Hóa ra ở đồn cảnh sát người ta xem một vụ giết người là việc rất nghiêm trọng. Lẽ ra tôi nên đoán trước chuyện này. Họ dẫn tôi vào một phòng nhỏ có bàn ghế nhựa, với những tấm áp phích về việc cần phải khóa xe ô tô. Họ cho tôi một tách trà và một tờ đơn để điền, rồi một nữ cảnh sát bảo tôi rằng ít phút nữa sẽ có một thanh tra tới nói chuyện với tôi.

Tôi muốn bật cười sằng sặc. hHoHoặc trèo ra qua lối ở cửa sổ.

“Tôi sẽ nói gì với một thanh tra đây?” Tôi kêu lên, ngay khi cánh cửa vừa đóng lại. “Tôi chẳng biết gì về cô cả! Tôi sẽ nói chuyện cô bị giết như thế nào đây? Bằng một cái giá đỡ nến trong phòng khách à?”

Sadie có vẻ còn chẳng nghe thấy tôi nói gì. Cô ngồi trên bậu cửa sổ, đung đưa chân. Mặc dù khi nhìn kỹ, tôi nhận thấy là cô không thật sự ngồi trên bậu cửa, cô lơ lửng bên trên đó chừng vài ba phân. Cô dõi theo ánh mắt tôi, thấy chỗ hổng và cau mày khó chịu. Cô cẩn thận chỉnh lại tư thế cho đến khi trông như thể đúng là đang ngồi lên bậu cửa thật, rồi lại bắt đầu thoải mái đu đưa chân.

Cô hoàn toàn là do mình tưởng tượng ra thôi, tôi tự nhủ dứt khoát. Tỉnh trí đi. Nếu chính bộ não của tôi đã làm cô hiện lên thì chính nó cũng có thể xóa bỏ cô đi.

Đi đi, tôi nghĩ kiên quyết hết sức có thể, nén hơi thở và siết chặt nắm tay. Đi đi, đi đi, đi đi…

Sadie liếc sang tôi và bật cười khúc khích. “Trông cô kỳ cục quá,” cô nói. “Cô bị đau bụng à?”

Tôi đang định vặc lại thì cánh cửa mở ra – và bụng tôi thực sự quặn lên. Đó là một thanh tra, mặc thường phục, càng khiến ông ta trông đáng sợ hơn so với khi mặc đồng phục. Chúa ơi. Rắc rối to rồi.

“Cô Lara.” Thanh tra giơ tay ra. Ông ta cao to lừng lững, tóc sẫm và tác phong nhanh nhẹn. “Thanh tra James.”

“Chào ông.” Giọng tôi the thé vì hồi hộp. “Hân hạnh được gặp ông.”

“Nào.” Ông ta ngồi xuống với tác phong nhanh gọn và cầm lấy một cái bút. “Tôi được biết là cô đã ngăn đám tang của bà dì lại.”

“Đúng thế.” Tôi gật đầu chắc chắn hết mức. “Tôi chỉ nghĩ là có điều gì đó khả nghi trong cái chết của bà cụ.”

Thanh tra James ghi lại, rồi ngước nhìn lên. “Tại sao?”

Tôi ngây mặt ra nhìn lại ông ta, tim đập thình thịch. Tôi không có câu trả lời. Lẽ ra tôi nên nhanh chóng dựng lên một chuyện gì đó từ nãy rồi. Tôi là một con ngốc.

“Ờ… ông không cho là nó khả nghi sao?” tôi ứng biến. “Bà cụ chết theo cái kiểu đó? Ý tôi là không thể bỗng dưng người ta lăn ra chết được!”

Thanh tra James nhìn tôi chằm chằm với vẻ mặt không dò được, “Tôi tin là bà cụ đã 105 tuổi rồi.”

“Thế thì sao?” tôi cãi, lấy lại được sự tự tin. “Người đã 105 tuổi thì không thể bị sát hại à? Tôi không nghĩ là cảnh sát lại có thể phân biệt tuổi tác như thế.”

