết.

“Sao cơ?” Kẻ nhảy dựng lên đầu tiên không ai khác chính là Thủ úy Đốc Thành, y lộ vẻ mặt không thể tin nổi: “Ngươi chỉ là một ả đàn bà, còn dám ra lệnh thay Lâm Tướng quân, nực cười thật, ngươi nghĩ đây là chuyện dễ dàng như ngồi xó nhà may vá thêu thùa sao?”

Mọi người nghe vậy đều cười rộ lên, Thủ úy Đốc Thành vươn thẳng người, nghênh ngang giữa phòng, dương dương tự đắc.

Lạnh lùng liếc trông y, Quy Vãn không giận không cười, tận đến khi vị Thủ úy Đốc Thành kinh hãi, lạnh sống lưng, nàng mới chầm chậm lên tiếng: “Giang Thủ úy, việc ta thay mặt ra lệnh do Lâm Tướng quân quyết định, không phải do ngươi. Nơi này ai làm chủ? Lẽ nào ngươi không hiểu tôn ti cao thấp sao?”

Chúng tướng đều ớn lạnh, không ai dám hé răng, cũng chỉ vì cái lạnh như sông băng phơi dưới bóng trăng đang cuộn trào tựa tên bắn tới, người trước kia rõ ràng mi thanh mục tú như tranh vẽ, nhẹ nhàng thanh thoát, vậy mà vừa nhướng mày liền lạnh băng, lấn át tất thảy một phòng anh hùng.

“Nếu Lâu phu nhân đã nói đây là mệnh lệnh của Lâm Tướng quân, vậy mời Lâm Tướng quân ra trực tiếp nói thẳng ở đây đi.” Hàn Tắc Minh chậm rãi lên tiếng, sắc sảo nêu lên mối hồ nghi.

Quả đúng như dự liệu của quân sư, Hàn Tắc Minh là kẻ khó đối phó nhất, may mà chuyện này vẫn trong dự tính, Quy Vãn quay sang, ung dung hỏi: “Hàn Phó thống lĩnh, lẽ nào ngươi cho rằng ta giả truyền quân lệnh, tới đây để bỡn cợt các ngươi chăng?”

Câu hỏi ngược vô cùng sắc sảo, cứ vào thân phận vượt xa lẽ thường của nàng, dẫu cho đám người kia trong lòng có hồ nghi đến mấy, cũng không dám lên tiếng mạo phạm.

“Nếu các vị đều đã hiểu rõ tình thế hiện tại thì đừng để lãng phí thời gian thêm nữa.” Giữa lúc chúng tướng còn đang hoang mang, Quy Vãn lập tức thừa cơ, cong ngón tay gõ xuống mặt bàn. Quân sĩ bên ngoài đã chuẩn bị xong xuôi, vừa nghe thấy lệnh lập tức đẩy cửa tiến vào, một bộ địa đồ quân sự chi tiết nhanh chóng bày ra trước mắt mọi người.

Chúng tướng đều là kẻ hiểu nặng nhẹ, lập tức buông bỏ ý định gây khó dễ cho Quy Vãn, xôn xao đưa mắt nhìn lên tấm địa đồ, nhớ tới hơn mười vạn thiết kị của Nỗ quân đang vây ngoài thành, sắc mặt càng tối sầm xuống.

Quy Vãn rời ghế chủ tọa, chậm rãi bước đến giữa phòng, dừng lại bên tấm bản đồ, lặng yên quan sát một hồi, nhận ra không ai lên tiếng mới lạnh lùng thốt: “Nếu các vị không phản đối, bây giờ ta sẽ phổ biến kế hoạch của Lâm Tướng quân.” Vuốt nhẹ tay áo, phất tay đầy tiêu sái, phát hiện chúng tướng đều lặng thinh hưởng ứng, nàng mới hé một nụ cười nhạt, chậm rãi giảng giải.

