Giang Sơn Chiến Đồ

Quyển 1 - Chương 10: Thiếu niên hoàng tộc

Không nghi ngờ gì nữa, Trương Huyễn có thiên phú học võ, hắn có thể hiểu biết võ thuật sâu sắc hơn người bình thường, cho nên cái gọi là đao pháp và thứ mà hắn muốn học tuyệt đối không phải là chiêu thức mà là sức mạnh, cũng chính là cơ sở, là nền tảng của vô số mãnh tướng.

Quên mất chiêu thức, học được những tinh hoa trong cách xuất đao, thu đao, phòng ngự có trong đao pháp, thì dù thay đổi đến muôn lần bản chất vẫn không thay đổi, phải hiểu được rằng đao pháp là cái chết còn con người là sự sống, trên chiến trường thiên biến vạn hóa, chỉ cần nắm vững được những tinh hoa của đao pháp thì có thể tùy theo tình hình thực tế mà tùy cơ ứng biến.

Nhưng bất luận chiêu thức có thể biến hóa khôn lường như thế nào, nếu không có lực thì cũng như một cái cây không có rễ, nước không nguồn. Trương Huyễn đã nhận thức được điều này, nếu như hắn muốn trở thành một mãnh tướng giống như Vũ Văn Thành Đô, võ cổ là ngưỡng cửa mà hắn không thể không bước qua.

Nếu không thì, hắn chỉ là một tên lính đầu to hoặc là một võ sư lợi hại một chút mà thôi.

Hắn đã hoàn thành Trúc Cơ, muốn tiếp tục dịch cân nhưng lại không thể bắt tay vào làm, chứ đừng nói là tiếp tục tẩy tủy sâu thêm một tầng nữa.

Tuy nhiên viện khẩn cấp trước mắt bây giờ lại chính là túi tiền bên thắt lưng của hắn, nó đang ngày một ít đi. Đại trượng phu có thể một ngày không có quyền lực nhưng lại không thể một ngày không tiền, hắn nhất định phải đi tìm việc làm.

Hắn có thể mở một sạp hàng nhỏ, làm một tiểu thương giống như bà nội đã qua đời của hắn, người đã tần tảo với sạp hàng nhỏ 20 năm trời nuôi hắn khôn lớn.

Nhưng Trương Huyễn cũng không thiết tha gì lắm với chuyện buôn bán này, sĩ nông công thương, đến thời Tùy mà không đi làm lính lập công dựng nghiệp lại muốn đi làm một thương nhân có địa vị thấp nhất, hơn nữa lại còn chỉ là loại bày bán vỉa hè.

Bà nội trên trời nếu như có linh thiêng biết được chuyện này, nhất định sẽ dùng đế giày mà đánh hắn - một tên không có tiền đồ và chí tiến thủ.

Đến nương tựa Lý Uyên hay là ôm bắp đùi của Lý Thế Dân?

Đây cũng có thể coi là một quyết định không tồi, nhưng nghe nói lớp quan tướng theo Lý Uyên Thái Nguyên khởi binh thì không có một ai trở thành khai quốc công thần, ngược lại tất cả đều trở thành khai quốc tiên liệt, cuối cùng còn phải lăn lộn đủ kiểu, về cơ bản là đều đầu hàng Lý Thế Dân, ví dụ như Uất Trì Cung, Tần Quỳnh …

Thực ra Trương Huyễn cũng không biết bản thân mình có thể làm được gì, trong lịch sử hoàn toàn không có một nhân vật nào tên là Trương Huyễn, dường như thuộc hạ của Lý Uyên cũng không có vị mưu thần hay đại tướng nào tên là Trương Huyễn.

Hoặc là một tiểu tướng lĩnh không có danh tiếng, hoặc là một hào bá phú gia một phương. Thực ra trở thành phú hào cũng không tồi, ruộng vườn vạn khoảnh, thê thiếp thành đàn, đó đã từng là ước mơ của hắn.

Nghĩ đến chuyện thê thiếp thành đàn, khóe miệng của Trương Huyễn liền lộ ra một nụ cười rất hiền, không biết người vợ trong tương lai của hắn sẽ là một người như thế nào, có ngoan ngoãn, đáng yêu như em gái kiếp trước của hắn hay không?