Mặt thanh tra James thoáng động đậy, do thích thú hay bực mình tôi cũng không rõ. “Cô nghĩ ai đã sát hại bà dì của cô?” ông ta nói.

“Là…” tôi xoa xoa mũi, câu giờ. “Chuyện này… khá… phức tạp…”

Tôi liếc lên nhìn Sadie với vẻ bất lực.

“Cô thật vô dụng!” cô kêu lên. “Cô cần có một câu chuyện nếu không họ sẽ không tin cô! Họ sẽ không trì hoãn đám tang thêm phút nào nữa ! Cứ bảo đó là nhân viên ở viện dưỡng lão! Bảo là cô đã nghe thấy họ bày mưu lập kế.”

“Không!” tôi kêu lên vì sốc trước khi kịp ngăn mình.

Thanh tra James nhìn tôi một cách kỳ quặc và hắng giọng. “Lara, cô có lý do thật sự nào để tin rằng có gì đó không ổn trong cái chết của bà dì của cô không?”

“Nói đó là nhân viên ở viện dưỡng lão đi!” Giọng của Sadie vang lên trong tai tôi giống như cái phanh xe đang rít lên. “Nói đi! Nói đi! NÓI ĐI!”

“Đó là đám nhân viên ở viện dưỡng lão,” tôi thốt ra trong cơn tuyệt vọng. “Tôi nghĩ vậy.”

“Dựa vào đâu mà cô nói vậy?”

Giọng thanh tra James vẫn đều đều nhưng đôi mắt ông ta cảnh giác. Sadie đang lởn vởn trước mặt ông ta, trừng mắt nhìn tôi và quay tròn hai bàn tay với nhau, như thể để giúp tôi nhuận ngôn hơn. Hình ảnh đó khiến tôi hoảng sợ tột độ.

“Tôi…ờ…tôi đã nghe thấy họ thì thầm với nhau trong quán rượu. Điều gì đó về thuốc độc và bảo hiểm. Lúc đó tôi không nghĩ gì về nó cả.” Tôi nuốt nước bọt yếu ớt. “Nhưng thời gian ngắn sau thì bà dì tôi mất.”

Tôi đã thó toàn bộ âm mưu này từ một bộ phim truyền hình dài tập chiếu ban ngày mà tôi xem khi nghỉ ốm tháng trước, ngay lập tức tôi nhớ ra.

Thanh tra James nhìn tôi một cái sắc lẻm. “Cô sẽ làm chứng cho chuyện này?”

Lạy Chúa. “Làm chứng” là một trong những từ hết sức đáng sợ, giống như “thanh tra thuế” và “chọc tủy” vậy. Tôi đan hai bàn tay vào nhau bên dưới mặt bàn và nuốt nước bọt. “Vâ…âng.”

“Cô có nhìn thấy những người đó không?”

“Không.”

“Tên viện dưỡng lão đó là gì? Nó thuộc khu vực nào?”

Tôi điềm tĩnh nhìn lại ông ta. Tôi không biết. Tôi liếc lên nhìn Sadie, cô đã nhắm mắt lại như thể đang hồi tưởng lại điều gì đó về một nơi xa xôi tít tắp.

“Fairside,” cô nói chậm chạp. “Ở Potters Bar.”

“Fairside, Potters Bar.” Tôi lặp lại.

Im lặng một thoáng. Thanh tra James đã viết xong và xoay xoay bút. “Tôi sẽ hỏi ý kiến một đồng nghiệp.” Ông ta đứng dậy. “Một phút nữa tôi quay lại.”

Ngay khi ông ta vừa ra khỏi phòng, Sadie ném cho tôi một cái nhìn khinh bỉ. “Cô chỉ làm được đến thế thôi à? Ông ta sẽ chẳng bao giờ tin cô! Cô phải giúp tôi.”

“Bằng cách ngẫu nhiên chụp lên đầu ai đó tội giết người ư?”