Đây vốn là mưu kế của quân sư, nàng nghe suốt một đêm, luyện tập gần một canh giờ mới có được cảm giác nhẹ nhàng tiêu sái như ra vào chỗ không người lúc này. Kế hoạch của quân sư chia việc thủ thành thành bốn vấn đề trọng yếu, lương thực không thành vấn đề, tường thành cơ bản vững vàng chắc chắn, chỉ cần tu bổ gia cố thêm một chút, tuyệt không phải vấn đề gì lớn lao. Kế hoạch “đánh úp” lần này của Nỗ quân quả thực hiệu quả rất tốt, nhưng ngược lại, cũng vì muốn “đánh nhanh đánh bất ngờ” nên không thể trang bị được vũ khí công thành hạng nặng, riêng điểm ấy đã bị quân sư bắt chặt lấy. Đốc Thành này kiên quyết tử thủ không ra, đem sở trường của mình đối phó với sở đoản của quân địch, quả thực là cao minh đến cực điểm. Mà tất cả những điểm nhỏ nhặt trong kế hoạch như phân phối tài lực, vật lực, điều động nhân lực đều được quân sư tận dụng an bài gọn ghẽ, vô cùng hợp lý. Tất cả kế hoạch có thể coi như chu đáo, kín kẽ không một kẽ hở.

Chúng tướng tập trung lắng nghe, giọng Quy Vãn trong trẻo khúc chiết, giữa lúc kiên quyết nhấn nhá từng từ vẫn mang theo chút êm dịu riêng có của chốn kinh kì, hơn nữa, nàng miệng lưỡi linh hoạt, nói năng mạch lạc rõ ràng, không hề ngắc ngứ hàm hồ, dễ nghe dễ động lòng người, vì thế không ai dám lên tiếng ngắt lời nàng. Tận đến khi trình bày xong tất cả kế hoạch, chúng tướng đều giật mình, như thể gạt hết mây mờ trông thấy trời xanh lồng lộng, hy vọng đột nhiên bung mở trước mắt.

Tiếng xì xào bàn luận vang lên, mấy vị Tướng quân chốc chốc lại gật gù, đang khi to nhỏ bàn bạc, Hàn Tắc Minh vẫn không khỏi cau mày, trước sau vẫn không hề thả lỏng, cao giọng hỏi: “Kế hoạch của Lâm Tướng quân đích xác rất chu toàn, nhưng lần này Nỗ tộc dám kéo quân tới đây, hẳn nhiên đã toan tính từ lâu, lại đương giữa lúc sĩ khí trong quân lên cao ngùn ngụt, cuộc công thành hai ngày nữa ắt hẳn là một trận long trời lở đất, thực lực hai phe khác nhau quá xa, nếu bọn chúng vừa tấn công đã trúng đích, toàn bộ kế hoạch này không phải đều đổ sông đổ bể sao?”

Câu hỏi sắc sảo, lại một lần nữa vạch ra vấn đề mấu chốt. Chúng tướng bên cạnh nghe vậy cũng thấy có lý, nhất tề hướng mắt về phía Quy Vãn, đợi một câu trả lời thuyết phục.

Quy Vãn vẫn thản nhiên nở một nụ cười như thể tất cả đã nằm trong toan tính của ta, nhưng lòng thì không ngừng than khổ. Hôm qua nàng cũng từng đề cập đến vấn đề tương tự, kế hoạch của quân sư là kế hoạch dài hơi, nhằm phòng ngự kéo dài suốt một tháng, nếu Nỗ quân sĩ khí đại thịnh ùa lên công phá, không cản được đợt công kích đầu tiên, hậu quả sẽ thê thảm đến mức nào. Quân sư nghĩ ngợi, bất đắc dĩ buông một câu: “Vậy đành phó mặc cho số phận!”

Mặc cho số phận… Nàng làm sao có thể ném thẳng bốn chữ này vào mặt mọi người ở đây.

