Cô và Julian bắt tay nhau, một cử chỉ dường như lúng túng vụng về trong một quán bar sinh viên đông nghẹt, nhưng Brooke chỉ cảm thấy háo hức. Cô săm soi Julian cận cảnh hơn trong khi anh và Trent đang kể chuyện tếu về một anh chàng nào đó mà cả hai cùng biết. Chắc hẳn Julian chỉ hơn cô vài tuổi, nhưng có gì đó làm anh trông hiểu biết hơn, trải đời hơn, dù Brooke không thể gọi rõ ra đó là cái gì. Mũi anh quá cao và cằm anh hơi lẹm một chút, và nước da nhợt nhạt của anh lúc này càng dễ nhận thấy hơn vào cuối mùa hè khi ai nấy đều đã có đủ lượng vitamin D. Đôi mắt anh, dù xanh màu lá cây nhưng không có gì nổi bật, thậm chí còn u uẩn, và những nếp nhăn hiện mờ mờ quanh quầng mắt khi anh mỉm cười. Nếu trước đó cô chưa nghe anh hát nhiều lần đến thế, chưa thấy anh hất đầu ra phía sau và cất tiếng hát bằng chất giọng khỏe và truyền cảm đến thế - nếu cô chỉ tình cờ gặp anh như thế này, đội mũ len và cầm cốc bia trong một quán bar ồn ào không tên tuổi - thì có lẽ cô chẳng thèm nhìn thêm lần nữa mà cũng chẳng thấy anh hấp dẫn một mảy may nào. Nhưng tối nay cô gần như nghẹn thở.

Hai người đàn ông nói chuyện với nhau vài phút trong lúc Brooke ngồi ngả ra sau quan sát. Chính Julian, chứ không phải Trent, là người nhận ra Brooke chưa có đồ uống.

“Tôi mời các bạn một cốc bia nhé?” anh đề nghị rồi nhìn quanh tìm cô phục vụ.

Trent đứng phắt dậy. “Để em đi lấy. Chúng em vừa mới đến đây và chưa có ai đến phục vụ cả. Brooke, cô muốn uống gì nào?”

Cô lẩm nhẩm nói tên một loại bia đầu tiên vừa nhớ ra, còn Julian thì giơ một vật trông giống như một cốc nước đã cạn lên. “Cậu lấy cho mình một Sprite được không?”

Khi Trent rời chỗ, Brooke hoảng cuống cả lên. Họ sẽ nói chuyện gì mới được chứ? Nói gì cũng được, cô tự nhủ, gì cũng được trừ chuyện cô đã lẽo đẽo theo anh khắp thành phố này.

Julian quay về phía cô. “Trent là anh chàng tốt bụng đấy chứ?”

Brooke nhún vai. “Ờ, anh ấy có vẻ tử tế. Chúng tôi vừa mới quen nhau tối nay. Tôi chả biết gì mấy về anh ấy.”

“À, ra là một cuộc hẹn hò qua mai mối đầy thú vị. Cô nghĩ cô có đi chơi với cậu ấy nữa không?”

“Không,” Brooke nói thẳng băng. Cô chắc rằng cô đang choáng; cô hầu như chẳng biết mình đang nói những gì nữa.

Julian bật cười và Brooke cũng cười phụ họa anh. “Tại sao không?” anh hỏi.

Brooke nhún vai. “Chẳng có lý do gì đặc biệt cả. Anh ấy có vẻ cực kỳ dễ mến. Phải cái hơi tẻ nhạt một chút.” Cô không định nói vậy, nhưng cô chả còn nghĩ ngợi được gì nữa.

Khuôn mặt Julian rạng lên một nụ cười, nụ cười tươi tắn và sáng rỡ đến mức Brooke quên cả cảm giác lúng túng ngượng ngập. “Người mà cô kêu là buồn tẻ chính là cậu em họ tôi đấy.” Anh cười lớn.

“Ôi Chúa ơi, tôi không định nói thế. Anh ấy có vẻ hết sức, ờ, tuyệt lắm. Chỉ là...” Cô càng lắp bắp thì anh càng tỏ ra khoái chí hơn.

