Hình như cơn điên bắt đầu từ cuối giờ chiều nay, khi anh bị một thằng nhãi vô duyên xông vào cắt ngang cuộc nói chuyện nghiêm túc liên quan đến tương lai của một số người, trong đó có anh. Vài phút sau, anh còn chưa kịp dùng nắm đấm dạy cho kẻ phá đám đáng ghét một bài học về sự tế nhị và phép lịch sự, người đáng ra phải tiếp tục cuộc nói chuyện nghiêm túc với anh đã vội vàng kéo tên kia đi mất. Mang tâm trạng của một tay thám tử mẫn cán nhưng không mấy sáng suốt, anh bám theo họ đến tận đây, nhìn dáo dác khắp dãy phố với cả chục hàng hoa quả dầm mà hàng nào cũng đông nghịt rồi chẳng biết làm gì hơn là đứng trầm mặc trong ngõ tối, giữa vòng vây của lũ muỗi đói, chờ đợi họ trở ra. Và đến lúc họ trở ra, thân mật hơn nhiều so với trong tưởng tượng của anh, anh chợt cười thành tiếng, tự thấy tất cả những hành động của mình từ nãy đến giờ sao mà… vô nghĩa.

Sáu năm trước, anh đã một lần tự đẩy mình vào tình cảnh bất đắc dĩ kiểu này. Thậm chí, nếu xét theo tiêu chuẩn nóng bỏng giật gân câu lượt đọc của các thể loại báo điện tử hiện tại thì những gì anh vừa chứng kiến chỉ là tin tức hạng bét so với những gì anh bắt gặp trước kia. Đăng ngửa đầu nhìn ánh đèn tuýp trắng nhờ toả ra từ ô cửa sổ của ngôi nhà cuối ngõ, chầm chậm rút lại nụ cười. Không hiểu sao, so với khi đó, giờ phút này, anh lại thấy khó chịu, bực mình, hoặc nói hơi ngoa là phẫn nộ hơn.

Có lẽ vì cách đây sáu năm, trước khi sự kiện xứng đáng lên trang nhất báo mạng đó xảy ra, tình cảm của anh và người ấy đã rạn nứt đến mức không thể cứu vãn. Có lẽ vì cách đây sáu năm, anh quá tự ti còn kẻ thứ ba lại ở quá cao. Có lẽ vì khi đó, không ai thường xuyên nhìn anh bằng ánh mắt vừa ngưỡng mộ, say mê vừa e dè, tiếc nuối. Có lẽ vì khi đó, không ai mặc chiếc áo sơ mi cổ thuyền bằng vải voan mềm dịu đi lướt qua người anh, để rớt lại một mùi hương nhàn nhạt khó gọi tên…

Phẩy tay đuổi mấy con muỗi táo tợn bay xông vào tận mặt, đồng thời cũng gạt những dòng hồi tưởng hỗn độn vào một góc tâm trí, Đăng nhấc lưng khỏi bức tường, uể oải đi ra khỏi ngõ. Đã đến giờ cơm tối nhưng anh chẳng muốn về nhà.

Cuối tuần, tuyến phố chính của khu phố cổ biến thành chợ đêm dành cho người đi bộ, xe cộ dồn hết vào các đường ngõ nhánh quanh đó, gây ra những điểm ùn tắc nho nhỏ. Phải vòng vèo mất một lúc, Đăng mới tìm được quán bar trong trí nhớ. Đã hai năm nay, anh không quay lại chỗ này. Hồi còn làm ở văn phòng cũ, mấy đồng sự độc thân thỉnh thoảng lại kéo nhau đến đây xả hơi cuối tuần. Những khi không phải đi công tác ở tỉnh, anh cũng thường tham gia, uống bia, nghe nhạc, xem bóng đá Anh hoặc xem người khác nhảy, thưởng thức cuộc sống về đêm sôi động của một thủ đô phồn hoa trước khi quay về với những dự án phục vụ mục tiêu thiên niên kỷ ở các vùng trung du, miền núi nghèo xơ xác.

Đẩy hai lớp cửa kính bước vào, Đăng chậm rãi đi qua quầy bar chỉ lác đác đôi ba khách để tới ngồi bên một băng gỗ dài và hẹp được bắt thẳng vào bức tường sơn xanh sẫm như chiếc kệ vừa đủ để những người khách không có nhu cầu ngồi bàn riêng có thể đặt đồ uống và tì tay. Góc này ở gần cuối căn phòng, sát chỗ dành cho DJ, chỉ cần xoay người là sẽ thấy khoảng trống được chừa làm sàn nhảy. Chưa đến bảy rưỡi tối, trong quán, tiếng nhạc vẫn nhỏ hơn tiếng nhân viên nói chuyện, mấy bóng đèn halogen lắp trên cao hắt những quầng ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống những bức vẽ mô phỏng phong cách tranh cổ động thời chiến và những chiếc ghế đẩu sơn đen cao lênh khênh. Điều hoà hình như mới bật cách đây ít phút, hơi nóng vẫn len lỏi giữa không gian tối om khen khét mùi thuốc lá tích tụ lưu cữu từ năm này sang tháng nọ. Đăng nhấp một ngụm bia, lơ đãng nhìn về phía cô nhân viên có mái tóc tỉa nhuộm táo bạo như nhân vật trong truyện tranh Nhật đang nhàn hạ cầm điện thoại chơi game. Chiếc điện thoại không phải màu hồng nhưng có dây đeo lấp lánh trên tay cô gái này khiến anh nghĩ đến một cô gái khác, người đã xô đẩy cảm xúc của anh, bắt nó trải qua đủ mọi cung bậc, chỉ trong vài tiếng ngắn ngủi chiều tối nay.