“Chư tướng có phương kế nào hay để ngăn địch?” Ung dung quay lại vấn đề, Quy Vãn vòng lại, ngồi lên ghế chủ sự, liếc mắt nhìn phản ứng của chúng tướng.

Không khí vừa mới có chút khởi sắc giờ đây lại trầm xuống lạnh lẽo, trong màn tĩnh lặng ấy, còn mơ hồ nghe thấy tiếng bụi tuyết lẫn trong gió rét đập vào cửa, róc rách lộp bộp từng chút thấm vào lòng người.

Hàn Tắc Minh không lên tiếng, vị tướng dũng mãnh quả cảm bậc nhất như Triệu Hân cũng không khỏi xoa tay, chẳng biết vì rét lạnh hay vì hoang mang. Thu tất cả thần sắc và thái độ của chừng ấy con người vào trong đáy mắt, Quy Vãn nhẹ mím môi, giữa thinh lặng vô cùng, chậm rãi sắp xếp lại từng suy nghĩ.

Binh lực Đốc Thành chỉ vẻn vẹn hơn hai vạn, mà Nỗ quân đông quá mười vạn, thực lực chênh lệch xa nhau, khiến cả những vị mãnh tướng bách chiến chốn sa trường cũng phải kiêng dè. Nếu hôm nay thủ Đốc Thành có hơn mười vạn, chúng tướng ắt hẳn có thể nghĩ ra nhiều phương cách đối phó, còn hiện tại, dẫu cho tướng tài mấy nỗi chẳng có bột sao gột nên hồ.

Bàn tay siết chặt, Quy Vãn ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn tấm địa đồ trong góc phòng đến xuất thần. Tấm địa đồ ấy đầy tràn những vết dọc ngang, đường đường nét nét kết tụ lại ngay một chỗ, hơn nữa còn bày ra rất nhiều kí hiệu kì lạ… Lẽ nào đây là biên cương ư? Là chốn nàng cần trấn thủ trước mắt ư? Thứ mà Lâm Tướng quân thề chết bảo vệ đến cùng… tất cả phơi bày trên một tấm địa đồ bé nhỏ tầm thường này sao?

Kết thành từ máu xương của vô số tử sĩ vùi mình giữa sa trường, chẳng phải kiếm, chẳng phải đao, mà chính là một tấm địa đồ tầm thường như vậy, thậm chí chỉ một đường nét mong manh trên địa đồ, trong gang tấc mà như ngàn quan san, hóa ra chính là chia cách như thế.

“Giang Thủ úy, hiện tại trong Đốc Thành này còn bao nhiêu dân Nỗ tộc?” Ánh mắt thờ ơ, Quy Vãn thuận miệng hỏi.

Nghe nhắc đến tên, Thủ úy Đốc Thành bật dậy, thấy chúng tướng tất thảy đều hướng ánh mắt kinh ngạc nhìn về phía mình, mới nhận ra mình đã hành động thật bốc đồng, tưởng nhầm Quy Vãn thành Tướng quân, gương mặt già cỗi của y đỏ bừng lên, vâng dạ lên tiếng: “Các đoàn buôn của Nỗ tộc đã ít dần đi suốt một tháng qua, đến nay dân Nỗ tộc còn trong Đốc Thành chỉ khoảng trên dưới bốn trăm.” Chúng tướng xôn xao lắc đầu, ai nấy ném cho y một ánh mắt ý bảo “Nếu từ lâu đã xảy ra tình trạng người Nỗ tộc đột nhiên giảm bớt, tại sao không báo cáo sớm”, khiến Giang Thủ úy chết trân tại chỗ.

Thời gian những tưởng đã ngừng trôi, phòng không có than sưởi, gió lạnh từng cơn, đưa mắt trông qua cửa sổ, tuyết mịt mù, cây cối tiêu điều, Quy Vãn không khỏi thở dài, tiếng thở dài khe khẽ mà ẩn chứa vô vàn nỗi muộn phiền.

“Phái người bắt hết dân Nỗ tộc lại, không phân biệt người già trẻ nhỏ!”