“Ồ, thôi mà.” Anh ngắt lời cô, đặt bàn tay rộng ấm áp lên cánh tay cô. “Cô nói đúng, hoàn toàn, tuyệt đối đúng. Cậu ấy thật dễ mến... thực tình mà nói, tốt bụng hết mực... nhưng chưa ai coi cậu ấy là linh hồn của bữa tiệc cả.”

Có một khoảng lặng trong lúc Brooke cố vắt óc nghĩ ra điều gì hợp cảnh để nói tiếp. Nói gì cũng chả mấy quan trọng, chỉ cógiấu kín được tình trạng mình là người hâm mộ anh.

“Trước đây tôi đã xem anh biểu diễn,” cô tuyên bố, rồi vội đưa tay lên che miệng vì ngạc nhiên với chính mình.

Anh săm soi nhìn cô. “Ô thế à? Ở đâu vậy?”

“Tối thứ Ba hằng tuần ở Nick.” Mọi cơ hội để đừng tỏ rõ mình là kẻ đeo bám đã tan tành mây khói.

“Thật hả?” Anh có vẻ bối rối nhưng hài lòng.

Cô gật đầu.

“Tại sao?”

Brooke nhanh chóng cân nhắc việc nói dối và bảo anh rằng bạn thân của cô sống ở gần đó hoặc tuần nào cô cũng đến đó cùng một nhóm bạn vào giờ khuyến mãi, nhưng vì lý do gì đó mà chính cô không hiểu nổi, cô thành thật một cách tuyệt đối. “Tôi đã ngồi ở Rue B vào cái đêm nhóm tứ tấu jazz hủy lịch diễn và anh đã biểu diễn thay mà không định trước. Tôi nghĩ anh, ờ, tôi nghĩ sô diễn đó quá tuyệt, nên tôi đã hỏi nhân viên quầy bar để biết tên anh và phát hiện ra là anh có sô diễn thường xuyên. Giờ tôi cố gắng đến xem bất cứ lúc nào tôi có thể.” Cô tự bắt mình nhìn lên, tin chắc anh đang nhìn cô kinh hoàng, có thể còn khiếp hãi là khác, nhưng Julian chẳng lộ vẻ gì, và sự yên lặng của anh đã làm cô càng thấy quyết tâm phải lấp đầy nó.

“Chính vì thế mà thật kỳ lạ là Trent lại đưa tôi tới đây tối nay... thật là một sự trùng hợp kỳ lạ...” Cô để lời mình chìm dần trong lúng túng và lòng tràn ngập nỗi tiếc nuối tức thì về tất cả những gì cô vừa tiết lộ.

Khi cô lấy đủ dũng khí để nhìn anh một lần nữa, Julian đang lắc lắc đầu.

“Hẳn là anh sởn tóc gáy lên rồi,” cô nói với điệu cười căng thẳng. “Tôi hứa là tôi sẽ không bao giờ xuất hiện ở căn hộ của anh cũng như nơi anh làm việc chính. Tôi không có ý nói là tôi biết căn hộ của anh ở đâu hoặc giả anh có một công việc chính đâu đấy nhé. Dĩ nhiên, tôi chắc chắn rằng âm nhạc là công việc chính của anh, công việc thực thụ của anh, vì nó hẳn…”

Bàn tay anh đặt lại lên cánh tay cô, và Julian nhìn vào mắt cô. “Tuần nào tôi cũng thấy cô ở đó,” anh nói.

“Hử?”

Anh gật đầu và một lần nữa mỉm cười, lần này lắc đầu nhè nhẹ như muốn nói, Không thể tin được là tôi lại thú nhận điều này. “Ờ. Cô luôn ngồi ở góc xa tít trong cùng, gần bàn bi-a, và lúc nào cô cũng chỉ một mình. Tuần trước cô mặc chiếc đầm xanh nước biển có họa tiết thêu kiểu như hoa hoặc gì đó màu trắng ở gấu, và cô đang đọc một cuốn tạp chí nhưng cô gạt nó sang bên ngay khi tôi vừa tới.”