Mấy ngày hôm nay Trương Huyễn cứ nghĩ tới nghĩ lui, quyết định cuối cùng vẫn là gia nhập vào quân Tùy trước cái đã, rồi lăn lộn kiếm lấy một chức quan, đợi sau khi Lý Thế Dân đối đầu thì sẽ nghĩ cách đến nương nhờ y. Hắn vốn là một quân nhân, gia nhập vào quân đội vương triều Đại Tùy thì cũng là chuyện đương nhiên.

Điều quan trọng hơn, hiện tại đã là Đại Nghiệp năm thứ 10 rồi, chỉ còn ba năm nữa là đến lúc đại loạn cuối đời Tùy. Nếu như hắn muốn tiếp tục sống sót trong cảnh loạn lạc, thậm chí là có được cuộc sống tốt hơn, vậy thì thời gian còn lại của hắn cũng không còn nhiều nữa rồi.

….

Lại 2 ngày nữa trôi qua, buổi trưa hôm nay, khi Trương Huyễn giống như mọi ngày, sau khi luyện đao xong, quay trở về từ khu rừng ở bên ngoài thành. Từ sau khi hắn luyện thành công Trúc Cơ, phạm vi hoạt động của hắn đã không còn gói gọn trong mấy người láng giềng nữa mà mở rộng đến tận ngoài thành. Mỗi ngày hắn đều đến khu rừng rậm ở phía tây bên ngoài thành để luyện đao, luyện tập tốc độ và phản xạ.

Hôm nay là ngày mùng 3 tháng giêng, chợ cũ ở bên ngoài thành đã khai trương, rất nhiều những người dân từ trong thành đi ra ngoài mua đồ ăn, hai bên đường bày rất nhiều những quán nhỏ bán đủ các loại tôm cá. Từng tốp từng tốp nữ nhân vây quanh quán nhỏ mặc cả giá, xung quanh cửa thành nhộn nhịp lạ thường. Trên đường, những bông tuyết còn đọng lại cũng vì người qua lại đông như mắc cửi mà bị dẫm nát, ai ai cũng cẩn thận lo sợ bản thân sẽ bị ngã sấp mặt xuống vũng bùn.

Ngày qua ngày, Trương Huyễn cũng đã dần dần làm quen được với cuộc sống của triều Tùy, cảm giác bơ vơ, lạc lõng khi mới lưu lạc đến triều Tùy dần dần biến mất. Hắn vẫn còn nhớ cảm giác vui sướng lần đầu tiên được đi dạo chơi ở chợ cũ, bây giờ nhớ lại, khi đó bản thân hắn nhìn thấy cái gì cũng cảm thấy mới lạ, gặp cái gì là hỏi cái đó, lúc nào cũng hỏi lung tung cái này cái kia, đúng là có chút buồn cười.

Hắn lấy 2 văn tiền mua một cây củ cải hồng tâm mọng nước, vừa gặm vừa thản nhiên bước về phía cổng thành. Khi bước đến cổng thành, bước chân của hắn không khỏi dừng lại, chú ý quan sát bản cáo thị treo thưởng được dán trên tấm bia đá.

Là cáo thị treo thưởng tróc nã Dương Huyền Cảm, khi Trương Huyễn vừa mới đến Lạc Dương thì đã nhìn thấy nó rồi, cáo thị treo thưởng 5 ngàn lượng hoàng kim đổi lấy cái đầu của Dương Huyền Cảm, hoặc là thăng quan ba cấp.

Tuy nhiên tờ cáo thị lần trước bị nước mưa làm ướt và hỏng, hôm nay lại dán lên một tờ cáo thị mới, nội dung không thay đổi, tuy là bình mới rượu cũ nhưng vẫn thu hút rất nhiều người đứng vây quanh trước mặt tờ cáo thị bàn luận sôi nổi.

- Tại sao Dương Huyền Cảm này lại không bị bắt nhỉ? Đã hai tháng rồi mà!

- Đâu chỉ là hai tháng mà là ba tháng rưỡi rồi, tôi vẫn còn nhớ rõ, cái ngày Dương Huyền Cảm bại binh đúng là ngày con trai tôi ra đời, bây giờ con trai tôi đã được ba tháng rưỡi rồi.

