Vào hôm chạng vạng Dung Phỉ đi tới núi trường thanh, ráng chiều dấy lên nửa bầu trời.

Trước rừng trúc, có một thiếu niên khoanh chân ngồi trên một tảng đá cao to, chậm rãi mở đôi mắt phượng xinh đẹp nhìn về phía Dung Phỉ, gương mặt lạnh lùng tuấn tú như một bức vẽ tinh vi.

Mặt trời lặn về phía Tây, ánh sáng lơ lửng rơi trên mái tóc dài đen nhánh và đạo bào thuần trắng của thiếu niên, mông lung u tĩnh.

Dung Phỉ đứng sững tại chỗ, ngơ ngác nhìn, liền thấy thiếu niên kia mở miệng nói: “Ta tên Cố Kinh Hàn, ngươi tên gì?”

Bờ môi cử động, Dung Phỉ tìm về giọng nói của mình: “Dung Phỉ, ta tên Dung Phỉ, Phỉ của văn thái phỉ nhiên.”

“Kể từ hôm nay, đệ sẽ là sư đệ của ta.”

Chỉ với một câu nói, đứa trẻ ăn mày bò ra từ trong ngôi miếu đổ nát đã trở thành chủ nhân thứ ba của Trường Thanh quán.

Lão đạo chẳng làm gì cả, cả ngày chỉ đóng cửa đọc kinh, quanh năm suốt tháng cũng không ló mặt ra dòm hai đệ tử của mình một lần. Dung Phỉ vào Trường Thanh quán, sớm chiều đối diện chỉ có mỗi Cố Kinh Hàn.

Cố Kinh Hàn sắp xếp cho Dung Phỉ chỉ mới sáu tuổi ngủ sát phòng mình, nhưng sư đệ này hình như nhát gan lắm, mỗi khi gặp trời mưa sét đánh hoặc ác mộng thì đều chạy tới gõ cửa phòng hắn, ôm gối trợn to đôi mắt hoa đào nhìn hắn, ôm cổ hắn, sượt vào lồng ngực hắn, còn muốn hắn kể chuyện thì mới chịu ngủ.

Cố Kinh Hàn tự nghĩ lòng dạ của mình lạnh đến mức giống như sắt đá, thế nhưng mỗi khi đối diện với tiểu sư đệ này lại chẳng làm được gì.

“Đệ còn nhỏ nên sợ là đúng rồi, chờ lớn hơn là hết ngay.” Dung Phỉ cười hì hì ăn vạ trong ổ chăn của Cố Kinh Hàn.

Dung Phỉ biết Cố Kinh Hàn rất chiều mình.

Người sư huynh mặt lạnh đến mức rơi vụn băng cực kỳ mềm lòng với cậu.

Ban đầu, thằng nhãi ranh mới có vài tuổi còn ngoan ngoãn một chút, về sau thì chim rời lồng sắt, vui chơi làm càn, gieo vạ cả ngọn núi Trường Thanh. Vật bơi trong nước, vật bay trên trời, ngay cả mấy bụi hoa lan trong vườn mà lão đạo thích nhất đều trải qua bàn tay tàn phá của Dung Phỉ.

Tuy nhiên, Cố Kinh Hàn chưa từng thật sự răn dạy Dung Phỉ lần nào.

Mặc dù đã mười mấy tuổi đầu nhưng Dung Phỉ thường xuyên lăn lộn đến cả người toàn là bùn, bị Cố Kinh Hàn xách ra từ trong núi rừng, mang về đạo quán, đánh cho một roi như gãi ngứa.

Quả thật không đau chút nào, chưa tới nửa canh giờ, thế nào người này cũng sẽ kéo tay cậu, cẩn thận thoa thuốc cho mà xem.

Dung Phỉ chưa từng nói với Cố Kinh Hàn rằng thật ra cậu không thích nghịch ngợm gây sự, chỉ là ánh mắt mỗi khi thoa thuốc cho cậu của Cố Kinh Hàn quá mức chăm chú, cậu muốn đôi mắt này chỉ nhìn mỗi cậu thôi.