Brooke nhớ lại chiếc đầm mùa hè, món quà mẹ cô tặng vào bữa liên hoan tốt nghiệp của cô. Mới bốn tháng trước đây trông nó còn rất thời trang; vậy mà giờ đây mặc nó đi đây đi đó trên phố đã làm cô cảm thấy mình trông quá mộc mạc trẻ con. Màu xanh biển làm mái tóc đỏ của cô thêm bốc lửa, thế cũng hay, nhưng nó chẳng tôn gì thêm cho đôi hông hoặc cặp chân của cô cả. Mải cố gắng nhớ xem dáng vẻ mình đêm đó ra sao, cô không nhận thấy Trent đã trở lại bàn tận đến lúc anh ta đẩy chai Bud Light về phía cô.

“Tôi bỏ lỡ mất những gì rồi?” anh ta hỏi rồi thả người xuống ghế của mình. “Đêm nay đông nghẹt. Julian ạ, anh thật biết cách kéo họ tới chật kín.”

Julian cụng cốc của anh vào chai của Trent và uống một hơi dài. “Cảm ơn, bạn thân. Tôi sẽ quay lại với các bạn sau sô diễn.” Anh gật đầu với Brooke với cái nhìn mà cô cả quyết - và cầu mong - là đầy ngụ ý rồi đi về phía sân khấu.

Khi đó cô không biết rằng anh sẽ xin phép Trent được gọi điện cho cô, hoặc cuộc chuyện trò đầu tiên qua điện thoại của họ làm cô cảm thấy mình bay bổng, hay buổi hẹn hò đầu tiên của họ là đêm quyết trong cuộc đời cô. Cô không bao giờ đoán trước được rằng chưa đến ba tuần sau họ sẽ cùng nhau lên giường sau những cuộc hẹn hò dài kỷ lục mà cô những muốn chẳng bao giờ dứt, hoặc họ sẽ tích cóp tiền bạc trong gần hai năm trời để cùng nhau lái xe đi khắp các miền đất nước hay đính hôn trong lúc nghe nhạc sống tại một quán bar nhỏ rẻ tiền ở West Village với một chiếc nhẫn vàng trơn mà anh đã tự trả tiền mua, hay là làm đám cưới ở ngôi nhà lộng lẫy bên bờ biển Hamptons của cha mẹ anh vì thực ra họ chứng tỏ được điều gì nếu từ chối một chỗ như vậy? Tất thảy những gì cô biết chắc chắn tối hôm đó là cô muốn gặp lại anh đến chết đi được, rằng dù có phải xuống vực sâu hay vào địa ngục đi chăng nữa thì tối ngày kia cô cũng sẽ đến quán Nick, và rằng dù có cố gắng đến thế nào chăng nữa cô cũng không thể tắt được nụ cười.

2

Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ

Brooke bước vào hành lang khoa sản ở Trung tâm Y tếLangone thuộc Đại học New York và kéo rèm che lại. Tám bệnh nhân đã xong, còn ba bệnh nhân nữa phải kiểm tra. Cô lướt nhanh qua những bệnh án còn lại: một cô bé vị thành niên có bầu, một phụ nữ có thai bị tiểu đường trong thời kỳ thai nghén, và một phụ nữ lần đầu làm mẹ đang vất vả cố cho bú hai đứa trẻ sinh đôi mới sinh bú. Cô nhìn đồng hồ và nhẩm tính: nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ như dự kiến thì cô có thể ra về đúng giờ đã định.

“Chị Alter à?” Giọng bệnh nhân của cô cất lên từ sau tấm rèm.

Brooke bước trở vào trong

“Gì thế, Alisha?” Brooke quấn cho chiếc áo blu trắng của mình chặt quanh ngực và tự hỏi làm sao mà người phụ nữ này lại không run lẩy bẩy trong chiếc váy mỏng như giấy của bệnh viện.

Alisha vặn vẹo đôi tay, nhìn chăm chăm vào vạt áo bệnh nhân của mình và nói, “Chị nhớ là chị đã bảo rằng dùng các loại vitamin trước khi sinh quan trọng đến mức nào không? Đại loại thế, cho dù là từ đầu đến giờ em đã không dùng?”

Brooke gật đầu. “Chị biết chẳng thể thấy mặt tốt của bệnh cúm nặng,” cô vừa nói vừa đi tới giường của cô gái, “nhưng ít nhất chứng bệnh đó cũng đưa em vào đây và cho chúng ta cơ hội khiến em bắt đầu dùng các loại vitamin và thảo luận kế hoạch cho những ngày còn lại trong thai kỳ của em.”

