Ngày 25 tháng 7, 2 giờ 14 phút sáng.

Cologne, Đức.

Đối với Gray, vào nhà thờ ban đêm luôn có vẻ như bị ma ám. Ở ngôi nhà của Chúa này có lẽ không có nơi nào hơn. Từ sau vụ thảm sát vừa rồi, nhà thờ Cologne với cấu trúc Gô- tích lại càng toát ra vẻ thê lương.

Khi nhóm của anh đi qua quảng trường, Gray đã nhìn kỹ cái nhà thờ ở Cologne này, hay như dân địa phương vẫn gọi là Dom. Nhà thờ được những ngọn đèn pha chiếu sáng từ bên ngoài, lấp lánh giữa ánh sáng bạc và bóng tối. Nằm trọn bên mặt phía tây của nhà thờ là hai cái tháp khổng lồ. Cái tháp sinh đôi này cùng một độ cao, càng lên cao càng nhỏ lại, ở mỗi bên tháp có các cửa sổ lớn chỉ cách nhau vài mét. Trên tận đỉnh là những hình chữ thập trông ở dưới lên nhỏ xíu. Mỗi tầng của cấu trúc cao năm trăm feet này đều được trang trí bằng các bức phù điêu. Các cửa sổ vòm cong trèo lên tận đỉnh tháp, tất cả đều hướng lên bầu trời đêm và mặt trăng tít ở trên cao.

“Trông giống như họ chiếu sáng cho chúng ta.” Monk nói, kinh ngạc trước cảnh nhà thờ được thắp đèn sáng trưng. Anh ta xiết ba lô chặt vào vai hơn nữa.

Cả ba người đều mặc quần áo dân sự màu sẫm, nhằm tránh không ai để ý. Nhưng bên trong, mỗi người họ đều mặc loại áo giáp chống đạn bằng tinh thể lỏng. Những chiếc ba- lô của họ đều màu đen, nhãn hiệu Arcteryx được nhét đầy dụng cụ nghề kể cả vũ khí được một nhân viên CIA chuyền cho tại sân bay: Súng lục M-27 với loại đạn 40 ly trang bị ống ngắm ban đêm.

Monk còn mang thêm khẩu súng ngắn loại Scattergun cột vào đùi bên trái trong chiếc áo khoác dài. Vũ khí họ mang theo đã được tính toán như thông lệ cho những phi vụ đặc biệt, trong đó có cả loại đặc biệt có ống kính ngắm chính xác chuyên dùng vào ban đêm. Kat lại thích tloại không cần công nghệ cao. Cô mang theo tám con dao giấu trong người. Bất cứ lúc nào một lưỡi dao cũng có thể xuất hiện trong tay dù cho cô ở vị trí nào.

Gray kiểm tra lại chiếc đồng hồ thợ lặn Breitling của mình. Kim đồng hồ chỉ 2 giờ 15 phút. Họ đến đúng giờ.

Họ vượt qua quảng truờng. Gray nhìn một lượt xem trong góc tối có gì khả nghi không. Tất cả có vẻ yên ắng. Vào lúc khuya khoắt như thế này trong tuần, khu vực quảng trường gần như vắng tanh. Chỉ có một vài kẻ lang thang. Bọn họ đều say xỉn sau khi bước ra từ các quán bar, loạng choạng đi trên hè phố. Nhưng cũng có dấu vết của các cuộc tụ tập trước đó. Những bó hoa của những người đến viếng nằm lăn lóc ở góc quảng trường cùng với những vỏ lon bia. Đây đó còn sót lại các mẩu nến chưa cháy hết sau buổi lễ tưởng niệm những người vừa chết, còn có cả những tấm hình của nạn nhân. Một vài cây nến vẫn cháy, lửa lập loè trong đêm, đơn độc và buồn thảm.

Một buổi lễ thắp nến được tổ chức ở một nhà thờ kế bên cùng với lễ tưởng niệm cả đêm, có cả phần truyền dẫn trực tiếp lời cầu nguyện của Giáo hoàng. Tất cả đã kết hợp lại làm cho quảng trường vắng không một bóng người đêm nay.

Mặc dù vậy, Gray và đồng đội vẫn cảnh giác nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh. Họ không muốn mạo hiểm.

Đỗ trước cửa nhà thờ là một chiếc xe thùng có dán lô-gô cảnh sát thành phố ở hai bên. Chiếc xe được sử dụng như chỉ huy sở của các nhóm điều tra. Ngay sau khi vừa xuống sân bay, Gray đã được Logan Gregory, chỉ huy hành quân và là nhân vật số hai của Sigma, thông báo rằng tất cả các nhóm điều tra địa phuơng vào lúc nửa đêm đã bị điều ra ngoài nhưng họ sẽ trở lại vào sáng hôm sau, lúc 6 giờ. Từ giờ đến lúc đó sẽ chỉ có bọn họ trong nhà thờ.

Nhưng, thực ra không phải chỉ có bọn họ.

Một trong những chiếc cửa ngách của nhà thờ được mở ra khi họ tới gần. Một bóng người cao, gầy đứng trước nền ánh sáng hắt ra từ bên trong nhà thờ. Một cánh tay giơ lên.

“Ngài Verona”. Kat khẽ thì thầm, khẳng định đúng ông ta.

Vị linh mục đi qua hàng rào do cảnh sát dựng quanh nhà thờ. Ông nói với một trong hai lính gác, đứng ở đó để chắn mọi con mắt tò mò vào nơi xảy ra vụ án mạng, rồi ra hiệu ba người đi vào.

Họ theo ông vào bên trong.

“Đại uý Bryant,” ông khẽ nói với nụ cười đôn hậu. “Mặc dù hoàn cảnh thật khủng khiếp nhưng tôi rất vui được gặp lại cô”.

“Cảm ơn, giáo sư”. Kat đáp lại với nụ cười thân thiện. Vẻ mặt cô dịu lại trước tình bạn thật sự.

“Hãy gọi tôi là Vigor”.

Họ bước vào gian tiền sảnh nhà thờ.

Ông khép cửa, khoá lại rồi nhìn chăm chú hai đồng đội của Kat.

Gray cảm thấy sức nặng của cái nhìn. Người đàn ông này cũng cao gần bằng anh nhưng tầm thước hơn. Mái tóc muối tiêu của ông trải ngược phía sau, hơi cuộn sóng. Ông mặc một chiếc áo khoác cắt rất mốt, bên trong là chiếc quần gin xanh thẫm và áo sơ mi cổ khoét hình chữ V, kiểu của các linh mục Vatican.

Tuy nhiên, chính cái nhìn chằm chặp của ông khiến Gray để ý. Mặc dù điệu bộ vồn vã nhưng ở con người này vẫn có cái gì đó thật lạnh lùng. Ngay cả Monk cũng phải nhô đôi vai lên trước cái nhìn của linh mục.

“Vào trong đi” Vigor nói “Chúng ta phải bắt đầu ngay lập tức”.

Ông dẫn mọi người đến gian thờ, mở cánh cửa đang khép lại rồi vẫy họ vào bên trong.

Bước vào chính giữa gian thờ, Gray ngay lập tức để ý hai thứ. Đầu tiên là mùi vị. Dù nồng nặc hương trầm nhưng vẫn cảm nhận được thoang thoảng mùi khét của thứ gì đó bị đốt cháy.

Đấy cũng chưa phải là tất cả những gì thu hút sự chú ý của anh. Một phụ nữ đứng dậy từ chỗ hàng ghế cầu nguyện để chào họ. Cô trông giống như Audrey Hepburn hồi còn trẻ: da trắng như tuyết, mái tóc nâu sẫm xòa ra hai bên được cài sau vành tai, đôi mắt màu caramen. Cô không cười. Cặp mắt cô nhìn cả nhóm một lượt, dừng lại lâu hơn ở chỗ Gray.

Anh nhận ra nét hao hao giống nhau giữa hai người, chủ yếu ở cách nhìn chăm chú của cô hơn là khuôn mặt.

“Cháu gái tôi” Vogor giới thiệu “Trung úy Rachel Verona”.

Họ xong phần giới thiệu rất nhanh. Dù cho không có sự phân cách nào bên ngoài nhưng hai nhóm vẫn tiếp tục tách biệt. Rachel vẫn giữ một khoảng cách, thậm chí cứ như sẵn sàng sử dụng khẩu 9 ly của cô nếu cần thiết. Gray cũng để ý bao súng lục của cô bên trong áo vét. Khẩu Berretta 9 ly.

“Chúng ta cần bắt đầu ngay” Vigor nói. “Vatican đã tạo điều kiện cho chúng ta đôi chút riêng tư, thời gian riêng để cầu nguyện tại giáo đường sau khi những xác chết cuối cùng được mang đi”.

Ông dẫn họ đến chỗ lối đi giữa.

Gray chú ý những chỗ được đánh dấu bằng băng dính trên các hàng ghế. Mỗi mẩu giấy nhỏ xíu được đính vào, ghi lên đó tên của người chết. Anh bước quanh những đường vạch bằng phấn trắng trên sàn nhà thờ. Máu tuy đã được lau sạch nhưng vẫn còn những vệt sẫm trên nền đá của nhà thờ. Những mẩu nhựa màu vàng đánh dấu vị trí vỏ đạn đã được những chuyên gia tội phạm nhặt đi rồi.