- Nghe nói Dương Tố có một kho báu khổng lồ, Dương Huyền Cảm chính vì không tìm thấy kho báu đó nên mới binh bại, không biết kho báu đó ở đâu, hay là chúng ta cũng đi tìm đi!

- Kho báu cái rắm! Nếu thực sự mà có kho báu đó thì còn đợi đến lượt nhà ngươi hay sao, Hoàng đế đã đi đào từ lâu rồi!

- Đúng là rất kỳ lạ, rốt cuộc thì Dương Huyền Cảm đã trốn ở đâu?

Trương Huyễn lại không cảm thấy kỳ lạ chút nào, vận mệnh của Dương Huyền Cảm được Vũ Văn Thuật nắm giữ trong lòng bàn tay, Vũ Văn Thuật muốn dùng y để đổi lấy lợi ích lớn nhất, thì làm sao có thể dễ dàng xử lý Dương Huyền Cảm, nhưng đã ba tháng rưỡi trôi qua rồi, mà Vũ Văn Thuật vẫn chưa động thủ, đủ để chứng minh lòng tham không đáy của ông ta.

Lúc này, từ phía xa truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng chỉ nghe thấy trên đường có một đại đội kỵ binh chạy đến phía cổng thành.

- Các vị hương thân xin hãy nhường đường, Hoàng tôn hồi kinh, xin mọi người giúp đỡ!

Binh lính mở đường ở phía trước cũng khá khách khí, mọi người cũng biết ý nên nhanh chóng đứng dạt vào hai bên đường. Trương Huyễn nhìn thấy binh lính thủ thành đã không cho người vào thành nữa, hắn liền lùi về phía sau vài bước, chen vào trong biển người.

Trong lòng Trương Huyễn có một chút hiếu kỳ, vị Hoàng tôn mà binh lính nhắc tới là ai vậy, hắn liền hỏi một cụ già đứng bên cạnh:

- Xin hỏi ông lão, Hoàng tôn là ai vậy?

Ông lão dường như đang nhìn thấy một động vật quý hiếm, nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi nói:

- Tiểu tử, cậu không phải là người Đại Tùy đúng không? Còn không biết Hoàng tôn là ai? Ta nói cho cậu biết, chính là ba người con trai của Thái tử: Yến Vương Đàm, Việt Vương Đồng và Đại Vương Hựu, hoàng đế Đại Tùy tương lai của chúng ta chính là một trong ba người này, cậu đã nhớ chưa? Đại Vương bây giờ vẫn còn ở thành Trường An, có lẽ là Yến Vương và Việt Vương đi chơi trong tiết Thanh Minh quay về đó.

- Ồ! Đa tạ ông lão!

Một lát sau, đại đội kỵ binh vây quanh hai vị thiếu niên công tử cưỡi ngựa như bay chạy đến. Bọn họ cũng chỉ khoảng mười mấy tuổi, trên người mặc áo bào tím, eo thắt đai ngọc, đầu đội kim quan, môi hồng răng trắng, vô cùng khôi ngô tuấn tú nhưng hắn lại không biết trong hai người họ ai là Dương Đàm, ai là Dương Đồng?

Hai thiếu niên đi đến trước cổng thành thì ghìm chặt dây cương, trong đó có một người dùng roi ngựa chỉ vào cáo thị treo thưởng dán trên tấm bia đá và cười nói:

- Đại ca, chi bằng chúng ta cùng đi bắt Dương Huyền Cảm đi! Hoàng tổ phụ chẳng phải đã nói rằng có lẽ y đang trốn ở quận Hoằng Nông hay sao?

Chàng thanh niên còn lại nói với giọng oán hận:

- Ba tháng rưỡi rồi, Vũ Văn Thuật vẫn không bắt được Dương Huyền Cảm, ông ta thực sự tận tâm tận lực đó ư? Hay là đang có một âm mưu khác?

- Hoàng huynh, nơi đây nhiều người, huynh đừng nói năng lung tung!

Thiếu niên kia im lặng, rồi gã buông một tiếng thở dài:

- Ai! Huynh cũng muốn đích thân bắt được y, phân ưu giải khó cùng với Hoàng tổ phụ, nhưng đáng tiếc Dương Đàm ta lại sinh muộn mất vài năm.

Gã lắc đầu, vung roi quất nhẹ vào chiến mã, chạy về phía cổng thành.

- Đại ca, đợi đệ với!