“Ờ, vậy về việc đó thì... thế có, ừm, đại loại là chị có mẫu thuốc miễn phí nào có thể cho em dùng thử không?” Alisha tránh nhìn vào mắt cô.

“Ồ, chị nghĩ việc đó không thành vấn đề,” Brooke trả lời, mỉm cười trấn an bệnh nhân nhưng tự giận mình vì đã bỏ qua không hỏi xem Alisha có thể trả nổi tiền mua thuốc không. “Xem nào, em còn mười sáu tuần nữa... Chị sẽ để đủ liều dùng cho em ở phòng y tá, được không?”

Alisha có vẻ yên tâm. “Cảm ơn,” cô khẽ nói.

Brooke siết chặt cánh tay cô gái rồi bước ra ngoài tấm rèm. Sau khi lấy vitamin cho Alisha, cô đi như chạy về căn phòng nghỉ ảm đạm của các bác sĩ dinh dưỡng ở tầng năm, một khối lập phương không cửa sổ với một chiếc bàn mica bốn chỗ ngồi, một tủ lạnh mini và một bức tường đặt những ngăn tủ khóa. Nếu vội thì cô có thể ngốn một bữa qua loa và một tách cà phê mà vẫn có thể về kịp giờ hẹn ca khám tiếp theo. Thở phào vì thấy căn buồng không có ai và bình cà phê đầy ắp, Brooke kéo một hộp nhựa đựng những miếng táo cắt sẵn từ ngăn tủ của mình ra rồi bắt đầu phết những gói nhỏ bơ lạc chiết xuất hoàn toàn tự nhiên lên đó. Đúng lúc cô đang nhồm nhoàm đầy miệng thì chuông điện thoại di động của cô r

“Mọi việc ổn cả chứ ạ?” cô hỏi mà không chào. Giọng cô nghèn nghẹt vì thức ăn.

Mẹ cô ngập ngừng. “Tất nhiên rồi, con yêu. Sao lại không ổn được?”

“Là vì, mẹ à, ở đây bận lắm, và mẹ biết là con không thích nói chuyện khi làm việc rồi đây.” Đường dây làm lãng đi mất nửa cuối câu nói của cô.

“Gì thế? Mẹ không nghe được con.”

Brooke thở dài. “Không có gì đâu, mẹ đừng bận tâm. Có việc gì thế ạ?” Cô mường tượng ra mẹ mình mặc quần kaki và đi đôi giày bệt hiệu Naturalizer đặc trưng, những thứ mà bà đã vận suốt cả cuộc đời, đang đi tới đi lui trong phòng bếp tại căn hộ của bà ở Philadelphia. Mặc dù đã lấp đầy ngày tháng của mình bằng một loạt những câu lạc bộ sách, câu lạc bộ sân khấu và những công việc tình nguyện khác, nhưng dường như mẹ cô vẫn có thừa thãi thời gian, mà phần lớn là dành cho việc gọi điện hỏi con cái xem tại sao họ không gọi cho bà. Tuy rằng mẹ cô hưởng thời gian hưu trí là điều hay, nhưng trước đó khi còn đi dạy học từ bảy giờ sáng đến ba giờ chiều hằng ngày thì bà đỡ ngầy ngà với Brooke hơn nhiều.

“Chờ một phút thôi nhé...” Giọng mẹ cô chìm xuống và trong giây lát giọng Oprah trước đó vẫn đang vọng đến át cả giọng bà cũng đột ngột im bặt. “Được rồi đây.”

“Chà, mẹ tắt cả Oprah (1) đi cơ à. Hẳn là việc quan trọng lắm đây.”

(1) Tức ‘Oprah Wingrey Show’, chương trình trò chuyện trên truyền hình nổi tiếng của Mỹ. Người dẫn Oprah Wingrey (1954) là một nữ diễn viên, đạo diễn và nhà từ thiện.

“Chấy lại đang phỏng vấn Jennifer Aniston lần nữa. Mẹ không thể nghe thêm được nữa. Cô ta đã quên Brad rồi. Cô ta thích thú vì sắp sang tuổi bốn mươi gì gì đó. Cô ta chưa bao giờ thấy vui như thế. Biết rồi, khổ lắm. Tại sao chúng ta cứ phải nói mãi về chuyện đó thế?”