Anh nhìn ngang qua giáo đường, phân vân không hiểu trông nó như thế nào nếu bước chân vào lần đầu tiên. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi, mùi máu cháy nồng nặc. Anh cũng gần như cảm nhận được tiếng vọng của nỗi đau còn lưu giữ trong nền đá hay trên vòm mái. Cảm nhận đó làm anh thấy ớn lạnh. Dù gì anh cũng là một người theo đạo Cơ đốc. Thật đau lòng khi thấy vụ thảm sát đã vượt qua ngưỡng bạo lực thông thường. Đấy là điều báng bổ đối với Chúa. Lũ quỷ Satan.

Liệu có phải đó là một phần động cơ không?

Biến một buổi lễ thành một vụ thảm sát đen tối.

Câu nói của linh mục thu hút sự chú ý của anh “Kia là nơi tìm thấy cậu bé đang lẩn trốn”. Ông chỉ vào phòng xưng tội sát bức tường phía bắc, nằm giữa giáo đường dài hút.

Jason Pendlenton, người sống sót duy nhất.

Phần nào Gray cũng cảm thấy hài lòng vì không phải mọi người đều bị giết hết trong cái đêm đẫm máu đó. Bọn gây tội ác đã mắc một sai lầm. Chúng đều có thể sai lầm. Con người mà.

Anh tập trung vào suy nghĩ ấy. Mặc dù hành động của chúng là của quỷ dữ nhưng bàn tay gây tội ác là của con người như những điều khác. Vậy chúng là quỷ dữ dưới hình dạng con người.

Nhưng con người đều có thể bị bắt và trừng phạt.

Họ đã tới gian thờ riêng được xây cao hơn xung quanh trên đó có bàn thờ bằng đá cẩm thạch và cái ghế cao của vị giám mục. Vigor và cô cháu làm dấu thánh giá. Vigor quỳ một chân làm lễ rồi đứng dậy. Ông dẫn họ đi qua một cái chắn ngang. Phía sau cái chắn, bàn thờ cũng được đánh dấu bằng phấn, mặt đá cẩm thạch bị hoen ố. Cảnh sát đã ngăn chỗ này lại.

Lật nghiêng một bên trên sàn, làm vỡ cả chỗ đá lát nền là cái hòm đựng quan tài bằng vàng. Mặt trên của nó tựa vào hai bậc đá. Gray tháo balô ra rồi ngồi xuống.

Cái quan tài được làm bằng vàng trông như một nhà thờ thu nhỏ, với những cửa sổ vòm cong và cảnh sắc khắc trạm bằng vàng và đá quý các loại mô tả cuộc đời của đức chúa Jesu từ khi ban thưởng cho các vị Tiên tri đến khi bị đóng đinh câu rút.

Gray đeo đôi găng tay cao su. “Có phải di cốt đã được táng ở đây không?”

Vigor gật đầu. “Từ thế kỷ thứ XIII”

Kat đến cạnh anh, “Tôi thấy họ đã lấy dấu vân tay rồi,“ Cô chỉ vào chỗ bột màu trắng còn sót lại ở một số nét khắc chạm.

“Không tìm thấy dấu vân tay nào.” Rachel nói.

Monk nhìn quanh nhà thờ. “Cũng không có gì nữa bị lấy đi?”

“Người ta đã tiến hành kiểm kê toàn bộ,” Rachel tiếp tục. “Họ đã có dịp phỏng vấn tất cả nhân viên, kể cả các linh mục.”

“Tôi muốn gặp nói chuyện với họ.” Gray khẽ nói, vẫn quan sát cái hộp.

“Họ ở phía bên kia sân.” Rachel đáp, giọng như rắn lại. “Chả ai nghe hoặc nhìn thấy gì cả. Nhưng nếu anh muốn mất thời gian của mình, xin cứ việc.”

Gray ngước nhìn cô. “Tôi chỉ nói có thể tôi muốn nói chuyện với họ”.

Cô nhìn lại không chớp mắt. “Tôi cảm thấy vụ này là một sự phối hợp chung. Nếu như chúng ta kiểm tra lại công việc của nhau mỗi bước đi, e rằng sẽ không đi đến đâu cả.”

Gray hít một hơi dài. Mới vào cuộc được một phút, anh đã giẫm vào ngón chân người khác. Lẽ ra mình phải đọc được sự hiếu thắng của cô ta từ trước và bước đi thận trọng hơn.

Vigor đặt tay lên vai cô cháu gái. “Tôi đoan chắc với anh rằng cuộc thẩm vấn rất triệt để. Trong các đồng nghiệp của tôi, những câu nói thô lỗ luôn thái quá so với ý thức tốt, tôi sợ anh có thể phải hứng thêm điều gì đó không hay nhất là khi họ bị thẩm vấn bởi một ai đó không mặc áo linh mục”.

Monk nói: “Thôi được rồi. Nhưng liệu mọi người có muốn nghe tôi nói không nào?”

Mọi cặp mắt đều đổ dồn về anh ta. Anh ta cười ranh ma. “Tôi tin là mình đang hỏi xem còn có cái gì nữa bị lấy đi không?”

Rachel nhìn anh chàng không khoan nhượng. “Như tôi đã nói, không có…”

“Vâng, cảm ơn trung uý. Nhưng tôi tò mò muốn biết liệu còn có những di vật khác được giữ ở nhà thờ này. Một vật nào đó bọn ăn cắp không đem đi.”

Rachel chau mày, bối rối.

“Tôi đồ rằng,” Monk giải thích, “rằng những gì bọn ăn cắp không đem đi không được thông tin như những gì chúng đã lấy.” Anh ta nhún vai.

Mặt cô bỗng hơi dãn ra khi nghe điều đó. Sự cáu giận biến mất.

Gray thầm nghĩ sao Monk lại làm vậy.

Linh mục trả lời Monk. “Ở đây có một gian đựng đồ quý. Nó chứa những thứ giá trị từ thời nhà thờ Rô- măng, từ cây thánh giá của Thánh Peter. Cùng với vài mẫu thánh giá của đức chúa Jesu. Cũng có những thứ của một vị giám mục Gô- tích vào thế kỷ XIV và một thanh kiếm khảm ngọc của Elector từ thế kỷ XV.”

“Và không có gì bị lấy đi từ gian chứa đồ đó?”

“Tất cả đều được kiểm kê.” Rachel trả lời. Mắt cô vẫn tập trung. “Không có gì nữa bị lấy cắp”.

Kat ngồi xuống cùng với Gray nhưng mắt cô vẫn nhìn nhóm người đang đứng. “Vậy chỉ có chỗ di cốt bị lấy trộm đi. Tại sao?”

Gray hướng sự chú ý của mình vào cái quan tài đang mở. Anh lấy ra một cái bút soi rồi kiểm tra bên trong. Không có đường chạm vạch, chỉ là bề mặt bằng vàng nhẵn nhụi. Anh nhận thấy có một chút bột trắng rớt xuống bên dưới. Bột? Tro hài cốt?

Chỉ có một cách để tìm ra.

Anh quay lại ba-lô, lấy ra bộ đồ thu thập chứng cứ. Anh bật một cái máy hút nhỏ xíu chạy bằng pin để hút chất bột đó vào một ống nghiệm vô trùng.

“Anh đang làm gì vậy?” Rachel hỏi.

“Nếu đây là bột từ chỗ di cốt, có thể trả lời được vài câu hỏi.”

“Ví dụ như?”

Anh ngồi xuống kiểm tra ống nghiệm. Có tới hơn một gam chất bột màu xám. “Chúng ta có thể thử xem thứ bột đó có đúng là di cốt đã có từ lâu không. Sẽ biết liệu thứ di cốt bị đánh cắp có phải thuộc về người đã sống từ thời đức chúa Jesu. Hoặc không phải. Biết đâu tội ác này được thực hiện nhằm thu hồi di cốt của ai đó trong Long Đình. Một vị lãnh chúa già hoặc hoàng tử nào đấy.”

Anh niêm phong ống nghiệm rồi cất đi. “Tôi cũng muốn lấy ít mẫu nắp hộp thuỷ tinh bị đập vỡ trong cái vỏ đựng an toàn bên ngoài quan tài. Có thể sẽ cho biết tại sao thiết bị đó lại đập vỡ được thuỷ tinh chống đạn bắn xuyên. Các phòng thí nghiệm của chúng tôi có thể kiểm tra các thứ này để tìm ra phương thức đập”.

“Tôi sẽ làm điều đó.” Monk nói và tháo cái balô ra.

“Thế còn đá?” Rachel hỏi. “Hoặc các vật liệu khác bên trong nhà thờ?”

“Cô định nói gì?” Gray hỏi.

“Thứ gì đấy đã gây ra những cái chết cho những người đi lễ có thể đã tác động đến đá, cẩm thạch và nhựa. Cái mà mắt thường không nhìn thấy.”

Gray đã không lưu ý điều này. Lẽ ra anh phải làm chuyện đó. Monk nhìn anh rồi nháy mắt. Nữ trung uý cảnh sát đang chứng tỏ mình không chỉ là một cô gái đẹp.

Gray quay lại Kat để tổ chức phương án thu thập. Nhưng xem ra cô còn đang bận tính toán điều gì. Từ nãy Gray đã để ý cô có vẻ rất quan tâm đến cái quan tài bằng vàng, tất cả hình như vẫn trong đầu cô. Giờ thì cô ngồi xổm trên nền đá cẩm thạch của nhà thờ, gập người xuống vật gì đó.

“Kat?”

Cô giơ một tay lên. “Chờ một chút.” Tay kia cầm cái đèn pin nhỏ như khẩu súng. Cô bóp cò, một ngọn lửa nhỏ màu xanh phụt ra. Cô gí ngọn lửa vào một đám bột, rõ ràng vừa được quét ra từ chiếc hộp bằng một bàn chải nhỏ xinh xinh.