Chẳng biết từ khi nào, loại cảm xúc này đã chiếm cứ đầu óc của cậu, khiến cậu đắm chìm, không thể tự kiềm chế, cũng không thể ngăn chặn.

Nhưng khi cậu dần lớn lên, cậu biết rằng mình không còn thích hợp làm những việc này nữa.

Dung Phỉ lớn lên bắt đầu theo Cố Kinh Hàn làm bài buổi sáng, luyện kiếm, tĩnh tọa tu hành, thỉnh thoảng sẽ cùng nhau xuống núi đi chợ, trung thực hơn, cũng vâng lời hơn.

Mãi đến tận lần nọ trên chợ, Dung Phỉ vô tình lật xem một thoại bản không tên.

Chỉ xem có vài lần nhưng đã khiến cậu như bị sét đánh.

Ngày đó, trên đường trở về, trời đổ mưa to, Cố Kinh Hàn và Dung Phỉ che cùng một cái ô, chậm rãi đi lên núi.

Dung Phỉ mất tự nhiên đi tụt lại phía sau nửa bước, kiềm chế ánh mắt buồn bã thỉnh thoảng lia trên sườn mặt của Cố Kinh Hàn, vừa mâu thuẫn vừa ủ dột.

“Sư đệ.” Cố Kinh Hàn đột nhiên dừng bước.

Dung Phỉ bất thình lình va vào vai hắn, khi đang muốn tách ra thì lại bị Cố Kinh Hàn trở tay nắm vai, kéo cậu nửa dựa vào lồng ngực của Cố Kinh Hàn.

“Sư huynh, sao vậy…” Cả người Dung Phỉ cứng ngắc, đầu lưỡi hơi run rẩy.

“Tới gần chút,” Cố Kinh Hàn liếc nhìn Dung Phỉ, đặt tay lên nửa bên vai ướt đẫm của Dung Phỉ, “Ướt.”

Cuối chân trời bỗng xuất hiện một tia chớp.

Dung Phỉ đột nhiên đưa tay ôm lấy eo Cố Kinh Hàn, vùi mặt vào trong cổ hắn, im lặng trong chốc lát rồi mới nói: “Sư huynh… đệ sợ.”

Từ khi thiếu niên nho nhỏ Dung Phỉ trưởng thành, Cố Kinh Hàn không còn tiếp xúc gần với cậu như vậy, mùi ôn lạnh tràn đến, làm cậu hơi run run.

Tay giơ lên muốn đẩy ra, nhưng lại nhẹ nhàng vòng qua eo thiếu niên.

“Yếu ớt.”

Dung Phỉ cọ cọ: “Là do huynh chăm mà.”

Cố Kinh Hàn thở dài, sư đệ chẳng biết xấu hổ như vậy quả thật là do hắn chăm.

Dung Phỉ chẳng biết xấu hổ mà còn thích được voi đòi tiên.

Từ sau ngày đó, đôi lúc cậu muốn lười biếng sáp lại bên cạnh Cố Kinh Hàn, cọ cọ dựa dựa một chút.

Cậu còn vơ vét cả đống thơ tình, cả ngày đọc cho Cố Kinh Hàn nghe, Cố Kinh Hàn hỏi cậu có biết ý nghĩa hay không, cậu liền cười đáp: “Ý là đệ thích sư huynh.”

Mập mập mờ mờ nhưng vẫn nện vào tận đáy lòng Cố Kinh Hàn.

Trường Thanh quán không có hương khói, toàn bộ kế sinh nhai của đạo quán đều dựa vào ba mẫu ruộng trên núi.

Cố Kinh Hàn không có năng khiếu trồng trọt, không năm nào thu hoạch được thứ gì, buộc phải xuống núi đoán số bắt quỷ, duy trì kế sinh nhai. Mãi đến tận một lần đấu pháp bắt quỷ nọ, Cố Kinh Hàn trúng mưu kế, trọng thương không dậy nổi, Dung Phỉ cõng hắn đi mấy chục dặm về tới đạo quán.

Từ đó, Cố Kinh Hàn bị Dung Phỉ cấm túc ở núi Trường Thanh.