“Đừng có thộn thế,” cô nói thô bạo, “Cô không buộc tội đích danh ai đó. Thực ra câu chuyện của cô hoàn toàn vô dụng. Thuốc độc ư? Những lời thì thào trong quán rượu ư?”

“Cô cứ thử phịa ra một câu chuyện nào đó ngay tại chỗ xem!” tôi chống chế. “Mà đó chưa phải là vấn đề cốt lõi! Vấn đề cốt lõi là…”

“Vấn đề cốt lõi là chúng ta cần phải trì hoãn đám tang của tôi lại!” Đột nhiên cô ta hiện ra ngay sát người tôi, ánh mắt kiên quyết và khẩn khoản. “Nó không thể xảy ra. Cô không thể để nó xảy ra. Chưa thể.”

“Nhưng…” tôi chớp mắt vì ngạc nhiên khi cô biến mất ngay trước mắt mình. Chúa ơi, chuyện này thật bực mình. Tôi thấy mình giống như Alice ở Xứ sở Thần tiên. Bất cứ lúc nào cô cũng có thể hiện ra với một con chim hồng hạc kẹp ở nách, hét lên “Lấy đầu nó đi!”

Rón rén ngả người ra sau, nửa mong đợi rằng mình cũng biến mất được, tôi chớp mắt vài cái, cố hiểu mọi chuyện. Nhưng nó quá phi thực. Tôi đang ngồi trong một căn phòng ở đồn cảnh sát, phịa ra một vụ giết người, bị một con ma nữ không tồn tại chỉ trỏ làm thế này thế nọ. Giờ tôi mới chợt nhận ra là mình thậm chí còn chưa ăn trưa. Có lẽ chuyện này hoàn toàn là do bị hạ đường huyết. Có lẽ tôi bị mắc bệnh đái đường và đây là dấu hiệu đầu tiên. Đầu óc tôi có cảm giác như là đang xoắn lại thành nhiều nút. Chẳng hiểu chuyện gì cả. Cố làm cho mọi chuyện rõ ràng cũng chẳng ích gì. Tôi cứ mặc kệ cho mọi chuyện muốn ra sao thì ra.

“Họ sẽ theo đuổi vụ này!” Sadie lại hiện ra, nói nhanh tới mức tôi hầu như không nghe kịp. “Họ nghĩ có thể cô đang đánh lừa, nhưng dù sao họ vẫn sẽ theo đuổi nó, phòng khi…”

“Thật sao?” tôi nói vẻ ngờ vực.

“Tay cảnh sát đó đang nói chuyện với một gã cảnh sát khác,” cô hổn hển giải thích. “Tôi đã bám theo họ. Ông ta đưa cho tay kia tờ ghi lời của cô và bảo, ‘Có một ả ngốc ở đây’ ”

“Một ‘ả ngốc’?” Tôi không thể không nhắc lại một cách phẫn nộ.

Sadie phớt lờ tôi. “Nhưng rồi họ bắt đầu nói về một cái viện dưỡng lão nào đó từng xảy ra một vụ giết người. Nghe quá rùng rợn. Và một tay cảnh sát nói có lẽ họ nên gọi một cú điện thoại để phòng khi và tay kia đồng tình. Thế là chúng ta ổn cả!”

Ổn cả?

“Cô thì có thể ổn cả đấy, nhưng tôi thì không!”

Khi cánh cửa xoay mở ra, Sadie nói thêm nhanh, “Hỏi tay cảnh sát là họ sẽ làm gì với đám tang. Hỏi ông ta đi. Hỏi ông ta đi!”

“Đó không phải là chuyện của tôi…” tôi bắt đầu nói, rồi vội ngừng lại khi thanh tra James ló vào ở cửa.

“Cô Lara. Tôi sẽ đề nghị một cảnh sát lấy lời khai của cô. Rồi chúng tôi sẽ quyết định tiến hành như thế nào.”