Sau vài giây, thứ bột màu xám tan ra, sủi bong bóng và chảy thành một chất lỏng màu hổ phách. Nó lan ra trên nền đá cẩm thạch rồi đông cứng lại thành thuỷ tinh. Một lớp mỏng trên sàn đá cẩm thạch màu trắng nhìn rất rõ.

“Vàng.” Monk nói. Tất cả mọi con mắt đều đổ dồn vào thí nghiệm.

Kat ngồi xệp xuống, tắt ngọn lửa. “Chất bột trong quan tài, nó cũng chính là thứ trong bánh xốp bị tẩm độc. Nguyên tử đơn hoặc vàng ở trạng thái-m.”

“Đó là vàng?” Rachel hỏi. “Giống như một thứ kim loại quý?”

Sigma đã cung cấp cho Vatican thông tin về bánh thánh bị đầu độc để sau này việc sản xuất và cung cấp có thể được kiểm tra chặt chẽ. Cả hai nhân viên đã được thông báo, nhưng rõ ràng họ vẫn nghi ngờ.

“Liệu cô có chắc không?” Rachel hỏi.

Kat đang bận rộn chứng minh điều giả thuyết của mình. Cô đang thu thập mọi thứ cho vào một vật bằng thuỷ tinh. Gray biết được tính năng của cái lọ đó. Tất cả đều do các phòng thí nghiệm của Sigma cung cấp để thực hiện phi vụ này. Đã bao năm rồi, những người thợ mỏ đã sử dụng thứ này để phát hiện xem vàng có lẫn trong đất đá hay không.

Sau một hồi, thuỷ tinh co lại như bị đốt bằng a-xít rồi dần lộ ra vết tích của vàng nguyên chất, một vệt trong chiếc lọ thuỷ tinh. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Ngài Verona trố mắt nhìn không chớp, một tay vẫn cầm cái cổ áo linh mục của mình. Ông lẩm bẩm. “Và những đường phố Jerusalem sẽ được lát bằng vàng thật tinh khiết như thuỷ tinh trong suốt.”

Gray liếc nhìn vị linh mục bực bội.

Vigor lắc đầu. “Đó là trích dẫn từ một cuốn sách...đừng trách tôi.”

Nhưng anh đã thấy cách ông ta thu vào tận trong rồi quay đi và tiếp tục nghĩ ngợi. Liệu ông ta có biết nhiều hơn không? Gray cảm giác có lẽ vị linh mục cũng chả biết nhiều lắm mà anh cũng cần có thời gian để tập trung suy nghĩ.

Kat ngắt lời. Cô vẫn cúi gập người xem mẫu qua chiếc kính lúp khuếch đại và đèn soi cực tím. “Tôi cho rằng ở đây còn có thứ ngoài vàng nữa. Tôi đã thấy những vạch li ti của chất bạc trong chỗ vàng.”

Gray dịch đến gần hơn. Kat nhường cho anh nhìn qua ống kính thí nghiệm, lấy tay che cái lọ thuỷ tinh để có thể hấp thụ tia cực tím tốt hơn. Đúng là có những hạt lấm tấm màu bạc trong đường vạch vàng kim loại.

“Có thể là platinum,” Kat nói, “Nên nhớ rằng trạng thái đơn nguyên tử không chỉ xảy ra với vàng mà còn đối với bất kỳ kim loại có khả năng truyền dẫn nào trong bảng tuần hoàn, bao gồm cả platinum.”

Gray gật đầu. “Thứ bột này không chỉ là vàng nguyên chất mà còn là một hỗn hợp của vài loại platinum. Hỗn hợp nhiều kim loại ở trạng thái-m.”

Rachel tiếp tục nhìn chăm chú vào cốc thí nghiệm. “Liệu có phải thứ bột này bị rơi ra từ cái vỏ hộp đựng quan tài? Vàng có bị phân rã theo năm tháng hay một thứ gì đó không?”

Gray lắc đầu. “Quá trình chuyển hoá từ vàng kim loại sang trạng thái –m rất phức tạp. Năm tháng không thôi không thể làm được điều này.”

“Nhưng trung uý có thể đã đề cập tới điều gì đó. “Kat đáp lại. “Có thể thiết bị ấy tác động vào vàng trong hòm làm cho một số vàng nào đó bị tan chảy ra. Chúng ta vẫn chưa hiểu thiết bị tác động ra sao?”

“Có thể tôi có một dấu vết.” Monk ngắt lời cô.

Anh ta đang đứng cạnh cái hộp bị đập vỡ nơi anh đang cố thu thập những mảnh vỡ. Anh bước tới một cây thánh giá bằng sắt sần sùi không xa cái hộp.

“Có vẻ như trong số các chuyên gia điều tra tội phạm đã bỏ qua một quả đại bác.” Monk nói. Anh cúi xuống nhặt lên một cái vỏ rỗng dưới chân tượng đức chúa Jesu bị đóng đinh. Anh lui một bước, đặt cái vỏ rỗng về phía cây thánh giá rồi bỏ tay ra. Nó rơi quá sáu feet không khí rồi bùm một cái dính chặt vào cây thánh giá.

“Nó có nam châm.” Monk nói.

Một tiếng nổ nữa vang lên. To hơn. Sắc nhọn. Cây thánh giá bị quằn đi một nửa.

Trong nửa giây, Gray không hiểu có chuyện gì xảy ra. Monk cúi xuống bàn thờ. “Nằm xuống.” Anh thét lên.

Những phát súng khác nổ.

Gray cảm thấy như vai mình bị ai đánh, làm anh bật ngửa ra, nhưng cái áo giáp chống đạn bằng chất lỏng đã cứu anh khỏi bị thương. Rachel nắm lấy tay anh kéo vào hàng ghế. Những viên đạn bắn vào ghế làm tung các mẩu gỗ rơi xuống nền đá cẩm thạch.

Kat chúi xuống cùng với vị linh mục, lấy thân mình che cho ông ta.

Cô nhận một phát đạn vào đùi, chân gập khuỵu xuống nhưng cả hai đều ngã xuống sau bàn thờ cùng với Monk.

Gray chỉ kịp nhìn thoáng những kẻ tấn công họ.

Những kẻ mặc áo choàng tu sĩ che mặt.

Một tiếng giật khẽ. Gray liếc nhìn thấy một vật tròn như nắm tay được tung ra phía khoảng rộng của nhà thờ.

“Lựu đạn”. Anh hét lên.

Anh giật lấy cái ba-lô rồi đẩy Rachel chúi xuống dưới hàng ghế. Họ khom người chạy ra phía bức tường phía nam.

***

3 giờ 20 phút

Monk chỉ kịp phản ứng khi nghe Gray hét lên. Anh nắm lấy tay Kat và linh mục rồi nằm rạp xuống phía sau bàn thờ đá.

Quả lựu đạn trúng vào phía bên kia rồi nổ, nghe như trái đạn cối. Một trận mưa những mảnh đá cẩm thạch tung lên cao rồi rơi rào rào xuống những hàng ghế của người đi lễ. Khói toả ra bốc lên cao.

Tai như bị điếc sau tiếng nổ, Monk chỉ biết kéo Kat và Vigor đứng dậy. “Theo tôi”.

Nếu còn nằm ở đây trong khoảng trống này có nghĩa là chờ cái chết. Ném một quả lựu đạn vào phía sau bàn thờ thật dễ như trở bàn tay. Họ cần tìm một vị trí có thể tự vệ được.

Monk lao ra phía trước tới bức tường phía bắc. Phía sau anh, tiếng súng vẫn nổ chát chúa. Gray vọt đến bức tường đối diện. Cũng tốt. Một khi vào vị trí, họ có thể tạo ra bắn chéo cánh sẻ vào khoảng giữa nhà thờ.

Thoát khỏi bàn thờ, Monk chạy dọc ngang quanh khu cấm. Anh hướng tới chỗ nấp đầu tiên, nhìn thấy một cánh cửa gỗ to. Những kẻ tấn công cuối cùng cũng phát hiện việc họ đã thoát. Đạn bắn xối xả dọc theo nền đá cẩm thạch, lúc thì đan nhau thành hàng rồi bắn tung vào các hàng ghế. Đạn bắn từ bốn phía. Những kẻ sát nhân đã chiếm được vị trí sâu hơn bên trong nhà thờ, chúng đi vào từ các cửa, bao bọc họ.

Họ cần có yển trợ.

Monk giật khẩu súng giắt sau lưng. Khẩu súng lục nòng tù. Giương súng lên, anh bóp cò thật mạnh. Cùng với tiếng nổ chát chúa, anh nghe tiếng ngã bịch từ hàng ghế gần đó. Với khẩu súng Scattergun, sự chính xác không thật cần thiết lắm.

Nắm chặt báng súng anh lại ngắm tới tay nắm cửa. Thực ra hy vọng tìm được lối thoát ra bên ngoài thật mong manh, nhưng ít nhất cũng cần phải dọn quang khu vực giữa. Cách đó vài bước, anh bóp cò khi nghe tiếng phản đối yếu ớt từ ngài Verona.

Không còn thời gian để tranh cãi nữa.

Phát súng tạo ra một lỗ thủng to bằng nắm tay trên cánh cửa. Nó mở toang sau khi chạm vào vai anh. Anh ngã vào trong, theo sau là Kat và linh mục. Kat quay lại, khập khiễng rồi đẩy cửa lại.

“Không.” Linh mục nói.

Monk giờ đây hiểu lý do tại sao ông phản đối.

Căn phòng chỉ rộng cỡ cái gara nhỏ đủ chứa một chiếc xe. Anh trố mắt nhìn vào những chiếc hộp lớn bằng thuỷ tinh lèn chặt áo choàng cũ, phù hiệu, tượng… Có ánh lấp lánh vàng từ một vài cái hòm.