“Sao cơ?” Kẻ đầu tiên nhảy dựng lên không ai khác chính là Triệu Hân mình cao tám thước, đầu báo mắt ốc nhồi, hắn trừng mắt giận dữ: “Đều là dân thường, cớ gì bắt họ?”

Căn phòng nhất thời như vỡ òa. Các tướng lĩnh vốn đã có vẻ thần phục, giờ đây đều hiện sắc giận. Hàn Tắc Minh xua tay ra hiệu cho mọi người yên lặng, y nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào Quy Vãn: “Lẽ nào muốn dùng dân Nỗ tộc để đối phó Nỗ quân? Làm như vậy thật quá hèn hạ!” Bọn họ là quân nhân, đôi bên giao chiến, ngay đến tù binh bắt được cũng không thể dễ dàng sát hại, hiện tại còn muốn đem dân chúng Nỗ tộc bình phàm ra uy hiếp Nỗ quân, kế sách như vậy rõ ràng đã vũ nhục đến đại quốc Khải Lăng.

“Nỗ quân sĩ khí đại thịnh, nhuệ khí hào hùng không thể chống đỡ, nếu không biết đường tránh mũi nhọn ấy, tất sẽ mang thương tích vào mình, chi bằng trước mắt lợi dụng dân chúng Nỗ tộc làm xao nhãng lòng quân, ấy cũng là một biện pháp hay.” Quy Vãn bình thản giảng giải phân tích sự tình.

Căn phòng bắt đầu lắng xuống, chúng tướng lộ ra nét mặt ngẫm ngợi sâu xa, cân đo lợi hại. Hàn Tắc Minh nghiêm mặt hỏi: “Đây cũng là mệnh lệnh của Lâm Tướng quân ư?”

Chút xót xa không thể nhận rõ bất chợt vương trên nét mặt phẳng lặng, thoáng hiện rồi lặn mất tăm không vết tích. Quy Vãn nhấc tay, cầm lấy cây bút trên mặt bàn, múa bút viết nhanh vào phiến giấy trắng trước mặt, đảo mắt chữ đã lấp đầy trang giấy, chúng tướng hết thảy đều hồ nghi về hành động của nàng. Viết xong, nàng ngơ ngẩn nhìn trang giấy, mơ hồ, đau đớn, giằng xé… thay nhau cuộn trào trong đáy mắt. Siết chặt tờ giấy, ném thẳng ra giữa phòng: “Đây không phải là lệnh của Lâm Tướng quân, là lệnh của ta!”

Tội kỷ thư – Tướng lĩnh tinh mắt trông mấy chữ lớn uy nghi trên mặt giấy.

Đây không phải mệnh lệnh của Lâm Tướng quân, là của nàng! Đem tính mạng thường dân uy hiếp kẻ địch, những chuyện tổn âm đức như vậy đều do một tay Quy Vãn nàng. Nỗ quân muốn đánh thành, tất phải dẫm đạp lên máu thịt người đồng tộc, hơn bốn trăm mạng người, có già có trẻ, dẫu cho có tầm thường như rơm rác vẫn là đồng bào, nàng thật muốn xem Nỗ quân sẽ đối phó ra sao…

Đối địch chốn sa trường, kiếm sắc đao bén, nàng không có, nàng cũng chẳng có uy phong đánh đâu thắng đó như Lâm Tướng quân, không có kế xa ngàn dặm như quân sư trong trướng, thứ nàng có chỉ là một chút thủ đoạn để ứng biến tâm lý. Đến giờ còn đem vận dụng trên chiến trường.

Hậu thế sau này có nguyền rủa, thóa mạ, tất cả đều gánh trên lưng nàng…

Nàng không biết sử sách đời sau sẽ luận bình thế nào về quyết định tàn nhẫn hôm nay của nàng, nhưng hôm nay, nàng buộc phải làm.