Brooke phì cười. “Nghe này, mẹ ơi, con gọi lại cho mẹ tối nay được không? Con chỉ có mười lăm phút nghỉ giữa giờ thôi.”

“Được chứ, con yêu à. Lúc đó nhắc mẹ kể với con về anh trai con nhé.”

“Có chuyện gì không hay với Randy ạ?”

“Làm gì có gì không hay với Randy... cuối cùng thì cũng có cái gì đó hay với nó ấy chứ. Nhưng mẹ biết là con đang bận, thôi để nói sau vậy.”

“Kìa mẹ...”

“Mẹ thật vô ý khi gọi cho con giữa ca trực. Thậm chí mẹ không...”

Brooke thở dài đánh sượt và cười thầm. “Mẹ muốn con van xin mẹ đấy à?”

“Con yêu ơi, nếu đã không đúng lúc tức là không đúng lúc. Hãy nói chuyện này khi con có nhiều thời gian hơn.”

“Thôi được, mẹ ạ. Con van mẹ hãy kể cho con về Randy. Đúng hơn là nài nỉ đấy. Hãy kể cho con xem có chuyện gì với anh ấy thế. Đi mẹ.”

“Được rồi, nếu con cứ khăng khăng muốn vậy... thì đây, mẹ sẽ kể cho con. Randy và Michelle đang có thai. Đó, là con buộc mẹ phải nói ra đây

“Họ đang cái gì?”

“Có thai, con yêu ạ. Sắp có con. Chị Michelle mới ở giai đoạn đầu – mới có bảy tuần, mẹ nghĩ thế - mà bác sĩ của chúng nó nói rằng mọi cái có vẻ đều ổn. Có tuyệt không cơ chứ?”

Brooke lại nghe tiếng vô tuyến vọng đến từ đầu dây đằng kia, lần này khẽ hơn, nhưng cô vẫn nghe được tiếng cười không lẫn vào đâu được của Oprah.

“Tuyệt á?” Brooke vừa hỏi vừa đặt con dao nhựa xuống. “Con không chắc đó là từ ngữ con định dùng. Họ vừa mới hẹn hò được sáu tháng thôi mà. Họ còn chưa kết hôn. Thậm chí họ còn chưa chung sống với nhau.”

“Con trở nên đoan trang như thế từ khi nào vậy, con yêu của mẹ?” bà Green vừa hỏi vừa tặc lưỡi. “Nếu con có nói với mẹ rằng đứa con gái ba mươi tuổi, lịch sự, được học hành tử tế của mẹ lại là một người cổ hủ như vậy thì mẹ cũng chẳng thể tin vào điều đó được.”

“Mẹ à, con không chắc từ ‘cổ hủ’ là chính xác để chỉ những người cố gắng hạn chế sinh con cái trong những mối quan hệ tiền hôn nhân đâu nhé.”

“Ôi, Brooke, hãy bớt căng thẳng đi một chút. Không phải ai cũng có thể - hoặc nên - kết hôn khi hai mươi lăm tuổi. Randy ba mươi tám và Michelle gần bốn mươi rồi. Có thật con nghĩ rằng thời này vẫn còn có người quan tâm đến mấy thứ giấy tờ hôn thú vớ vẩn đó không đấy? Bây giờ tất cả chúng ta đều phải biết quá rõ rằng điều đó hầu như chẳng nghĩa lý gì nữa.”

Đầu óc Brooke xoay quanh một loạt ý nghĩ: vụ ly dị của cha mẹ cô gần mười năm trước đây, khi cha bỏ mẹ để đi theo cô y tá của trường trung học nơi họ cùng dạy học; cái cách mà mẹ ấn cô ngồi xuống sau khi cô đính hôn với Julian và nói vói cô rằng phụ nữ ngày nay có thể hoàn toàn hạnh phúc mà không cần kết hôn; nỗi niềm mong mỏi thiết thaẹ cô rằng Brooke nên chờ đến khi cô có sự nghiệp vững vàng rồi hãy bắt đầu cuộc sống gia đình. Thật thú vị khi thấy dường như Randy hành động theo những đường lối chỉ đạo khác hẳn.