Nơi đây chính là gian phòng đựng báu vật của nhà thờ.

Không có lối thoát.

Bị kẹt rồi.

Kat ngồi dậy, chiếm vị trí, tay cầm khẩu súng tự động chọc qua cái lỗ vừa bị phá. “Chúng đã đến rồi”.

3 giờ 22 phút

Rachel tiến đến cuối hàng ghế, thở không ra hơi, tim đập thình thịch. Những phát súng tiếp tục hướng vào vị trí của họ, đến từ mọi phía, làm những mảnh gỗ nhỏ bắn tung toé.

Đầu cô vẫn ong ong sau tiếng nổ của trái lựu đạn lúc nãy, nhưng tai cô đã nghe lại được bình thường. Chắc chắn những linh mục và nhân viên ở khu nhà bên kia đã nghe thấy tiếng nổ và báo cảnh sát tới.

Tiếng súng nổ như chậm lại một chút khi những kẻ mặc áo choàng chỉnh lại vị trí, hướng về lối đi ở giữa.

“Hãy chạy về bức tường kia.” Gray giục cô, “Nấp vào cột, tôi sẽ yểm trợ cho cô”.

Rachel phát hiện một chỗ có những con trăn bằng đá lớn dùng để đỡ mái vòm. Nấp ở đây có lẽ tốt hơn ở dưới những cái ghế. Cô quay lại nhìn anh chàng người Mỹ.

“Theo tín hiệu của tôi.” Anh nói, co chân lại. Cặp mắt họ gặp nhau. Cô thấy một thoáng sợ hãi nhưng nhiều hơn vẫn là vẻ tập trung kiên quyết. Anh gật đầu nhìn cô, nhô người ra rồi hét. “Chạy”.

Rachel vọt ra khỏi dãy ghế trong khi những phát súng nổ chát chúa phía sau át cả tiếng súng của bọn tấn công. Đó là từ khẩu súng của viên chỉ huy không có giảm thanh.

Cô lướt trên nền đá cẩm thạch rồi lẩn ra sau phía ba chiếc cột. Cô thu chân lại rồi lập tức quay lại sau cái cột lớn nhất. Thận trọng nhìn ra ngoài, cô thấy viên chỉ huy Pierce giật lùi về phía cô, hai khẩu súng trong tay vẫn nhả đạn.

Một kẻ mặc áo choàng ở cuối hàng ghế ngã ngửa ra sau, trúng đạn. Một tên khác ở lối vào giữa hét lên đỡ lấy cổ hắn khi những tia máu vọt ra. Những tên khác phải chúi người xuống tránh đòn tấn công của anh chàng Mỹ. Bên trong nhà thờ, Rachel phát hiện có tới năm, sáu tên đang bò lổm ngổm trên sàn nhà thờ, bắn liên tục vào gian phòng đựng báu vật.

Rồi cô cũng thấy chỉ huy Pierce tới được chỗ mình, thở hổn hển. Quay lại nhìn sang phía bên kia cột dọc theo bức tường, Rachel thấy đến giờ vẫn chưa có kẻ nào bao vây đường này cả. Nhưng chắc chắn, chúng sẽ tới rất nhanh, cô giả định.

“Bây giờ làm gì đây?” Cô hỏi, rút khẩu súng lục từ bao trên vai, khẩu Beretta anh cảnh sát đưa cho cô từ lúc ở Rome.

“Hàng cột này chạy song song với bức tường. Chúng ta phải bám lấy, bắn tất cả những gì động đậy.”

“Mục tiêu của chúng ta?”

“Ra bằng được khỏi cái bẫy chết người này.”

Rachel chau mày. Thế còn những người khác thì sao?

Anh chàng người Mỹ hình như hiểu được sự băn khoăn của cô.

“Chúng ta cố ra được ngoài đường rồi tìm cách kéo ra ngoài càng nhiều tên khốn kiếp càng tốt.”

Cô gật đầu. Họ sẽ đóng vai trò nghi binh. “Chúng ta đi nào”.

Những chiếc cột chạy dọc theo tường phía nam cứ cách hai mét lại có một cái. Họ lao rất nhanh, đầu cúi thấp, lợi dụng hàng ghế bên giáo đường như cái chắn bổ sung. Chỉ huy Pierce bắn phía bên trong khi Rachel làm nản lòng bất kỳ kẻ nào tiến vào từ lối đi giữa bức tường và hàng cột, nhắm vào bất cứ bóng đen nào chuyển động.

Chiến thuật đó tỏ ra hiệu quả. Nhiều tiếng súng hướng về phía họ. Nhưng cũng đặt họ vào nỗi hiểm nguy của một cuộc tấn công thứ hai bằng lựu đạn. Họ chỉ mới đi tới nửa đường và thật khó có thể nhảy từ cột này qua cột khác.

Anh chàng Mỹ bị một phát vào lưng, ngã vật xuống sàn, Rachel hét lên nhưng anh lại ngồi dậy được.

Rachel tiếp tục dịch xuống lối đi, sát vào bức tường hơn, chĩa súng phía trước rồi lại quay về sau. Do cô quá tập trung phía ngoài nên lại mắc đúng sai sót như những kẻ tấn công đêm hôm trước.

Phía sau cô, căn phòng xưng tội mở tung. Trước khi kịp né tránh thì một cánh tay thò ra xiết chặt lấy cổ cô. Vũ khí của cô bị giật khỏi tay. Một nòng súng lạnh ngắt đã gí sát vào người.

“Không được động đậy!” Một giọng trầm ra lệnh khi chỉ huy Pierce quay lại. Cánh tay của kẻ lạ mặt như chiếc thòng lọng xiết chặt làm cô thấy ngạt thở. Gã cao quá, một kẻ khổng lồ nhấc cô lên cao.” Vứt vũ khí xuống”.

Tiếng súng chấm dứt. Thế là rõ vì sao không có quả lựu đạn thứ hai được quẳng về phía họ. Trong khi hai người nghĩ rằng mình đang thoát được thì những kẻ tấn công đã dồn họ vào bẫy.

“Nếu là tôi thì sẽ làm như ông ta ra lệnh”. Một giọng nói mềm mại từ phòng con kế bên phòng xưng tội. Cánh cửa mở rồi người thứ hai bước vào, mặc toàn đồ da đen.

Đó không phải là linh mục. Mảnh dẻ, lai Âu- Á.

Cô ta nhấc súng lục, khẩu Sig Sauer. Chĩa thẳng vào mặt Gray.

“Chúng ta đã gặp nhau rồi, phải không chỉ huy Pierce?”

***

3 giờ 26 phút

Chính cái cửa lại là vấn đề. Giờ đây khi ổ khóa bị bắn tung ra, mỗi viên bắn vào hình như đều xuyên qua cái lỗ đó. Và họ không dám giữ nó khép lại. Hầu hết các phát súng đều bắn nã vào cửa gỗ nhưng vài viên tìm được chỗ yếu xuyên thủng cánh cửa.

Monk dùng một chân ghì chặt khung cửa, còn gót chân giữ lấy cánh cửa trong khi né người sang một bên. Những viên đạn bắn trúng cánh cửa làm đầu gối anh rung lên bần bật.

“Hãy giúp tôi nào.” Anh cầu cứu.

Anh thò khẩu súng nhằm qua cái lỗ cửa bắn mò. Vỏ đạn trở lại đập vào một trong những chiếc hộp lớn đựng báu vật. Bên ngoài cánh cửa, những phát súng Scattergun liên tục làm cho bọn tấn công e ngại nên chỉ dám nằm bắn từ xa. Hình như chúng cũng biết những con mồi đã sa bẫy.

Vậy chúng còn đợi gì nữa?

Monk chờ một quả lựu đạn được ném qua cánh cửa vào bất cứ lúc nào. Anh cầu nguyện bức ngăn mong manh này có thể giúp mình sống sót. Nhưng giờ sẽ là cái gì đây?

Rồi khi cánh cửa bị bung ra, họ chẳng còn cơ may nào nữa.

Và việc ứng cứu cũng là vô vọng. Monk đã nghe thấy tiếng súng của Gray vang trong nhà thờ. Nghe như anh ta đang rút về phía cửa chính. Monk hiểu rằng chỉ huy đang thu hút hỏa lực của đối phương. Đó là lý do duy nhất vì sao họ vẫn sống sót.

Nhưng giờ đây, tiếng súng của Gray đã im lặng.

Họ phải đối mặt chính mình.

Một loạt đạn nữa bắn vào cánh cửa, làm nát khung cửa, cái chân chắn cửa của Monk đau ê ẩm. Đùi anh bắt đầu run.

“Mọi người, cố lên.”

Tiếng khóa loảng xoảng đập vào tai anh. Ngài Verona đang đánh vật với chùm chìa khóa người gác nhà thờ đưa cho. Ông cố mở bằng được cái hộp lớn thứ ba có khả năng chống đạn. Cuối cùng là tiếng thở phào nhẹ nhõm. Ông tìm thấy chìa khóa và nắp hộp bật tung giống như một cánh cửa.

Kat với tay qua vai ông lấy ra một chiếc kiếm dài ở trong hộp. Chiếc kiếm từ thế kỷ XV được mạ vàng và đính hạt ngọc ở chuôi. Nhưng lưỡi kiếm dài tới ba feet, bằng thép sáng loáng. Cô giằng lấy thanh kiếm rồi đâm chiếc kiếm xuyên qua cánh cửa và khung, giữ chặt chúng lại.