Thiếu niên còn lại vội vàng thúc ngựa đuổi theo, rồi đại đội kỵ binh cũng nhanh chóng vượt qua cây cầu treo, bảo vệ hai vị Hoàng tôn tiến vào trong thành Lạc Dương.

Những chuyện như người quyền quý đi vào trong thành thì xảy ra như cơm bữa, mọi người đã quen từ lâu rồi, đội kỵ binh biến mất, đường phố lại nhộn nhịp náo nhiệt như cũ, những tiếng rao hàng và hò hét lại vang lên liên tiếp.

Trương Huyễn vẫn đứng yên ở bên đường không nhúc nhích, hắn nhìn chăm chú và tờ cáo thị dán trên bia đá, ánh mắt thoáng hiện lên sự suy tính.

Bố cục của thành Lạc Dương giống như một bàn cờ, bức tường cao phân chia nội thành thành vô số xóm phường, đồng thời, con sông Lạc Thủy chia Lạc Dương thành hai phần: phía bắc thành Lạc Dương có 55 phường, phía nam thành Lạc Dương có 57 phường, về cơ bản là phân chia thành bắc ti nam quý, đó cũng có thể là ranh giới để phân biệt khu người giàu và khu người nghèo.

Mặc dù mỗi khu phố đều có những hàng quán nhỏ bày bán những đồ dùng hàng ngày, củi gạo và dầu muối nhưng những đồ dùng đặc biệt thông thường thì chỉ có thể đến khu chợ lớn mới có thể mua được.

Lạc Dương có ba khu chợ lớn, tục xưng là chợ nam, chợ bắc và chợ tây, trong đó chợ nam được gọi là chợ Phong Đô, là khu chợ lớn nhất trong thiên hạ Đại Tùy.

Khu chợ rộng tám dặm, có tổng cộng 12 cửa ra vào, trong chợ lại được phân chia thành 120 dãy, tổng cộng có hơn 3000 cửa hàng, kỳ trân dị bảo chất đống như núi, thương nhân đến từ khắp nơi trong thiên hạ, tất cả đều tập tụ ở nơi đây.

Bất kỳ nơi nào trong chợ cũng có thể nhìn thấy những đàn lạc đà, chở đầy các loại hàng hóa của thương nhân Túc Đặc, cũng có thể nhìn thấy những người thương nhân Uy Quốc với làn da ngăm đen, dáng người thấp bé, còn có cả thương nhân Tân La, Bách Tể đội mũ cao, mặt không cảm xúc.

Hôm nay là mùng ba tháng giêng, Trương Huyễn còn cho rằng trong chợ Phong Đô sẽ vắng tanh vắng ngắt, các cửa hàng vẫn sẽ đóng cửa nhưng mọi thứ đều nằm ngoài dự liệu của hắn. Trong chợ vẫn cứ nô nức, náo nhiệt như thường, nhìn đâu cũng thấy người, những tiếng rao hàng phía trước những cửa hàng, tiếng gọi nhau í ới liên tiếp vang lên.

Một tháng trước Trương Huyễn đã từng đến thăm quan chợ Phong Đô, khi đó hắn không có chủ định mua đao, chỉ là đi ra ngoài thăm quan đó đây một vòng, nhưng bởi vì hắn là người luyện võ nên hắn vẫn nhớ rõ vị trí chỗ bán binh khí.

Vương triều Đại Tùy cũng giống như các vương triều khác trong lịch sử, đều có những quy định khắt khe về binh khí trong dân gian. Nỏ, binh khí dài và hoành đao sử dụng trong quân đội không được phép bày bán, chỉ cho phép bán đao kiếm và cung tên bình thường.

Nhưng nó cũng có điểm khác biệt với những vương triều còn lại. Quy định này chỉ mang tính tượng trưng, có lệ, đặc biệt là khi bốn phía của Đại Tùy đều nổi lên khói lửa thì nó đã chẳng có nghĩa lý gì.

Có lẽ là vì nguyên nhân thời buổi loạn lạc đang dần tới cho nên chuyện buôn bán của cửa hàng binh khí vô cùng sôi động, mấy cửa hàng tương đối lớn đều đông nghìn nghịt khách hàng.