“Ồ. Ờ… cảm ơn ông.” Tôi nhận thấy Sadie đang trừng mắt với tôi nhắc nhở. “Thế còn chuyện gì sẽ xảy ra với…” Tôi ngập ngừng. “Người ta sẽ xử lý thế nào với… cái xác?”

“Cái xác từ giờ sẽ được giữ ở nhà xác. Nếu chúng tôi quyết định tiến hành điều tra thì nó sẽ được lưu giữ ở đó cho đến khi chúng tôi trình báo cáo lên nhân viên điều tra những vụ chết bất thường, người này sẽ yêu cầu có một cuộc điều tra, nếu bằng chứng đủ tin cậy và nhất quán.”

Ông ta khẽ gật đầu, rồi đi ra. Khi cánh cửa đóng lại tôi ngồi phịch xuống. Đột nhiên tôi cảm thấy run rẩy khắp người. Tôi đã bịa đặt một câu chuyện giết người với một cảnh sát có thật. Đây là việc tồi tệ nhất tôi từng làm. Thậm chí còn tệ hơn cái lần tôi ăn hết cả nửa hộp bánh quy, hồi tám tuổi, và thay vì thú tội với mẹ lại đi giấu biến cả cái hộp bánh đằng sau hòn non bộ trong vườn, và phải nhìn mẹ đi tìm nó trong bếp.

“Cô có hiểu là tôi vừa mới phạm tội khai man không hả?” Tôi nói với Sadie. “Cô có hiểu là họ có thể sẽ bắt tôi không hả?”

“ ‘Họ có thể sẽ bắt tôi.’ ” Sadie nhắc lại giễu cợt, lại hạ xuống bậu cửa sổ. “Trước kia cô chưa bao giờ bị bắt hả?”

“Đương nhiên là không!” Tôi trợn tròn mắt nhìn cô. “Cô đã bị à?”

“Vài lần!” cô nói thản nhiên. “Lần đầu tiên là vì nhảy trong đài phun nước của làng vào một đêm nọ. Chuyện đó buồn cười lắm.” Cô bật cười khúc khích. “Cô biết không, bọn tôi có mấy cái còng tay giả, là một phần của quần áo giả trang, và trong khi tay cảnh sát đang lôi tôi ra khỏi cái bể nước đó thì cô bạn Bunty của tôi đã còng tay anh ta để đùa thôi. Anh ta tức bầm gan!”

Giờ thì cô đang nổi cơn cười ngặt nghẽo. Chúa ơi, cô thật khiến người ta bực mình.

“Tôi chắc rằng vụ đó rất vui.” Tôi ném sang cho cô một cái nhìn hiểm ác. “Nhưng theo ý tôi thì chả tội gì phải vào tù để mắc phải căn bệnh gớm guốc nào đó, cám ơn cô.”

“Ờ, cô sẽ không phải ngồi tù nếu có một câu chuyện hay hơn.” Tiếng cười của cô ngừng lại. “Tôi chưa bao giờ gặp kẻ nào ngu ngốc như thế. Cô chẳng đáng tin mà cũng chẳng nhất quán. Trong trường hợp này thì họ thậm chí sẽ chẳng thèm tiến hành điều tra. Chúng ta sẽ không có chút thời gian nào.”

“Thời gian làm gì?”

“Đương nhiên là thời gian để tìm chuỗi hạt của tôi.”

Tôi gục đầu xuống bàn làm phát ra một tiếng thịch. Cô không chịu từ bỏ phải không?

“Nghe này,” cuối cùng tôi lên tiếng, ngẩng đầu lên một chút. “Tại sao cô lại cần chuỗi hạt này đến thế? Tại sao lại phải đích thị là chuỗi hạt này? Nó là một món quà hay đại loại thế à?”

Cô im lặng một lúc, mắt xa xăm. Thứ duy nhất chuyển động trong phòng là hai bàn chân cô, đu đưa nhịp nhàng.

“Nó là quà của bố mẹ tôi nhân dịp sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của tôi,” cuối cùng cô nói, “Tôi thấy hạnh phúc khi đeo nó.”