Monk kéo chân lại, lấy tay xoa cái đầu gối mỏi nhừ. “Đã đến lúc rồi.” Anh lại chĩa súng ngắn qua lỗ cửa rồi bóp cò - chủ yếu vì bực tức hơn là hy vọng có thể bắn trúng tên nào.

Loạt đạn bất ngờ làm cho chúng phải lui lại. Monk mạo hiểm liếc ra ngoài. Một tên nằm vật ngửa trên lưng một nửa đầu bị bắn nát văng đi đâu mất, máu tóe khắp nơi. Một trong những phát súng anh bắn ra đã kiếm được mục tiêu.

Nhưng giờ đây những kẻ tấn công thôi không bắn qua lỗ nữa.

Một trái dứa màu đen nhẵn nhụi lăn qua hàng ghế hướng về cánh cửa chỗ họ trú. Monk nằm ẹp xuống sàn đá.

“Hãy bắn qua cái lỗ đó!”

***

3 giờ 28 phút

Tiếng nổ rung cả nhà thờ thu hút mọi cặp mắt trừ Gray. Anh chả có thể làm gì được cho những người khác.

Một nụ cười hiểm ác thoáng trên gương mặt của gã đàn ông cao kều.

“Hình như đồng đội của mày…”

Rachel cựa quậy. Lợi dụng khi gã đang hể hả, nới lỏng tay với cô vì xem thường người phụ nữ mảnh dẻ này. Rachel ngửa đầu đập vào cằm hắn một cái thật mạnh để nghe hai hàm răng của gã đập vào nhau cộp một tiếng.

Quay nhanh một vòng thật tốc độ, cô đá thật mạnh gót chân vào cánh tay gã rồi vung tay ra đưa cùi chỏ đánh mạnh vào hạ bộ của hắn. Gray vung khẩu súng về phía Long nương. Nhưng cô ả nhanh hơn, bước lên trước, gí khẩu súng vào đôi mắt anh, cách chưa đầy vài centimet.

Bên kia, gã cao kều ngã khuỵu xuống. Rachel lấy chân gạt khẩu súng của y sang một bên.

“Chạy đi!” Gray hét lên với cô, nhưng anh vẫn nhìn vào ả Long nương.

Ả nhân viên hiệp hội nhìn anh - và rồi một việc thật kỳ quặc. Ả quay nòng súng về phía cửa rồi gật đầu ra hiệu.

Ả để cho anh đi.

Ả không bắn nhưng vẫn giữ khẩu súng hướng vào anh sẵn sàng nhả đạn nếu có hành động gì chống lại.

Thay vì ngẫm nghĩ về sự không thể này, Gray xoay người lại rồi bắn thẳng vào những tên linh mục ở đó, hạ gục hai tên đứng gần nhất. Chúng bị tiếng nổ của trái lựu đạn làm phân tâm và bất ngờ trước sự thay đổi ở đây.

Gray nắm lấy tay Rachel rồi kéo cô ra phía cửa thoát.

Một phát súng ngay sau lưng anh. Anh bị bắn vào cùi tay, vật người lại, trượt bước. Khẩu súng của Long nương có vệt khói. Cô ả đã bắn Gray khi cố vực gã cao kều đứng dậy. Máu chảy trên mặt ả. Một vết thương tự gây ra che giấu thân thế của ả. Cô ta đã cố tình bắn trượt.

Rachel vực Gray đứng dậy rồi lao ra phía sau cái cột cuối cùng. Cánh cửa ra ngoài tiền sảnh đã nằm ngay phía trước. Không ai chắn đường họ cả.

Gray mạo hiểm quay lại về phía tiếng súng nổ bên trong nhà thờ. Khói bốc lên từ cánh cửa nổ tung. Những kẻ tấn công vẫn bắn liên tục qua lối vào, để chắc chắn không cho ai có thể thoát được. Rồi một trong số chúng ném quả lựu đạn thứ hai ngay qua cánh cửa đã bị phá hủy.

Những tên khác nằm chúi đầu xuống khi quả lựu đạn nổ.

Khói và các mảnh vụn tung tóe khắp nơi.

Gray quay đi. Rachel cũng chứng kiến vụ tấn công. Nước mắt trào ra trên đôi mắt cô. Anh thấy cô dựa vào anh, đôi chân như mềm đi. Có cái gì bên trong anh cũng đau đớn trước sự đau khổ của cô. Anh đã mất những người đồng đội trong quá khứ. Anh đã được đào tạo để khóc lúc sau đó.

Nhưng cô đã mất gia đình.

“Chạy tiếp đi”, anh nói kiên quyết. Đó là những gì anh có thể làm được. Anh phải đưa cô đến nơi an toàn.

Cô liếc nhìn anh, hình như lấy lại sức mạnh từ vẻ mặt rắn rỏi của anh. Đó là điều cô cần. Không có sự thương xót. Sức mạnh. Anh đã thấy nó ở chiến trường trước đây, những người lính trong lửa đạn. Cô đứng thẳng dậy.

Anh nắm cánh tay cô.

Cô gật đầu. Sẵn sàng.

Họ cùng nhau chạy, lao vọt qua cửa ngoài.

Hai kẻ sát nhân đang đứng gác ở phía ngoài, cạnh ngay xác chết của hai nhân viên cảnh sát Đức. Những người lính gác chỗ rào chắn. Cặp linh mục này không làm ai ngạc nhiên.

Một tên trong bọn chúng bắn ngay lập tức, làm Gray và Rachel phải dạt sang một bên. Họ không thể chạy ra cửa ngoài nhưng một chiếc cửa nữa nằm ngay ở phía trái họ.

Không còn cách nào khác, họ khom người qua. Gã thứ hai giương súng lên. Một quả cầu lửa lao về phía họ. Gã có một khẩu súng phun lửa chết tiệt. Gray đóng sập cửa lại, nhưng ngọn lửa đã liếm xuống phía dưới. Gray lui lại. Không có khóa ở cửa.

Anh liếc nhìn phía sau.

Những bậc thang dẫn lên trên.

“Cầu thang lên tháp.” Rachel nói.

Thêm những phát súng nã vào cánh cửa.

“Lên thôi”, anh nói.

Anh đẩy Rachel đi trước anh rồi họ leo lên chiếc cầu thang cuốn. Đằng sau và ở phía dưới, cánh cửa bị đạp bật tung ra. Anh nghe một giọng quen thuộc hét lên bằng tiếng Đức. “Bắt bằng được bọn chúng! Thiêu sống chúng đi!”

Đó là gã cao kều, kẻ cầm đầu bọn linh mục.

Những tiếng bước chân vọng trên các bậc thang bằng đá.

Do chiếc cầu thang xoáy chôn ốc nên không bên nào có thể dễ dàng nã đạn vào bên kia nhưng dù sao những kẻ truy đuổi vẫn có lợi thế hơn. Trong khi Gray và Rachel đang chạy, một ngọn núi lửa đuổi theo họ, liếm xung quanh đoạn ngoặt của cầu thang.

Lượn vòng rồi lại lượn vòng, cứ thế họ chạy. Các bậc thang ngày càng hẹp dần khi họ leo tới cái cổ chai của tháp. Những cánh cửa sổ cao nhem nhuốc nằm trên lối đi nhưng quá mỏng manh để trèo lên.

Cuối cùng thì cầu thang cũng dẫn đến ngọn tháp. Một cái chuông lớn đung đưa trên tháp chuông. Quanh quả chuông lớn là một bao lơn. Ở đây ít ra các cửa sổ cũng đủ rộng để trèo qua nhưng những chấn song lại rất hẹp.

Một cái chòi quan sát. Không còn đường nào nữa. Quang cảnh thành phố hiện ra trước mắt anh: dòng sông Ranh lấp lánh dưới ánh đèn; cây cầu Hohenzollen bắc ngang qua, bảo tàng Ludwig được chiếu sáng thật lộng lẫy, cũng giống như những cánh buồm màu xanh lơ trên Nhạc viện Cologne. Nhưng không có cách nào có thể thoát xuống dãy phố phía dưới.

Từ xa đã có thể nghe thấy tiếng còi báo động vẳng tới, rền rĩ, xa xôi và buồn tẻ.

Gray giương mắt lên nhìn, tính toán. Một tiếng thét từ Rachel. Gray quay lại, thấy một ngọn lửa đang bùng lên như ngoạm lấy chỗ cầu thang dẫn đến tháp chuông. Rachel lui lại, chạm vào anh.

Họ đã không còn thời gian.

***

3 giờ 34 phút

Phía dưới, bên trong nhà thờ, Yaeger Grell bước vào căn phòng bị tàn phá, súng trong tay. Hắn đợi đến lúc khói từ quả lựu đạn thứ hai tan đi hết. Hai đồng bọn của hắn đã nhập với những tên khác để tạo ra những trái bom lửa cuối cùng gần lối vào nhà thờ.

Hắn cũng muốn nhập với tụi đó nhưng lúc này hắn muốn nhìn tận mắt sự tàn phá đối với những kẻ đã giết Renard, đồng chí của hắn. Hắn bước qua, chuẩn bị cho việc tiếp cận với máu tươi và những cái bụng bị vỡ toang.

Phần còn lại của cánh cửa làm cho việc trèo qua rất đáng ngại. Hắn giơ khẩu súng ra phía trước. Khi hắn đến bước thứ hai, có cái gì đó đập mạnh vào tay hắn. Hắn lui lại một bước, giật mình không hiểu có chuyện gì xảy ra. Nhìn xuống đã thấy cổ tay hắn đứt rời, máu vọt ra. Không đau đớn gì cả.