“Con có biết mẹ thấy buồn cười nhất là gì không?” mẹ cô hỏi không bỏ lỡ lấy một giây. “Ý nghĩ rằng có thể, chỉ là có thể thôi nhé, cha con và Cynthia cũng sẽ có một đứa con. Con thấy đấy, xét ra thì cô ta hãy còn trẻ thế. Vậy thì con sẽ có một người anh trai và một ông bố đang chờ sinh con. Thật đấy, Brooke, có bao nhiêu cô gái có thể nói thế được nhỉ?”

“Mẹ...”

“Nghiêm túc mà nói, con yêu ạ, con không nghĩ khá là trớ trêu sao - ờ, mẹ không chắc từ ‘trớ trêu’ là thích hợp, nhưng chuyện này thật trùng hợp một cách ngẫu nhiên - khi vợ của cha con còn trẻ hơn Michelle một tuổi.”

“Mẹ. Xin mẹ thôi đi. Mẹ biết thừa rằng bố và Cynthia không định có con cái gì cả - bố sắp sáu mươi lăm tuổi rổi, vì Chúa, và dì ấy thậm chí còn không muốn...” Brooke ngừng lời, cười thầm và lắc đầu. “Mẹ biết không, có thể mẹ nói đúng đấy, bố và Cynthia sẽ theo cái mốt đó. Rồi Randy và bố có thể sẽ bị trói buộc với thời gian biểu bú mớm và thay tã. Thế mới hay chứ.”

Cô chờ mẹ phản ứng như mong đợi, và cô không phải thất vọng.

Mẹ cô khịt mũi. “Thôi nào. Hồi hai con còn ẵm ngửa, con người ấy đến gần nhất với một chiếc tã là khi ông ấy xem quảng cáo tã Pampers. Đàn ông không thay đổi đâu, Brooke à. Cha con sẽ chẳng bao giờ động tay động chân làm gì với đứa trẻ đó cho đến khi nó đủ tuổi bộc lộ quan điểm chính trị. Nhưng mẹ nghĩ anh trai con thì còn hy vọng.”

“Vâng, thì cứ hy vọng là thế. Tối nay con sẽ gọi cho anh ấy để chúc mừng, nhưng con phải…”

“Đừng!” bà Green kêu thất thanh. “Mẹ con mình chưa hề nói chuyện này đấy nhé. Mẹ đã hứa là sẽ không kể với con, vậy con hãy làm ra vẻ ngạc nhiên khi anh con gọi cho con đi.”

Brooke thở dài và cười. “Mẹ ơi, mẹ mới đáng tín cậy làm sao! Thế nghĩa là mẹ cũng kể cho Randy mọi chuyện mặc dù con đã nói dứt khoát với mẹ rằng đó là bí mật phải không?”

“Tất nhiên là không. Chỉ chuyện gì hay mẹ mới nói với nó thôi.”

“Cảm ơn mẹ.”

“Mẹ yêu con, cưng à. Và nhớ phải giữ bí mật chuyện này đấy nhẹ.”

“Con hứa. Mẹ hãy tin lời con đi.”

Brooke cúp máy và nhìn đồng hồ: năm giờ kém năm. Chỉ còn bốn phút là đến ca khám tư vấn sắp tới của cô. Cô biết rằng mình không nên gọi điện ngay lúc đó, nhưng quả thật cô không thể đợi được.

Ngay khi vừa bấm số, cô sực nhớ ra rằng Randy có thể ở lại trường sau giờ học để huấn luyện đội bóng đá nam, nhưng anh nhấc máy ngay hồi chuông đầu tiên. “Kìa, Brookie. Có chuyện gì thế?”

“Có chuyện gì với em á? Chả có cái quái gì hết. Có chuyện gì với anh thì đúng hơn.”

“Chúa ơi. Anh chỉ vừa mới bảo mẹ khoảng tám phút trước, và mẹ đã thề là sẽ để anh tự kể với em cơ đấy.”

“Thế à, thì em cũng đã thề rằng em sẽ không nói với anh là mẹ nói với em, thôi kệ. Chúc mừng, anh cả ơi!”