“Ờ, thế cũng hay,” tôi nói. “Nhưng…”

“Tôi đã có nó suốt cuộc đời. Tôi đã đeo nó suốt cuộc đời.” Cô nói nghe như đột nhiên kích động. “Dù có mất bất cứ thứ gì khác, tôi cũng giữ được nó. Nó là vật quan trọng nhất tôi từng có. Tôi cần nó.”

Hai bàn tay cô cứ cựa quậy không yên, mặt cô cúi xuống nên tôi chỉ có thể nhìn thấy một góc cằm. Cô gầy và trắng quá, trông như một bông hoa rũ cánh. Tôi chợt thấy nhói lên niềm cảm thông với cô, và tôi đang định nói, “Đương nhiên là tôi sẽ đi tìm chuỗi hạt của cô,” thì cô ngáp rõ to, vươn hai cánh tay khẳng khiu qua đầu và bảo, “Chỗ này chán chết. Tôi ước gì chúng ta có thể tới hộp đêm.”

Tôi lườm cô, tất cả sự cảm thông biến mất. Đây là thái độ biết ơn mà tôi nhận được ư?

“Nếu cô buồn chán đến thế,” tôi nói, “thì chúng ta có thể đi kết thúc tang lễ của cô nếu cô muốn.”

Sadie đưa tay lên miệng và hổn hển. “Cô sẽ không làm thế.”

“Có thể đấy.”

Một tiếng gõ cửa cắt ngang lời chúng tôi, và một người phụ nữ trông vui vẻ mặc áo sơ mi và quần dài tối màu ló đầu vào. “Lara Lington?”

Một tiếng sau, tôi đã kết thúc việc đưa ra cái gọi là “bản tường trình” của mình. Tôi chưa bao giờ phải trải qua một chuyện khó chịu như thế. Thật là một vụ bê bối chả ra làm sao.

Đầu tiên tôi quên béng mất tên của viện dưỡng lão. Rồi tôi tính thời gian sai lung tung beng, và phải thuyết phục người nữ cảnh sát đó là tôi đi bộ nửa dặm mất năm phút. Kết cục là tôi nói rằng tôi đang tập luyện để trở thành một vận động viên đi bộ nhanh chuyên nghiệp. Chỉ cần nghĩ về chuyện đó thôi tôi cũng đã thấy rồ dại và nóng bừng cả lên rồi. Cô ta sẽ không đời nào tin tôi. Ý tôi là trông tôi có thật sự giống một vận động viên đi bộ nhanh không?

Rồi tôi bảo tôi đã tới chỗ cô bạn Linda trước khi tới quán rượu. Tôi thậm chí còn không có người bạn nào tên Linda, tôi chỉ không muốn nhắc đến tên của bất cứ một người bạn có thật nào của mình. Cô ta muốn biết họ của Linda, và tôi buột mồm nói “Davies” trước khi kịp ngăn mình lại.

Đương nhiên là tôi đã đọc thấy nó ở phía đầu tờ đơn. Cô ta là cảnh sát Davies.

Ít ra thì tôi cũng không nói “Keyser Söze”.

Thật xứng tầm, cô ta không hề dao động. Cô ta cũng không nói liệu họ có tiến hành vụ này không. Cô ta chỉ lịch sự cảm ơn tôi và tìm cho tôi số điện thoại của một hãng taxi.

Có lẽ giờ tôi sẽ vào tù. Tuyệt thật. Tất cả những gì tôi cần.

Tôi trừng mắt với Sadie đang nằm dài trên bàn nhìn chằm chằm lên trần nhà. Thật không được tích sự gì khi cô cứ lải nhải vào tai tôi suốt lúc vừa rồi, liên tục chỉnh sửa tôi và thêm thắt gợi ý, và hồi tưởng lại cái lần hai gã cảnh sát cố ngăn cô và cô nàng Bunty “cưỡi mô tô trên đồng” nhưng không đuổi kịp họ, chuyện đó “buồn cười lắm”.