Hắn đứng lên đúng lúc để thấy một lưỡi kiếm - cái kiếm - vung lên trên không trung. Nó chạm đến cổ hắn trước khi vẻ ngạc nhiên biến mất trên khuôn mặt. Hắn không còn cảm thấy gì nữa khi người đổ xuống trước còn cái đầu thì bị lật ngược ra phía sau.

Rồi hắn vật xuống, cứ thế ngã mãi khi trái đất tối sầm lại.

***

3 giờ 35 phút

Kat lui lại rồi hạ thấp chiếc kiếm có đính hạt ngọc. Cô cúi xuống, giật lấy cánh tay rồi kéo cái xác ra khỏi tầm mắt ở phía cửa. Đầu cô vẫn ong ong sau khi quả lựu đạn nổ.

Cô thì thào với Monk - ít nhất cô cũng hy vọng mình nói rất khẽ. Cô cũng không nghe được chính giọng của mình nữa.

“Hãy giúp ngài linh mục.”

Monk tròn mắt nhìn từ cái xác bị chặt đầu đến thanh kiếm đẫm máu trong tay cô, ánh mắt anh mở to nửa vì sốc mạnh nửa vì thán phục. Anh bước tới một trong những chiếc hòm đựng châu báu rồi đưa tay giúp linh mục bước ra ngoài. Cả ba người đã chui vào trong một chiếc hòm chống đạn bắn xuyên, biết rằng thế nào chúng cũng ném quả lựu đạn thứ hai vào.

Đúng như vậy.

Cái hòm đó đã làm tròn nhiệm vụ của mình, bảo vệ thứ báu vật quý giá nhất: Tính mạng của họ. Những mảnh lựu đạn bắn tung khắp gian phòng nhưng nhờ nấp dưới tấm thủy tinh tránh đạn họ đã sống sót.

Đó là ý kiến của Kat.

Sau rốt, dù cho tai vẫn bị ù nhưng Kat cố lăn ra khỏi cái hòm và tìm thấy thanh kiếm gắn đá quý nằm trên sàn. Nó trở thành một thứ vũ khí thật thích hợp lúc này với cô hơn là khẩu súng lục. Cô không muốn có tiếng nổ báo động những tên khác.

Tuy nhiên, tay cô vẫn còn run. Cô vẫn còn nhớ trận chiến đấu bằng dao cuối cùng ở… và hậu quả. Cô nắm chặt kiếm, lấy thêm sức mạnh từ lưỡi thép.

Đằng sau cô, ngài Verona loạng choạng đứng dậy. Ông nhìn xuống hai chân mình như không tin là chúng vẫn còn dính vào đó.

Kat quay ra phía cửa. Trừ tên bị chết, không đứa nào trong số kẻ tấn công để ý. Chúng tụ tập ở cửa.

“Chúng ta phải rời thôi”. Kat ra hiệu. Đi sát vào tường, cô dẫn họ lao ngang qua lối thoát phía trước, tránh bọn gác. Cô tới đoạn vòng nơi giáo đường cắt ngang rồi vẫy họ đi vòng ra phía trước.

Sau khi đã qua khỏi tầm nhìn của bọn gác, linh mục chỉ tay ra phía trước. “Đi lối này.” Ông thì thào.

Còn những cánh cửa phía sau nữa. Lối thoát nữa. Không có ai gác.

Cầm chặt chiếc kiếm từ thế kỷ XV trong tay, Kat vội vã thúc họ lên phía trước. Họ đã sống sót.

Thế còn những người khác thì sao?

3 giờ 38 phút

Rachel nã súng xuống lối cầu thang xoáy chôn ốc, đếm từng viên trong ổ đạn. Chín viên. Họ vẫn còn đạn nhưng không còn thời gian để nạp nữa. Chỉ huy Pierce đang rất bận rộn.

Không còn cách nào khác, cô bắn bừa bãi, thỉnh thoảng lại nã một phát làm cho bọn chúng phải cảnh giác. Ngọn lửa phụt lên tiếp tục tấn công cô, vươn ra như lưỡi của con rồng lửa.

Tình trạng nguy hiểm này không thể kéo dài mãi.

“Gray.” Cô hét lên, bỏ qua cả chức vụ của anh.

“Chờ một chút.” Anh trả lời từ phía bên kia tháp chuông.

Khi ngọn lửa lan đến chỗ tháp chuông, Rachel nhắm bắn rồi bóp cò. Cô phải giữ chân chúng lại. Viên đạn trúng vào tường đá rồi bật trở lại cầu thang.

Băng đạn trong khẩu súng của cô bật mở.

Hết đạn.

Cô lui lại rồi đi vòng sang bên kia tháp chuông.

Gray đã tháo cái ba-lô xuống rồi buộc sợi dây thừng vào chấn song cửa sổ. Anh buộc đầu kia vào thắt lưng còn một tay cầm chiếc túi. Anh lấy ra chiếc tua-vít lớn rồi cố sức cậy cho hai chấn song cửa rộng ra để người chui qua được.

“Giữ lấy đầu dây.” Anh nói.

Cô nắm lấy cái dây ni lông dài khoảng năm mét. Đằng sau cô, một ngọn lửa mới vừa được bắn ra.

Gray nắm lấy ba-lô rồi tiếp tục cố chui qua hai chấn song cửa sổ. Ra đến chỗ bao lơn bằng đá, anh ném chiếc túi rồi quay lưng lại phía cô. “Dây thừng”.

Cô đưa cho anh. “Cẩn thận đấy”.

“Hơi chậm mất rồi”.

Anh nhìn xuống dưới qua những ngón chân. Không phải là một việc khôn ngoan nên làm, Rachel suy nghĩ. Cú nhảy xuống từ hai trăm mét chắc chắn sẽ làm yếu đầu gối của bất cứ ai, còn bây giờ sức mạnh của chân là điều quan trọng nhất.

Gray hướng mặt về cái tháp phía nam của nhà thờ.

Cách đó bốn mét, qua một cú nhảy chết người là tới tháp phía bắc.

Anh em sinh đôi với tháp này. Chẳng phải ngăn cản người chui qua nên không có những chấn song ngang ở cửa sổ tháp bên kia. Nhưng thật khó có hy vọng nhảy được từ cửa sổ này sang cửa sổ khác nhất là khi đang ở tư thế đứng thẳng. Thay vào đó, Gray hy vọng có thể lao ra ngoài rồi nắm lấy bất cứ cái gì có thể túm được ở bề mặt được trang trí của tháp đối diện.

Họ phải nhảy tàu.

Gray khom người xuống. Rachel nín thở, lấy một tay che ngực.

Không chút chần chừ, Gray nhoai ra rồi nhảy cong người lại, treo lơ lửng trên đầu sợi dây. Anh bay qua khoảng không rồi đạp mạnh vào khung cửa sổ. Anh nhoai người ra giơ cả hai tay cố túm lấy một vật gì đó…thật may mắn đã tóm được. Nhưng cũng bị phản ứng đập trở lại. Cánh tay anh không thể giữ thân người anh được, anh bắt đầu rơi.

“Chân trái của anh.” Cô hét lên thật to.

Anh nghe tiếng cô hét. Ngón chân trái bám lấy mặt đá bên ngoài và chạm được vào tượng một con vật mặt quỷ ở phía dưới. Anh đặt chân lên đầu nó. Rồi anh lại thò tay ra tóm lấy một vật nữa, tiếp tục đặt chân phải. Bám lấy như một con ruồi dính lên tường. Anh lấy một hơi thật sâu, cố giữ thật vững rồi leo qua cửa sổ.

Rachel không thể đợi được nữa. Cô chui qua những chấn song cửa sổ. Nơi đây đầy cứt chim bồ câu, gió thổi vù vù.

Sang qua được bên kia, Gray xiết chặt đầu dây ở chỗ anh làm thành một cái cầu. “Nhanh lên, tôi sẽ giúp cô”.

Cô bắt gặp cặp mắt của anh qua khoảng trống rồi tìm thấy sức mạnh cũng như sự tự tin.

“Tôi sẽ đỡ.” Anh nhắc lại.

Nuốt một hơi, cô nhoài ra. Không được nhìn xuống, cô suy nghĩ rồi nắm lấy sợi dây. Tay nọ tiếp tay kia. Đó là tất cả những gì cô phải làm.

Cô nghe thấy tiếng chuông phía sau. Giật mình cô quay lại rồi nhìn thấy một vật hình như trái bom đang lao ra từ phía cái bao lơn bằng đá.

Cô chưa hiểu đó là cái gì, nhưng chắc không phải là điều hay.

Cũng chả cần phải có thêm những lời động viên nữa, Rachel đu vào sợi dây, chân tay đạp lung tung. Gray thò tay ra với được cô.

“Bom” Cô kêu lên, ngoái đầu hướng về phía tháp bên kia.

“Cái gì?’

Tiếng nổ ngắt tất cả mọi từ. Bị dồn đẩy từ phía sau, Rachel được kéo vào bên trong, ngã vào ngực Gray. Cả hai ngã xuống sàn của tháp chuông. Một bức tường lửa tràn qua họ từ phía cửa sổ, nóng rực.

Gray ôm cô thật chặt, lấy thân mình che cho cô.

Nhưng ngọn lửa nhanh chóng bị gió thổi tạt đi.

Gray xoay người khi Rachel nhỏm dậy. Cô nhìn lại tháp phía nam. Ngọn tháp vẫn còn bốc cháy. Những lưỡi lửa thè ra từ bốn cánh cửa sổ. Cái chuông vẫn còn ở phía bên trong đám cháy lớn.