“Cảm ơn. bọn anh đều khá hào hứng. Cũng hơi hoảng – điều đó xảy ra nhanh hơn dự kiến của cả hai đứa bọn anh nhiều - nhưng mà vui lắm.”

Brooke cảm thấy mình nín thở. “Anh nói ‘nhanh hơn’ là sao? Anh đã trù tính trước chuyện này hả?”

Randy cười to. Cô nghe thấy anh nói, “Chờ tôi một phút,” với ai đó ở đầu dây đằng kia, chắc là với một học sinh, và rồi anh nói, “Ừ, cô ấy ngưng thuốc ngừa thai tháng trước. Bác sĩ nói rằng phải mất ít nhất vài tháng để chu kỳ của cô ấy trở lại bình thường rồi mới có thể nói rằng liệu có khả năng mang thai được hay không do tuổi tác của cô ấy. Bọn anh không hề nghĩ rằng nó lại xảy ra ngay tức thì...”

Thật kỳ cục khi nghe anh trai cô - một người tự nhận mình là trai độc thân, trang hoàng nhà mình bằng những chiếc cúp bóng đá cũ và dành nhiều diện tích cho bàn bi-a hơn là cho căn bếp - nói về chu kỳ kinh nguyệt và thuốc ngừa thai và những ý kiến của bác sĩ. Đặc biệt là khi mọi lời dự đoán đều dồn về phía Brooke và Julian là những ứng cử viên nặng ký nhất có thể đưa ra một tuyên bố quan trọng...

“Chà. Em biết nói gì thêm nữa? Hết sảy.” Đó quả thật là tất cả những gì cô có thể nói; cô những lo rằng Randy có thể nghe thấy giọng cô nghèn nghẹn và sẽ hiểu sai đi.

Cô mừng cho Randy đến nỗi cô cảm thấy nghẹn ngào trong cổ. Tất nhiên, anh đã xoay xở để tự chăm sóc mình rất tốt, và anh luôn có vẻ khá hạnh phúc, nhưng Brooke cứ lo rằng anh quá cô đơn. Anh sống ở vùng ngoại ô, xung quanh là các gia đình, và tất cả bạn bè thời đại học của anh đã có con cái từ đời nào rồi. Cô và Randy chưa thật gần gũi đủ để tâm sự những chuyện này, nhưng cô đã luôn băn khoăn không hiểu anh có thích sống như thế không, anh có hạnh phúc với cuộc sống độc thân của mình không. Giờ đây khi thấy sự hào hứng của anh khẳng định chắc chắn rằng anh hẳn đã mong mỏi điều này biết bao, cô nghĩ mình muốn khóc.

“Ừ, khá là tuyệt. Em có tưởng tượng được cảnh anh dạy thằng bé cách ném bóng không? Anh sẽ kiếm cho nó một quả bóng cỡ nhỏ bằng da lợn ngay khi bắt đầu - không phải loại Nerf vớ vẩn cho con anh đâu nhé - và khi tay nó đủ to, nó sẽ sẵn sàng cho những trận đấu đích thực.”

Brooke bật cười. “Rõ là anh chưa nghĩ đến khả năng dễ thấy rằng anh có thể có một đứa con gái, hử?”

“Có ba cô giáo ở trường đang mang thai, và cả ba người bọn họ đều sẽ sinh con trai,” anh nói.

“Hay thật. Nhưng anh cũng biết rằng dù anh cùng chung một môi trường công tác với họ thì đứa con tương lai của anh và của họ không bị luật pháp hoặc y học bắt buộc phải mang cùng một giới tính, phải không nào?”

“Anh không chắc lắm về điều đó...”

Cô lại cười. “Thế thì hai anh chị sẽ hỏi cho biết chứ? Hay là quá sớm để đặt ra câu hỏi đó? Em thật chẳng hiểu mấy thứ đó vận hành ra sao.”

“À. Vì anh biết chắc như đinh đóng cột là bọn anh sẽ có con trai nên anh thực sự không thấy cần thiết phải hỏi, mà Michelle lại muốn được bất ngờ. Thế nên bọn anh sẽ đợi.”

“Ồ, vui thật. Khi nào thì đến kỳ sinh em bé?”