Mỗi sáng sớm tinh mơ, Dung Phỉ đổi xiêm y gọn gàng, đi chăm bón những mẫu ruộng kia, Cố Kinh Hàn hỗ trợ nấu nước, nhưng thường bị Dung Phỉ ghét bỏ, đuổi hắn ra khỏi ruộng.

“Sư huynh, huynh xem tay đệ có vết chai rồi, khó coi quá, huynh xoa cho đệ đi…”

“Sư huynh, hôm nay đệ chiên cơm khét, muốn ăn cá huynh làm cơ…”

“Sư huynh, huynh xem hiện giờ đệ trồng trọt còn huynh làm cơm, chúng ta có giống một đôi phu thê nhỏ không? Có lẽ đệ là kiểu con dâu nuôi từ bé ấy…”

Khói bếp lượn lờ kèm theo hương đèn chuông vang, yên tĩnh tốt đẹp trong ánh hoàng hôn.

Dung Phỉ thường xuyên cảm thấy sống như vậy hết đời cũng khá tốt, chỉ cần cậu có thể nhìn thấy sư huynh, sư huynh của cậu có thể nhìn thấy cậu là được rồi. Thế nhưng, cuộc sống như vậy không kéo dài lâu.

Lão đạo thu đồ đệ thứ ba, là núi Trường Thanh hóa thành yêu, tên hả, gọi luôn là Trường Thanh.

Trường Thanh là một đứa bé mới sinh không biết gì, lão đạo chăm sóc được một năm, sau đó hất tay ném thằng bé cho hai cậu thanh niên.

Nguyện vọng làm một đôi phu thê nhỏ cùng Cố Kinh Hàn của Dung Phỉ trở thành sự thật, còn chưa động phòng mà đã có một thằng nhóc con bụ bẫm.

Tuy Dung Phỉ không ưa Trường Thanh vướng tay vướng tay nhưng lại làm một cái gùi nhỏ, mỗi ngày địu tiểu Trường Thanh lên núi xuống sông, nghịch ngợm khắp nơi.

Cố Kinh Hàn không xài lại kiểu nuông chiều vô độ như hồi Dung Phỉ, trái lại vô cùng nghiêm khắc, Trường Thanh mới vừa học chạy xong thì đã bị kéo đi học luyện kiếm.

Song, Cố Kinh Hàn cũng sẽ làm kẹo hoa quế cho Trường Thanh, dẫn nó đi chợ mua kẹo đường, dạy nó đạo lý, cùng nó đọc kinh, giống như những gì hắn từng làm cho Dung Phỉ, song vẫn có chút không giống.

Năm tháng là sự khảo nghiệm khó nhất, chớp mắt đã trôi qua.

Vào lúc Trường Thanh trưởng thành, Cố Kinh Hàn bế quan.

Cũng vào năm ấy, lão đạo đưa cho Dung Phỉ một phong thư, bảo Dung Phỉ xuống núi, đảm nhiệm chức quốc sư của vương triều Kỳ, trấn thủ trăm năm quốc vận.

“Vì sao phải là con?” Dung Phỉ lười biếng từ trong trứng, khó hiểu hỏi

Giọng của lão đạo lan tỏa: “Không phải con thì sẽ là sư huynh con, nó hiện đang ở giai đoạn bế quan quan trọng, con xem rồi làm theo đi.”

Dung Phỉ vẫn không vui, lão đạo lại ung dung thả thêm mồi lửa: “Trong vòng trăm năm, sư huynh con không thể xuất quan; chờ trăm năm sau, con trở về, nó xuất quan, sư phụ đáp ứng con một chuyện.”

Tâm tư bị vạch trần, sau khi Dung Phỉ ngạc nhiên thì dứt khoát thu xếp hành lí xuống núi.

Trước khi đi, Dung Phỉ bỏ ra cả một buổi tối viết một phong thư dài, nhét vào khe cửa phòng của Cố Kinh Hàn.

Trong thư chồng chất lời căn dặn vụn vặt, cùng với những lời muốn nói và than thở não nề, rối hết cả mắt.