Gray đến chỗ cô. Anh kéo sợi dây. Nút buộc ở phía bên kia đã bị cháy rụi, cắt đứt luôn cái cầu. Nhìn qua khoảng trống, chấn song cửa đỏ rực.

“Thiết bị cháy.” Anh nói.

Ngọn lửa gặp gió mạnh như ngọn nến trong đêm. Ca tưởng niệm cuối cùng đối với những người đã chết đêm hôm trước và đêm nay. Rachel hình dung nụ cười đau đớn của bác cô. Chết. Nỗi buồn chạy trong người cô, cùng với cái gì đó nóng hơn, sắc nhọn hơn. Cô loạng choạng nhưng Gray đã đỡ cô.

Tiếng còi cảnh sát rền rĩ trong thành phố, vọng lên chỗ họ nghe rõ mồn một.

“Chúng ta phải đi thôi.” Anh nói.

Cô gật đầu.

“Họ nghĩ là chúng ta đã chết. Hãy cứ để mọi việc như vậy đã.”

Cô để mặc anh dẫn mình đi xuống cầu thang. Họ vội vã đi xuống qua cầu thang ngoằn nghèo. Tiếng còi báo động nghe rõ hơn và cũng gần hơn, một tiếng động cơ ô tô gầm lên rồi vụt đi, tiếp đó là tiếng chiếc thứ hai.

Gray kiểm tra qua cửa sổ. “Chúng đang chuồn.”

Rachel nhìn ra. Ba tầng dưới kia, hai chiếc xe màu đen đang rời, lao nhanh qua quảng trường người đi bộ.

“Tôi có cảm giác chuyện này chẳng hay ho gì.” Gray nói.

Anh vội vã lao xuống, nhảy qua nhiều bậc thang. Rachel chạy theo, hoàn toàn tin vào khả năng của anh.

Họ xuống đến tầng dưới cùng. Một trong những cánh cửa dẫn đến giáo đường mở hé. Rachel liếc nhìn vào trong nhà thờ, ở nơi đó bác cô đã chết. Nhưng có vật gì đó thu hút sự chú ý của cô, gần hơn trên nền nhà thờ, nằm chình ình ở lối đi giữa.

Những quả chuông bạc.

Khoảng một tá hay nhiều hơn. Được quấn chung quanh bằng những sợi dây màu đỏ.

“Chạy.” Cô hét lên, quay gót chạy.

Cùng nhau chạy, họ đến cửa chính rồi lao vào quảng trường.

Không nói một lời cả hai chạy đến chỗ nấp duy nhất. Chiếc xe thùng của cảnh sát Đức đậu trên quảng trường. Họ núp phía sau chiếc xe khi các thiết bị phát nổ.

Giống hệt như buổi đốt pháo bông, cái nọ nối tiếp cái kia, liên tục.

Tiếng thủy tinh vỡ rào rào, tiếng nổ bốp bốp. Rachel ngước nhìn lên. Cái cửa sổ kính vĩ đại kiểu Bavarian nằm ngay trên cửa ra vào, được xây dựng từ thời Trung cổ vỡ tung thành một đống các mảnh vỡ vụn, thủy tinh pha lê.

Cô nằm ẹp xuống dưới chiếc xe khi cơn mưa thủy tinh đổ xuống quảng trường, chung quanh họ một cơn mưa chết người.

Một thứ gì đó đập mạnh vào bên kia chiếc thùng xe nghe đánh rầm một cái. Rachel cúi xuống, nhìn qua những bánh xe. Từ phía kia, một trong những cánh cửa lớn bằng gỗ của nhà thờ đổ sập xuống hè phố, cháy âm ỉ.

Rồi nghe có giọng nói mới. Giọng ngạc nhiên. Bị nghẹn lại. Đến từ trong chiếc xe. Rachel liếc nhìn Gray. Đột nhiên anh cầm một con dao trong tay, đột nhiên xuất hiện như có phép màu.

Họ vòng chung quanh chiếc xe.

Trước khi họ kịp chạm tay vào nắm cửa, cửa mở toang.

Rachel nhìn không thể tin vào mắt mình khi thấy anh chàng đồng đội béo mập của Gray bước ra. Theo sau là đồng đội nữ tay cầm chiếc kiếm dài. Và cuối cùng là một bóng người quen thuộc, thân thương.

“Bác Vigor.” Rachel reo lên ôm chặt ông.

Ông ôm hôn cô cháu gái. “Này tại sao,” ông hỏi, “mọi người hình như đều muốn cho tôi nổ tung lên nhỉ?”

***

4 giờ 45 phút

Một giờ sau, Gray đi đi lại lại trong căn phòng khách sạn, vẫn bực bội, thần kinh căng thẳng. Họ đã sử dụng căn cước giả để đăng ký phòng, nhanh chóng làm sao rời khỏi nhà thờ thật nhanh. Khách sạn Cristall trên quảng trường Ursulaplatz nằm cách nhà thờ không xa, chỉ khoảng nửa dặm, một ngôi nhà nhỏ xinh xắn mang dáng dấp Scandinavia.

Họ đến đây để tập hợp nhau lại, lập kế hoạch hành động.

Nhưng điều đầu tiên họ cần có thêm những thông tin mới.

Có tiếng chìa khóa mở cửa. Gray đặt tay lên khẩu súng. Anh không muốn bị bất ngờ. Nhưng chính là ngài Verona vừa trở về sau khi đi tuần tra.

Vigor đẩy cửa bước vào. Vẻ mặt rất nghiêm trọng.

“Có gì vậy?”

“Cậu bé đã chết.” Ông nói.

Những người khác tiến đến gần hơn.

Vigor giải thích, “Jason Pendleton. Cậu bé sống sót sau vụ thảm sát. BBC vừa đưa tin. Cậu bé bị giết chết ngay trong phòng bệnh viện. Nguyên nhân của cái chết hiện nay vẫn chưa được biết, nhưng người ta nghi ngờ có sự gian trá. Đặc biệt khi nó diễn ra cùng một lúc với vụ đánh bom nhà thờ.”

Rachel lắc đầu buồn bã.

Trước đó, Gray đã thấy nhẹ nhõm khi thấy mọi người trở về an toàn, chỉ bị sây sát và hoang mang đôi chút. Anh đã quên mất không để ý đến người sống sót của vụ thảm sát thứ nhất. Nhưng nó mang một ý nghĩa thật kinh khủng. Vụ tấn công vào nhà thờ thực ra chỉ là một màn kịch nhằm xóa sạch những dấu vết gì còn lại. Và tất nhiên, điều đó bao gồm cả chuyện cho nhân chứng duy nhất câm lặng vĩnh viễn luôn.

“Ngài có biết thêm gì nữa không?” Gray hỏi.

Anh đã cử vị linh mục xuống dưới nhà sau khi họ đăng ký phòng tại khách sạn để đánh giá tình hình thực tế tại nhà thờ. Linh mục là người thích hợp nhất. Ông ta nói tiếng Đức nhuần nhuyễn và cái áo linh mục của ông sẽ không làm ai nghi ngờ cả.

Ngay đến tận bây giờ, còi báo động và xe cảnh sát vẫn rền vang trên đường phố. Nhìn qua cửa sổ, họ thấy quang cảnh của Cathderal Hill. Một đám xe cứu hỏa và các xe cấp cứu khác đang tập trung ở đó. Khói vẫn cuộn lên trên bầu trời đêm. Đường phố đông nghịt người đến xem và xe nhà báo.

“Tôi cũng không biết gì thêm ngoài những điều chúng ta đã biết.” Vigor nói. “Trong nhà thờ lửa vẫn tiếp tục cháy. Nó vẫn chưa bị dập tắt nhưng không lan rộng ra nữa. Tôi có nói chuyện với một linh mục ở chỗ ở. Không ai bị thiệt mạng. Nhưng họ lo lắng về số phận của tôi và cháu gái tôi.”

“Tốt”. Gray nói, liếc nhìn Rachel. “Như tôi nói lúc nãy, bọn chúng nghĩ là lúc này chúng ta đã bị tiêu diệt. Hãy để cho chuyện đó cứ như vậy càng lâu càng tốt. Chừng nào chúng chưa biết chúng ta còn sống, chúng sẽ chưa đi lùng sục tìm kiếm khắp nơi.”

“Và chúng ta cũng không phải nã súng nữa.” Monk nói. “Tôi đặc biệt thích điều đó”.

Kat đang làm việc trên máy tính xách tay nói với một chiếc máy ảnh số. “Những tấm ảnh đang được đưa lên.” Cô nói.

Gray đứng dậy bước tới cái bàn. Monk và những người khác không phải chỉ lo kiếm chỗ trú ẩn trong chiếc xe sau khi họ trốn thoát mà còn tranh thủ địa điểm này để chụp một vài tấm ảnh của những kẻ tham gia vụ tấn công. Anh thấy thật ấn tượng với sự tháo vát của họ.

Những tấm hình nho nhỏ đen trắng hiện dần trên màn hình.

“Đây rồi.” Rachel nói chỉ vào một tấm hình. “Đây là cái gã đã tóm lấy tôi.”

“Hắn là chỉ huy của nhóm.” Gray nói.

Kat nhấp đúp để phóng to tấm ảnh. Gã đang lao ra khỏi nhà thờ. Tóc đen, để dài gần đến vai. Không để râu, sống mũi thẳng. Trông bụi bặm không có nét gì đặc biệt. Ngay cả trong ảnh trông y vẫn có vẻ chỉ huy.

“Nhìn thằng chó chết này,” Monk nói. “Con mèo ăn con chuột.”

“Có ai nhận ra hắn không?” Gray hỏi.

Tất cả lắc đầu.