Trương Huyễn vẫn mặc chiếc áo dài vải mịn màu xanh nhạt, trên vai vác một cái túi, bên trong là tất cả gia tài của hắn -10 quan tiền.

Đây cũng là điểm bất tiện của triều Tùy, nếu như mua đồ quý giá, nào là phải dùng xe bò kéo một xe tiền đến chợ, nào là dùng hoàng kim. Mặc dù hoàng kim không phải là tiền pháp định nhưng tất cả các cửa hàng đều thu nhận, dù sao thì giá cả của hoàng kim trong thời buổi loạn lạc chỉ có thể là càng ngày càng được giá.

Không có xe bò cũng không có hoàng kim, vậy thì chỉ có thể giống như Trương Huyễn, khiêng theo mấy chục cân tiền ngũ thù đi mua đồ.

Hắn bước đến phía trước một cửa hàng binh khí ở phía đông, trước mái hiên có treo một tấm bảng hiệu lớn, bên trên có viết hai chữ “Võ Đức” một cách rồng bay phượng múa.

Chính là cửa hàng này, Trương Huyễn đã từng nghe Vương Bá Đương nhắc tới, Lưu chưởng quỹ cửa hàng binh khí Võ Đức ở trong chợ Phong Đô là một người nhạy bén với thông tin, không chỉ bán những loại binh khí bị cấm mà còn có thể nghe ngóng được một số thông tin quan trọng.

Bước vào trong cửa hàng, chỉ nhìn thấy trên tường treo đầy các loại đao kiếm cung tiễn, ở chính giữa trên một chiếc giá bày biện hàng trăm thanh kiếm thanh đao rẻ tiền, lựa chọn tùy thích. Đứng bên cạnh là một tên tiểu nhị, tay cầm một cây côn đồng, lạnh lùng quan sát động tác của mỗi người.

Một tên tiểu nhị khác thì bán những thanh kiếm thanh đao được treo trên tường, tên này nhiệt tình lắm, rõ ràng là mấy thanh đao kiếm trên tường kia sắc bén và đắt tiền hơn.

Chưởng quầy của cửa hàng thì lồng hai tay vào trong hai ống tay áo, cười ha ha nhìn khách hàng. Ông ta là một người đàn ông trung niên khoảng hơn 40 tuổi, họ Lưu, dáng người béo tròn, câu nói cửa miệng của ông ta là “ Biết chữ võ viết như thế nào không? Dừng thương lại!”, dường như câu nói này dùng để cứu rỗi tội nghiệt mà ông ta bán binh khí giết người tạo nên.

Một đám sĩ tử đang vây quanh chiếc giá ở trước mặt lựa chọn kiếm dài, tục ngữ có câu “văn kiếm võ đao”, nam nhân đeo kiếm là truyền thống của vương triều Đại Tùy, đặc biệt là những người đọc sách, người người đều đeo một thanh trường kiếm hoặc là hoa lệ hoặc là đơn giản, từ thanh trường kiếm cũng có thể nhìn ra gia cảnh của người đeo nó.

Nhưng đối với người luyện võ thực sự thì rất ít khi mua thanh trường kiếm đẹp mà không có tác dụng, phần lớn mọi người đều mua những thanh đao có thể chặt chém, đặc biệt là thanh hoành đao trong quân đội thì rất được mọi người yêu thích.

Trương Huyễn bước thẳng đến trước mặt chưởng quản, chắp tay cười nói:

- Xin hỏi ngài đây có phải là Lưu chưởng quỹ?

- Chính là tại hạ!

Chưởng quầy vui vẻ cười nói đáp lại:

- Công tử tới mua đao?

Ánh mắt của ông ta rất nhạy bén, mới lướt qua thôi mà đã biết Tương Huyễn không phải là kiểu người thư sinh thích đeo kiếm, Trương Huyễn liền cười tươi đáp lại:

- Mấy thanh đao bên kia dường như quá nhẹ, tôi muốn mua một thanh đao nặng một chút.

- Nặng một chút à, có đấy, đi theo ta!

Chưởng quầy dẫn Trương Huyễn đến một quầy khác ở bên kia, lấy ra vài thành đao cười nói:

- Trọng lượng của đao không giống như kiếm, nó có những quy định cố định, thường có 4 loại là ba cân, năm cân, tám cân và mười cân. Nếu như người mua có yêu cầu đặc biệt thì chỉ có thể đến những lò rèn chuyên môn để làm thôi.