Cuối cùng, chỉ có một câu vô cùng mặt dày: “Sư huynh, chờ con dâu nuôi từ bé của huynh trở về, muốn cùng huynh kết hôn đó.”

Đối với tu giả thì một trăm năm trôi qua rất nhanh.

Lúc Dung Phỉ nghĩ đến chuyện này, thủ đô thành Kỳ Sơn của vương triều Đại Kỳ đã ở trước mặt.

Thành Kỳ Sơn xây dựa vào núi, hùng vĩ đồ sộ, trang nghiêm rực rỡ.

Chỗ cao nhất trong hoàng cung chính là đài Thiên Cơ, được xây dựng riêng cho quốc sư.

Triều đại Kỳ với thần quyền cao hơn hoàng quyền, đế vương trẻ phô trương thanh thế chào đón quốc sư tân nhậm Dung Phỉ vào cung.

Dung Phỉ không thích đài Thiên Cơ, nên dựng một ngôi nhà tranh ở phía sau núi, sau đó bế quan.

Toàn bộ vương triều Đại Kỳ đều biết trong ngọn núi ở phía sau hoàng cung có một vị quốc sư đại nhân giống như thần tiên, hàng phục được giầy thêu và xương cốt trẻ sơ sinh quỷ dị bên trong giếng khô ở hậu cung, còn nuôi một con rắn nhỏ không biết Đông Tây Nam Bắc, chỉ biết đâm đầu vào tường.

Vài chục năm của quốc sư cứ như một ngày, dung nhan không thay đổi.

Chỉ cần Dung Phỉ rời khỏi núi, bất kể đi đến nơi nào cũng có một đám người quỳ xuống chào đón. Dần dần, Dung Phỉ không ra ngoài nữa, đóng cửa bế quan một cách thẳng thừng.

Có lẽ thật là hạt mầm tu đạo, Dung Phỉ chỉ bế quan hai mươi ba năm, chợt có một ngày, tựa như cảm ứng được điều gì đó trong cõi u minh, cơ thể bị một khí thế không tên dẫn dắt, mở mắt ra.

Trong phút chốc, mây đen cuồn cuộn tụ hội, tuyết lớn tung bay, mịt mù tăm tối.

Một đôi mắt mở to trên bầu trời, trùng khít với đôi mắt của Dung Phỉ, đôi mắt đó nhìn xuống, trông về phía trần thế.

Vạn vật thế gian, lục đạo luân hồi thu hết vào mắt, song chẳng kịp nhìn kỹ thì trước mắt đã đỏ au.

Nhòm ngó thiên đạo là hành động cực kỳ bất kính!

Trong nháy mắt, máu nóng ào ào chảy ra từ hai mắt Dung Phỉ, khí thế cả người mất khống chế tràn ra. Có hai sợi chui ra khỏi trận pháp, một sợi bay vào hoàng cung, một sợi bay vào cơ thể của một đứa bé mới sinh.

Trong cung điện nguy nga, lão hoàng đế bệnh nặng hấp hối bỗng nhiên trợn to mắt, nắm chặt tay Hoàng thái tôn Văn Húc, hai mắt rã rời nhìn chằm chằm về một hướng.

Cũng chính là phương hướng Lục Trầm Uyên và Nghiêm Tử Kỳ cùng đầu thai chuyển kiếp.

Một cô gái với phần thân dưới đầy máu tươi ngã trong tuyết, khi nghe thấy tiếng khóc nỉ non vang dội của trẻ con, trên gương mặt nhợt nhạt xinh đẹp tuyệt trần nở một nụ cười.

“Cha đặt tên cho con là… Nghiêm Tử Kỳ.”

Tay của cô gái nhẹ nhàng vuốt ve mặt của con mình.

Có một tia sáng vàng ảm đạm chẳng biết đến từ nơi nào, lặng yên chui vào người bé con, không một ai hay biết.

Chỉ là tiếng khóc này đột ngột đứt đoạn, tựa như số phận chết yểu, báo trước kiếp nạn chẳng thể chạy thoát.