“Không cần cảm ơn đâu,” tôi nói. “Lần nữa đấy.”

“Cảm ơn cô.” Giọng Sadie lững lờ trôi qua.

“Ờ, được lắm.” Tôi nhấc túi lên. “Tôi đi đây.”

Sadie vụt ngồi dậy. “Cô sẽ không quên chuỗi hạt của tôi phải không?”

“Tôi ngờ là tôi sẽ quên, suốt đời luôn.” Tôi đảo mắt. “Dù tôi có cố gắng đến đâu.”

Thình lình cô ở ngay trước mặt tôi, chặn đường ra cửa. “Không ai có thể thấy tôi trừ cô. Không ai có thể giúp tôi. Làm ơn đi.”

“Nghe này, cô không thể cứ xưng xưng mà nói, ‘Đi tìm chuỗi hạt của tôi đi!’” tôi cáu tiết giải thích. “Tôi không biết gì về nó cả. Tôi không biết nó trông như thế nào…”

“Nó làm bằng hạt thủy tinh và kim cương giả,” cô hăm hở nói. “Nó dài đến đây…” Cô chỉ vào eo. “Cái móc cài khảm xà cừ…”

“Được rồi.” Tôi cắt lời cô. “Tôi chưa bao giờ thấy nó. Nếu tình cờ thấy nó ở đâu tôi sẽ báo cho cô.”

Tôi vòng qua cô, đẩy cửa mở ra gian sảnh của đồn cảnh sát và rút điện thoại ra. Gian sảnh sáng trưng, với tấm vải sơn lót sàn nhếch nhác và một cái bàn giờ đã trống trơn. Hai gã đàn ông to lớn mặc áo phao đang tranh cãi to tiếng, trong khi một cảnh sát cố trấn tĩnh họ, vậy nên tôi rút vào một góc trông có vẻ an toàn. Tôi lấy số điện thoại của hãng taxi mà cảnh sát Davies đã đưa cho, bắt đầu bấm máy. Tôi có thể thấy có khoảng hai mươi tin nhắn thoại trên đó, nhưng tôi bỏ qua tất. Đó chắc chỉ là bố mẹ, đang lên cơn xì trét…

“Chào!” Một giọng nói cắt ngang và tôi dừng lại, đang bấm được nửa chừng. “Lara phải không?”

Một người đàn ông có mái tóc màu cát mặc áo cổ lọ và quần jeans đang vẫy tôi. “Tôi đây! Mark Phillipson đây mà? Trường dự bị đại học?”

“Mark!” tôi kêu lên, chợt nhận ra anh. “Ôi Chúa ơi! Anh dạo này thế nào?”

Điều duy nhất mà tôi nhớ về Mark là anh chơi guitar bass ở ban nhạc của trường.

“Tôi ổn! Tuyệt lắm.” Mặt anh chợt hiện vẻ lo lắng. “Cô đang làm gì ở đồn cảnh sát vậy? Mọi chuyện ổn chứ?”

“Ồ! Vâng, tôi ổn. Tôi ở đây chỉ để… anh biết đấy…” tôi phẩy tay, “Chuyện giết người ấy mà.”

“Giết người?” Trông anh ta choáng váng.

“Vâng. Nhưng không có gì to tát cả. Ý tôi là hiển nhiên nó là một chuyện tày đình…” Tôi vội vàng tự chữa lại khi thấy vẻ mặt của anh. “Tốt hơn là tôi không nên nói quá nhiều về chuyện đó… Mà dạo này anh thế nào?”

“Tuyệt! Lấy Anna rồi – nhớ cô ấy không?” Anh ta thoáng chìa ra chiếc nhẫn cưới bạc. “Cố gắng làm một họa sĩ. Tôi làm việc này như nghề tay trái.”

“Anh là cảnh sát à?” Tôi nói vẻ không tin, và anh mỉm cười.