Những thanh đao mà chưởng quầy đưa ra đều là đao tám cân và mười cân. Trương Huyễn lần lượt cầm mấy thanh đao đó lên và xem. Mặc dù trọng lượng của thanh đao mười cân khá vừa tay nhưng chất lượng của mấy thanh đao này rõ ràng là không tốt, trên sống đao thậm chí còn có thể nhìn thấy bọt khí, nó kém xa thanh đao mà Vương Bá Đương tặng cho hắn.

Hắn cởi thanh đao bên hông của mình xuống, cười hỏi:

- Không có loại nào như thế này hay sao?

Chưởng quầy nhìn quan thanh đao trong tay của Trương Huyễn, ông ta liền hiểu ra ngay hóa ra là hắn muốn mua một thanh đao thượng đẳng dùng trong quân đội, ông ta liền gật đầu và nói:

- Mời đi theo tôi!

Hai người cùng bước vào trong phòng. Trong phòng chất đầy tất cả các loại đao kiếm. Chưởng quầy lấy từ trong hòm ra 5-6 thanh hoành đao, và khẽ nói:

- Đao của công tử là hoành đao chuyên dùng trong quân đội, không được phép bán công khai. Chỗ của tôi có 6 thanh trọng đao thượng đẳng, công tử có thể chọn lấy một thanh.

Trương Huyễn tùy ý nhặt lên một thanh hoành đao, nhẹ nhàng rút đao ra khỏi vỏ thì hắn chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh âm u tĩnh mịch, vô cùng sắc bén, quả nhiên là không giống với những thanh đao lúc trước.

Hắn lại nhặt lấy một thanh hoành đao khác biệt, nặng khoảng mười cân, vô cùng thuận tay, kiểu dáng rất thịnh hành vào thời xưa. Trương Huyễn rút thanh đao ra, một luồng khí lạnh phả vào mặt, hắn nhẹ nhàng vuốt lưỡi đao lạnh như băng, cảm nhận sự sắc bén đến mức thanh đao này có thể chặt đứt một sợi lông, tiện tay hắn múa may vài cái, nhất thời căn phòng lóe lên những ánh hàn quang, quả nhiên là một thanh đao tốt, khiến hắn yêu thích không nỡ đặt xuống.

Chưởng quầy giơ ngón tay cái lên nheo mắt tán thưởng:

- Công tử quả là có con mắt tinh tường! Đây chính là một trong 3000 thanh Thiên Ngưu đao được Quân khí Giám chế tạo ra vào năm Khai Hoàng thứ 15, được chế tạo từ thép ròng, vũ khí chuyên dụng của thị vệ trong cung, trên thị trường không mua nổi đâu, tôi đây cũng chỉ có duy nhất một thanh.

Trương Huyễn thản nhiên đáp lại:

- Ý ngài là, thanh đao này rất đắt?

- Đúng như lời của công tử.

Chưởng quầy cười ha hả đáp lại:

- Tiền nào của nấy mà, thanh đao này tôi chỉ bán cho người biết nhìn đao, vốn dĩ là định bán với giá 80 quan nhưng nếu như công tử có thành ý muốn mua thì tôi để lại cho với giá 50 quan.

Trương Huyễn để đao xuống và cười nói:

- Thật ra hôm nay tôi tới đây là muốn hỏi thăm một chuyện?

Chương quầy sau khi biết rằng hắn đến đây không phải là mua đao, sắc mặt liền tỏ ra thất vọng, hỏi lại với giọng không vui:

- Công tử muốn hỏi thăm chuyện gì?

Trương Huyễn nói nhỏ với ông ta vài câu, chưởng quầy cảnh giác liếc mắt nhìn hắn, trầm tư một lúc rồi nói:

- Nếu như công tử đã đến đây tìm ta thì chắc cũng biết chỗ của ta có một quy tắc.

Trương Huyễn lấy ra năm quan tiền đặt lên bàn, chưởng quầy liền lắc đầu, Trương Huyễn lại lấy ra nốt năm quan tiền cuối cùng đặt lên trên bàn và nói:

- Tôi chỉ có ngần ấy thôi!

Chưởng quầy hạ giọng đáp lại:

- Ở phường An Nghiệp có một nhà …