“Hai mươi lăm tháng Mười. Một bé con mùa lễ Halloween. Anh cho rằng đó là điềm may.”

“Em cũng nghĩ thế,”Brooke nói. “Ngay bây giờ em sẽ đánh dấu ngày này trên lịch. Ngày hai mươi lăm tháng Mười: em sẽ lên chức cô.”

“Này Brookie, thế> hai em thì sao? Có anh em họ gần tuổi mình cũng khá hay đấy chứ. Có cơ may nào không?”

Cô biết rằng quả thật không dễ gì đối với Randy khi hỏi một câu riêng tư thế này nên cô cố nén không chặn họng anh, nhưng anh đã động đến nỗi đau. Khi cô và Julian lấy nhau, cô hai mươi lăm và anh hai mươi bảy tuổi, cô cứ nghĩ rằng khoảng chừng sinh nhật lần thứ ba mươi của cô họ sẽ có con. Nhưng giờ họ đã đến tuổi này, đã qua cái mốc đó mà thậm chí còn khuya mới bắt đầu thử. Cô đề cập đến chuyện này với Julian một vài lần, một cách ngẫu nhiên để không tạo quá nhiều áp lực cho cả đôi bên, nhưng anh đã hờ hững y như câu trả lời của anh vậy. Rằng thì, “một ngày nào đó” một đứa con có thể sẽ là điều tuyệt vời, nhưng hiện tại họ đang hành động đúng đắn khi tập trung vào sự nghiệp. Vì vậy cho dù cô muốn có một đứa con - thực ra là không muốn gì hơn thế, đặc biệt là lúc này đây, khi nghe tin mừng của Randy - cô vẫn áp dụng chiến thuật của Julian.

“Ồ, tất nhiên là sẽ có ngày,” cô trả lời, cố gắng để giọng nghe bình thường, hoàn toàn ngược lại với cảm xúc thật của cô. “Nhưng hiện giờ không đúng lúc đối với bọn em. Tập trung cho công việc, anh biết đấy.”

“Hẳn rồi,” Randy nói, và Brooke băn khoăn liệu anh có biết sự thật không. “Các em nên làm những gì thích hợp với mình.”

“Vâng, vậy thì... anh này, em xin lỗi phải chạy đi nhưng giờ nghỉ của em đã hết và em trễ ca khám tư vấn rồi đây.”

“Không sao, Brookie. Cảm ơn em đã gọi điện. Và lòng nhiệt tình của em nữa.”

“Anh trêu em đấy à? Cảm ơn anh về tin vui sửng sốt ấy nhé. Anh làm em vui cả ngày - à, cả tháng đấy. Chúc mừng thêm một lần nữa nhé, anh Randy. Em cực kỳ mừng cho anh chị! Tối nay em sẽ gọi cho Michelle để chúc mừng sau nhé, được không?”

Họ cúp máy và Brooke bắt đầu quãng đường dài quay về tầng năm. Vẫn còn mang tâm trạng hồ nghi, cô không ngừng lắc lắc đầu trong lúc đi. Trông cô hẳn là giống một người điên, nhưng trạng thái đó trong bệnh viện chẳng làm ai để ý. Randy. Một người cha!

Brooke những muốn gọi điện kể với Julian tin này, nhưng lúc trước giọng anh nghe đã căng thẳng, vả lại thật ra chẳng còn chút thời gian nào trước ca tư vấn của cô nữa. Một bác sĩ dinh dưỡng đang nghỉ phép và hàng loạt ca sinh đổ đến đông không thể hiểu được vào sáng hôm đó - gần gấp đôi bình thường - thành thử ngày làm việc của cô cứ như đang chạy với tốc độ tên lửa. Thế cũng hay: càng hoạt động nhiều cô càng ít phải đắm mình trong trạng thái mệt lử. Với lại, cô thấy vừa thích thú vừa như được thử thách khi họ bị dồn việc như vậy, và mặc dù ca cẩm với Julian và mẹ nhưng cô thầm yêu thích điều này: tất cả những bệnh nhân thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội, mỗi người đến bệnh viện vì những nguyên nhân hoàn toàn khác biệt nhưng đều cần một ai đó điều chỉnh chế độ ăn uống cho hợp với thể trạng riêng của mình.