“Họa sĩ cảnh sát. Người ta mô tả hung thủ, tôi vẽ ra; được trả tiền thuê… Vậy còn cô thì sao, Lara? Cô đã kết hôn chưa? Với ai đó?”

Trong một lúc tôi chỉ nhìn anh chằm chằm với nụ cười nhăn nhở.

“Tôi từng cặp với một anh chàng một thời gian,” cuối cùng tôi nói. “Nhưng không thành. Nhưng giờ thì tôi ổn rồi. Thật ra tôi thấy rất thoải mái.”

Tôi siết chặt cốc nhựa đến mức nó nhăm nhúm. Mark trông hơi lúng túng. “Ờ… gặp lại cô sau, Lara,” Anh giơ một bàn tay lên. “Cô tự về nhà được chứ?”

“Tôi sẽ gọi taxi.” Tôi gật đầu. “Cảm ơn anh. Tình cờ gặp lại anh vui thật.”

“Đừng để anh ta đi!” Giọng Sadie vang lên trong tai làm tôi giật thót tim. “Anh ta có thể giúp được đấy.”

“Im đi và để tôi yên,” tôi làu bàu từ bên khóe miệng, nở một nụ cười thậm chí còn tươi hơn nữa với Mark. “Tạm biệt Mark. Cho tôi gửi lời hỏi thăm Anna.”

“Anh ta có thể vẽ chuỗi hạt! Rồi cô sẽ biết phải tìm thứ gì!” Đột nhiên cô ở ngay trước mặt tôi. “Nhờ anh ta đi! Nhanh lên!”

“Không!”

“Nhờ anh ta đi!” Cái giọng nữ thần báo thù của cô ta lại nổi lên, xé thủng màng nhĩ tôi. “Nhờ anh ta đi-nhờ anh ta đi-nhờ anh ta đi…”

Ôi vì Chúa, cô làm tôi quẫn trí mất thôi.

“Mark!” Tôi gọi ầm lên, hai người đàn ông mặc áo phao ngừng tranh cãi và nhìn tôi chằm chằm. “Tôi có chuyện nhỏ xíu này muốn nhờ anh giúp, nếu anh rảnh chút…”

“Chắc chắn rồi.” Mark nhún vai.

Chúng tôi đi vào phòng ngách, lấy hai tách trà từ máy pha sẵn. Chúng tôi kéo ghế đến chỗ cái bàn và Mark lôi tờ giấy với cái bút chì vẽ của anh ta ra.

“Nào.” Anh nhướng mày. “Một chuỗi hạt. Mới à?”

“Tôi thấy nó một lần ở chợ đồ cổ,” tôi ứng biến. “Và tôi rất muốn đặt một cái y như thế, nhưng tôi vẽ tệ lắm, và đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ là có lẽ anh giúp được…”

“Không thành vấn đề. Bắt đầu nào.” Mark nhấp một ngụm trà, cây bút chì lơ lửng trên trang giấy, và tôi liếc lên nhìn Sadie.

“Nó làm bằng hạt,” cô nói, giơ hai bàn tay lên như thể cô hầu như cảm nhận được nó vậy. “Hai hàng hạt thủy tinh, gần như trong suốt.”

“Nó gồm hai hàng hạt thủy tinh,” tôi nó. “Gần như trong suốt.”

“À,” Anh gật đầu, phác họa những cái hạt tròn. “Như thế này?”

“Thon hơn một tí,” Sadie bảo, nhìn qua vai anh, “Dài hơn. Có những hạt kim cương giả xen vào giữa.”

“Những hạt thủy tinh thì thon hơn một tí,” tôi nói vẻ hối lỗi. “Với những hạt kim cương giả xen giữa.”

“Không thành vấn đề…” Mark đang xóa và kéo những hạt thủy tinh dài ra hơn. “Giống thế này à?”

Tôi liếc lên nhìn Sadie. Cô đang nhìn Mark, bị mê hoặc. “Và con chuồn chuồn,” cô thì thào, “Cô không được quên con chuồn chuồn.”