Chúng tướng lấy làm kinh ngạc nhìn phiến giấy mỏng manh còn chưa ráo mực chậm rãi buông mình rớt xuống đất, nói không hết nặng nề trong lòng, thấy dung nhan lộ vẻ mỏi mệt của Quy Vãn, bao nhiêu lời chính nghĩa nghiêm cẩn đều cứng lại trong họng. Nhất thời họ chẳng thể phân rõ thiện ác, cũng chẳng cách gì phân cho rõ, làm như vậy sẽ sai trái đến đâu, chỉ biết, một cặp mắt sâu thẳm u buồn như đầm nước xanh, kiên định như núi, ngạo nghễ như mai.

Chẳng cần nhiều lời thêm nữa, các tướng lũ lượt nhận lệnh rời đi.

Thấy bọn họ nối đuôi nhau ra khỏi, Quy Vãn thầm thở dài, chậm rãi đứng dậy, ánh mắt trống rỗng đảo qua bốn phía, nén nỗi xót xa trong dạ, nàng rời khỏi phòng.

Quân sư đang đứng đợi bên cửa, thân mình phủ một lớp tuyết mỏng, dường như đã đợi rất lâu, ánh mắt phức tạp khó dò.

Đoán rằng y đã nghe được phương cách của nàng, nàng mở miệng toan giải thích, quân sư lại xoay người, thờ ơ cất bước đi khuất, không buồn quay đầu, chỉ buông một câu: “Thời điểm phi thường, phải dùng phương pháp khác thường”.

Quy Vãn gượng cười khe khẽ, vô số lời giải thích của nàng vì một lời ấy mà nghẹn cứng trong họng, không chốn thi triển. Ngoài kia tiếng điều động binh lính vang lên, nàng như có thể tưởng tượng ra cảnh tượng gì sẽ diễn ra trên những đường phố Đốc Thành.

Chớp mắt, đã tới đêm trước ngày trong tối hậu thư của Nỗ quân, vầng trăng đêm cong như lưỡi liềm, ánh bạc dát khắp mặt đất, tuyết sắc vô ngần, động lòng người.

Tâm tình căng thẳng, không thể an giấc, Quy Vãn bước ra sân, nghe thấy những âm thanh ồn ào từ bên ngoài vọng tới, lẫn trong đó là những tiếng gào khóc, tiếng hét chói tai, sắc nhọn như kim dội vào màng nhĩ. Rồi chỉ chốc lát sau, liền nghe thấy tiếng người cất tiếng ca, tiếng hát vốn mỏng manh, phiêu diêu nhưng lan truyền thật nhanh, như thể có rất nhiều người cùng hợp sức ngân nga. Giai điệu ấy quá đỗi quen thuộc, khiến Quy Vãn vừa trở gót định về phòng liền ngừng chân. Cẩn thận lắng tai nghe, giai điệu dặt dìu khoan thai ấy, đúng là “Sách Cách Tháp” của Nỗ tộc.

Dư âm lẩn khuất, bi thương không dứt…

Chính nhờ thứ thanh âm ai oán não nề ấy nên Nỗ quân không dám vọng động suốt ba ngày ba đêm, nhuệ khí sụt giảm, mà cũng trở thành luận điệu cho sử gia đời sau hoặc gièm pha hoặc phê phán mỗi khi nhắc tới “Hồng nhan loạn”.

Đương thời có người đã phê bình như thế này về cái thời kì đau thương ấy: “Vây hãm Đốc Thành và ‘Lâu thị yến’ trong kinh thành chính là hai sự kiện trọng đại nhất xảy ra trong năm Thiên Tái thứ năm, mà hai sự kiện ấy cũng gián tiếp thay đổi tương lai của vương triều Khải Lăng. Ngay khi ấy văn giả chẳng ai có thể dùng câu chữ ghi lại tất thảy những chuyện này, chỉ biết im lặng cảm thán, những nhân vật như Lâu Thừa tướng và phu nhân, cũng chẳng biết rồi đây sử sách sẽ miêu tả ra sao.”