“Tôi có thể gửi bức ảnh đó về bộ phận nhận dạng của Sigma.” Kat nói.

“Chưa được.” Gray nói, trả lời cái chau mày của cô. “Chúng ta cần tiếp tục chưa nối liên lạc vội.”

Anh nhìn quanh phòng. Thông thường anh thích hoạt động đơn chiếc, thoát khỏi sự kiềm tỏa của đại ca dòm ngó, giờ đây anh không thể đóng vai con sói cô độc. Anh đã có cả nhóm, trách nhiệm đè nặng trên vai. Cặp mắt của anh hướng sang Vigor và Rachel. Không phải chỉ có riêng nhóm của anh thôi. Tất cả bọn họ đều hướng về anh. Đột nhiên, anh cảm thấy quá sức. Anh không muốn gì hơn là liên lạc với Sigma, trao đổi với Giám đốc Crowe, rũ trách nhiệm của mình.

Nhưng anh không thể… ít nhất là lúc này.

Gray tập hợp các suy nghĩ và quyết tâm của mình. Anh hắng giọng. “Một ai đó đã biết chúng ta một mình có mặt trong nhà thờ. Rất có thể là chúng đã do thám nhà thờ hoặc đã có tin tình báo trước.”

“Một lỗ rò” Vigor nói, xoa bộ râu dưới cằm.

“Có khả năng, nhưng điều tôi chưa thể nói được là nó từ đâu ra.” Gray liếc nhìn Vigor. “Từ chỗ chúng tôi hay ở chỗ các ngài.”

Vigor thở dài và gật đầu. “Tôi e rằng chính chúng tôi phải lãnh trách nhiệm. Long Đình luôn tìm cách lôi kéo thành viên trong Vatican. Và vụ phục kích này nối gót sau những cuộc tấn công vào Rachel và bản thân tôi làm tôi không thể không nghĩ rằng vấn đề có thể nằm ngay ở Giáo hội.”

“Không nhất thiết phải như vậy,” Gray trả lời. Anh quay trở lại máy xách tay và chỉ vào một tấm ảnh nhỏ nữa. “Hãy phóng to bức này xem nào.”

Kat nhấn đúp chuột. Hình ảnh một phụ nữ mảnh dẻ trèo vào bên trong một trong hai chiếc xe hiện dần lên trên màn hình. Khuôn mặt của cô ta chỉ mờ nhạt.

Gray liếc nhìn những người khác. “Có ai biết cô ta không?”

Lại những cái lắc đầu.

Monk nhìn gần vào hơn. “Nhưng tôi không quan tâm đến chuyện biết cô ta.”

“Đây chính là người phụ nữ đã tấn công tôi ở Fort Detrick.”

Monk lui lại, bỗng nhiên thấy người phụ nữ kém hấp dẫn hẳn đi.

“Nhân viên của Hiệp hội à?’

Vigor và Rachel đều thấy bối rối. Gray không có thời gian để đi sâu vào toàn bộ lịch sử của Hiệp hội, anh chỉ nói tóm tắt những nét chính về tổ chức này: một tổ chức khủng bố có liên hệ với tổ chức Maphia Nga và sự quan tâm của nó đối với các công nghệ mới.

Sau khi anh kết thúc, Kat hỏi. “Vậy anh có nghĩ vấn đề có thể ở chỗ chúng ta không?”

“Sau vụ Fort Detrick…” Gray chau mày. “Ai có thể nói an ninh bị rò rỉ ở chỗ nào? Nhưng sự thật là Hiệp hội đang ở đây, hành động cùng với Long Đình, tôi không thể không nghĩ rằng chúng hợp tác với nhau vì sự tham gia của chúng ta. Nhưng tôi nghĩ chúng đã muộn trong trò chơi cũng như chúng ta…”

“Tại sao anh lại nói điều đó?” Rachel hỏi.

Gray chỉ vào màn ảnh. “Long nương để cho tôi thoát.”

Sự kinh ngạc bao trùm.

“Anh có chắc vậy không?” Monk hỏi.

“Chắc như đinh đóng cột”. Gray xoa cùi tay nơi cô ả đã bắn khi anh chạy.

“Tại sao cô ta lại làm chuyện đó?” Rachel hỏi.

“Bởi vì cô ta đang chơi trò với Long Đình. Như tôi đã nói, lý do duy nhất Hiệp hội được huy động vào vụ mạo hiểm này vì Sigma đã tham gia. Long Đình muốn Hiệp hội giúp đỡ để bắt sống hoặc tiêu diệt chúng ta.”

Kat gật đầu. “Và nếu chúng ta chết thì Hiệp hội không còn cần thiết nữa. Mối liên minh sẽ chấm dứt và Hiệp hội sẽ không bao giờ biết được Long Đình muốn điều gì.”

“Nhưng bây giờ Long Đình nghĩ rằng chúng ta đã chết.” Rachel nói.

“Chính xác như vậy. Đó là một lý do nữa để cho chuyện này cứ tiếp tục như họ tưởng. Nếu chúng ta đã chết, Long Đình sẽ cắt đứt mối quan hệ với Hiệp hội.”

“Bớt đi một đối thủ.” Monk nói.

“Vậy chúng ta sẽ làm gì tiếp?” Kat hỏi.

Chuyện đó vẫn còn bí hiểm. Họ không còn chỉ dẫn nào… trừ một điểm. Gray liếc nhìn vào chiếc balô của anh. “Thứ bột chúng ta lấy được ở hòm quan tài. Nó trở thành chìa khóa cho mọi chuyện. Nhưng tôi không biết nó hợp với chìa khóa nào. Và nếu chúng ta không thể gửi về Sigma để thử…”

Vigor nói chen vào. “Tôi nghĩ anh nói đúng. Câu trả lời nằm ở chỗ bột đó. Nhưng có một câu hỏi hay hơn là nó là cái gì”

Linh mục đột nhiên dừng lại, cặp mắt ông nheo nheo. Ông vỗ vỗ tay lên trán. “Cái gì nhỉ…” Ông lẩm bẩm.

“Bác?” Rachel hỏi với vẻ băn khoăn.

“Có cái gì đó… trong đầu mà không thể nhớ được.”

Gray nhớ lại biểu hiện tương tự của ông khi ông trích một câu nói trong một cuốn sách.

Linh mục nhăn nhó. “Tôi không thể nào nghĩ ra được, giống như cố đuổi bắt bong bóng xà phòng trên tay. “Ông lắc đầu. “Có thể tôi quá mệt mỏi.”

Gray cảm giác ông ta thực lòng ở hầu hết mọi chuyện. Nhưng ông ta cũng vẫn còn giấu điều gì đó, một điều gì bắt đầu từ chữ cái. Trong một thoáng, Gray nhìn thấy sự sợ hãi phía sau sự bối rối.

“Vậy thì câu hỏi tốt hơn là gì?” Monk hỏi, quay trở lại dòng suy nghĩ ban đầu. “Ông vừa bắt đầu nói gì đó về một câu hỏi tốt hơn thứ bột ấy là gì?”

Vigor gật đầu, tập trung trở lại “Đúng rồi. Có thể chúng ta cần hỏi tại sao thứ bột này có thể tới đây. Mỗi năm một lần, di cốt được nhấc cẩn thận ra khỏi quan tài và toàn bộ được lau chùi sạch sẽ. Tôi chắc rằng chúng được phủi bụi và lau chùi sạch cả ở bên ngoài.

Kat ngồi thẳng dậy. “Trước cuộc tấn công, chúng ta băn khoăn không biết có phải thiết bị đã làm thay đổi chỗ vàng trong cái hộp biến thành thứ bột trắng.”

“Có phải là đấy là cách chúng được đưa vào không?” Rachel hỏi.

“Có thể,” Monk nói. “Hãy nhớ cây thập tự có nam châm ở nhà thờ. Một điều gì đó kỳ quặc đã xảy ra ở đấy và nó tác động đến kim loại. Vậy tại sao không phải là vàng?”

Gray hy vọng anh đã có thêm nhiều thời gian để thu thập các mẫu, tiến hành thêm một số phép thử nữa. Nhưng với việc nhà thờ bị đánh bom xăng…”

“Không.” Kat nói thở dài cáu kỉnh. “Hãy nhớ rằng chất bột không chỉ là vàng. Chúng ta cũng đã phát hiện các chất khác. Có thể là platinum hoặc cái gì khác nữa trong nhóm kim loại có khả năng truyền dẫn những chất có thể chuyển hóa thành bột ở trạng thái -m.”

Gray chậm rãi gật đầu, nhớ lại bạc lẫn trong chỗ vàng bị chảy.

“Tôi không tin là bột đến từ cái hộp đựng.”

Monk chau mày. “Nhưng nếu như nó không đến từ chỗ vàng trong hộp và nếu như được lau chùi mỗi năm… thì còn thêm cái gì nữa?”

Mắt Gray mở to ra vì anh đã hiểu ra. Anh hiểu sự kinh ngạc của Kat. “Nó đến từ chỗ di cốt.”

“Không còn sự giải thích nào khác nữa.” Kat đồng ý.

Monk đốp lại, lắc đầu.

“Điều đó nói thì dễ. Chúng ta không có chỗ di cốt ở đây để chứng minh giả thuyết của cô. Chúng đã đem đi tất cả.”

Rachel và Vigor tự dưng nhìn nhau.

“Cái gì?” Gray hỏi.

Rachel bắt gặp ánh mắt của anh. Anh đọc được sự phấn khích trong điệu bộ của cô. “Chúng không phải có toàn bộ chỗ di cốt.”

Đôi lông mày của anh nheo lại. “Ở đâu?”

Vigor trả lời. “Ở Milan”.