Thêm năm phút nữa, Mark phác họa, xóa đi, và lại phác họa, trong khi tôi nhắc lại lời của Sadie. Chậm chạp, dần dần, chuỗi hạt hiện ra sống động trên trang giấy.

“Chính là nó,” Sadie nói. Mắt cô ngời sáng khi nhìn xuống. “Đó là chuỗi hạt của tôi.”

“Hoàn hảo,” tôi nói với Mark, “Anh đã vẽ chính xác.”

Chúng tôi im lặng ngắm nhìn nó một lúc.

“Đẹp thật,” cuối cùng Mark nói, hất đầu về phía chuỗi hạt, “Khác thường. Làm tôi nhớ tới thứ gì đó.” Anh cau mày trước bức phác họa một lúc, rồi lắc đầu. “Không. Tôi quên mất rồi.” Anh liếc đồng hồ. “Tôi e là tôi phải chạy thôi…”

“Anh cứ đi đi,” tôi nói nhanh nhảu, “Cảm ơn anh rất nhiều.”

Khi anh đi rồi tôi cầm tờ giấy lên và nhìn chuỗi hạt. Phải công nhận là nó rất đẹp. Hai hàng hạt thủy tinh dài, những viên kim cương giả lấp lánh và một cái mặt dây chuyền hình con chuồn chuồn thậm chí còn đính nhiều kim cương giả hơn. “Vậy đây là những thứ mà chúng ta sẽ tìm kiếm.”

“Đúng thế!” cô nhìn lên, mặt đầy sinh khí. “Chính xác! Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?”

“Cô đang đùa chắc!” Tôi với lấy cái áo jacker và đứng dậy. “Giờ tôi sẽ không đi tìm cái gì hết. Tôi sẽ về nhà và uống một ly rượu ngon lành. Rồi tôi sẽ ăn món coóc-ma gà với bánh mì dẹt. Một món ăn hiện đại, mới lạ,” tôi giải thích, nhận thấy vẻ mặt sửng sốt của cô. “Và sau đó tôi sẽ đi ngủ.”

“Vậy tôi sẽ làm gì?” Sadie nói, đột nhiên trông tiu nghỉu.

“Tôi không biết!”

Tôi đi ra khỏi căn phòng ngách, trở lại gian sảnh. Một chiếc taxi đang dừng lại thả hai hành khách lớn tuổi xuống vỉa hè bên ngoài kia, và tôi hối hả chạy ra gọi, “Taxi! Cho tôi tới Kilburn được không?”

Khi taxi lăn bánh, tôi giở bức phác họa ra trên đùi mà ngắm chuỗi hạt lần nữa, cố hình dung ra nó trong đời thực. Sadie tả những cái hạt đó là một loại hạt thủy tinh óng ánh màu vàng nhạt. Ngay cả trong bức phác họa những viên kim cương giả vẫn lấp la lấp lánh. Chuỗi hạt thật hẳn phải lộng lẫy lắm. Cũng đáng giá một chút. Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy một thoáng phấn khích khi nghĩ đến việc thật sự tìm ra nó.

Nhưng giây lát sau, sự tỉnh táo lại kiểm soát bộ não tôi. Ý tôi là, có thể nó chẳng hề tồn tại nữa kìa. Và kể cả nếu nó có tồn tại thật thì cơ hội tìm ra một chuỗi hạt ất ơ nào đó thuộc về một bà cụ đã chết mà có lẽ đã đánh mất hoặc làm vỡ nó từ nhiều năm trước thì chỉ xấp xỉ… một phần ba triệu. Không, một phần ba tỷ.

Tôi gấp tờ giấy lại nhét vào túi, rồi ngả người ra ghế. Tôi không biết giờ Sadie đang ở đâu mà tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi nhắm mắt lại, lờ đi những tiếng rung rù rù liên hồi của điện thoại di động, để mình được chợp mắt. Thật là một ngày tồi tệ.