Phạm Ninh chấm mực nước, cầm bút nghiêm túc viết một bài thơ lên ống quyển.

Xuân nhật điền viên(Nông thôn ngày xuân)Liễu hoa thâm hạng ngọ kê thanh,(Hoa liễu ngõ sâu gà gáy trưa)Tang diệp tiêm tân lục vị thành.

(Lá dâu còn non hãy lưa thưa)Tọa thụy giác lai vô nhất sự,(Ngủ liền một giấc không màng sự)Mãn song tình nhật khán tàm sinh.

(Đẩy cửa ngắm tằm dưới nắng trưa.

)…Viết xong bài thơ này, Phạm Ninh đặt bút xuống một bên, đợi cho mực nước khô, lúc này, một quan giám khảo bỗng dừng lại bên cạnh hắn.

Chỉ chốc lát, quan giám khảo đã kinh ngạc hỏi:- Thơ này là do ngươi viết?Giọng nói hơi quen quen, Phạm Ninh ngẩng đầu, là một ông cụ với bộ râu dài, đầu đội mũ cánh chuồn, Phạm Ninh đã nhận ra ông, không ngờ lại là quan chủ khảo đã vấn đáp hắn.

Ông cụ này âm hồn bất tán hay sao vậy trời!Hiện tại Phạm Ninh chỉ thầm nghĩ đến chuyện nhanh chóng rời khỏi đây, liền vội vàng đứng dậy, nói:- Con muốn nộp bài làm!Đùa gì vậy chứ, nếu chẳng may ông lão này lại không theo quy định, bảo mình viết ngay một bài thơ nữa, vậy thì còn sống nổi sao.

Ông cụ thấy Phạm Ninh đã bị mình dọa, không khỏi mỉm cười, khẽ gõ vào ống quyển:- Tên của ngươi còn chưa viết nữa kìa!Lúc này Phạm Ninh mới phát hiện chỗ viết tên vẫn để trống, hắn chỉ đành ngồi xuống viết tên mình vào đó, Phạm Ninh, thôn Tương Loan, trấn Mộc Đổ.

Ông cụ đọc lại bài thơ một lần, khen ngợi từ đáy lòng:- Bài thơ này viết không tệ, sinh động thú vị, trong sự giản dị mà thấy được hiệu quả, rất có phong cách quý phái.

Phạm Ninh lau mồ hôi trên trán mình, thơ của Phạm Thành Đại thời Nam Tống mà có thể không phong cách quý phái được sao?Lần này ông cụ cũng không làm khó hắn nữa, gật gật đầu xoay người rời đi.

Lúc này Phạm Ninh mới đứng dậy chuẩn bị nộp bài thi, hắn nhanh chóng liếc qua chỗ tiểu loli, chỉ thấy tiểu loli cũng đã đặt bút xuống, nàng cũng sắp nộp bài thi rồi.

Trong lòng Phạm Ninh cuống lên, nộp ống quyển xong liền bước nhanh đi ra ngoài, không ngờ hắn lại đi nhầm hướng, phát hiện đằng trước là ngõ cụt, liền vội vàng quay đầu lại.

Lại thấy tiểu loli đan hai tay trước ngực, nghiêng đầu, vẻ mặt cười nhạo nhìn hắn.

- Ta còn tưởng ngươi sẽ trèo tường ra ngoài cơ!- Ngươi cứ cười nữa đi!Phạm Ninh bước nhanh về phía trước, đi qua bên cạnh nàng, tiểu loli cũng không buồn bực, cười hì hì hỏi:- Ta đang muốn hỏi tên ngươi là gì?- Tên nó là Phạm Ngốc Ngốc!Đằng sau có một giọng nói đầy âm dương quái khí truyền đến.

Phạm Ninh quay đầu lại, chỉ thấy Tưởng A Quý đi ra từ học đường lớn, nó cũng đã nộp bài xong rồi.

Tưởng A Quý ghen ghét nhìn Phạm Ninh:- A Ngốc, ngươi cũng biết giả bộ phết đấy!Tiểu loli che miệng cười trộm:- Hóa ra tên ngươi là Phạm Ngốc Ngốc?Phạm Ninh lười giải thích, hắn lắc lắc đầu, bước nhanh rời đi.

Tưởng A Quý lao ra khỏi cửa học đường, tức giận hét to:- Phạm Ngốc, ngươi cứ chờ xem, xem lúc về ta xử lý ngươi thế nào!Phạm Ninh dừng bước, hắn xoay người lại đi lên trước:- Ngươi thử gọi thêm một tiếng nữa xem!- Phạm Ngốc, ta cứ gọi đấy thì sao hả?Phạm Ninh bước lên hai bước nữa, hung hăng nện một đấm vào mặt Tưởng A Quý, Tưởng A Quý trở tay không kịp, bị Phạm Ninh đấm một đấm trúng mũi.

Nó kêu thảm thiết như lợn bị chọc tiết, ôm chặt lấy mũi ngồi xổm xuống.

Phạm Ninh phủi tay, xoay người nghênh ngang rời đi, tiểu loli nhìn thấy rõ ràng, cười hì hì nói:- Thằng nhóc này vẫn liều lĩnh dũng mãnh phết!Phạm Ninh rời khỏi trường thi, bước nhanh đến chỗ bờ sông đã hẹn trước với phụ thân.

Từ xa đã nhìn thấy phụ thân hắn ngồi trên lan can đá, đang vừa nói vừa cười với một nam tử trung niên.

Bên cạnh còn có một thiếu niên tuổi cũng tương đương với hắn, làn da đen nhẻm, khớp xương khá to, trông có vẻ rất tráng kiện, đôi mắt còn đặc biệt có thần.

Phạm Ninh bước nhanh đi đến đó:- Phụ thân, con đã thi xong!- Thi thế nào rồi?Phạm Thiết Chu quan tâm hỏi han.

- Vấn đáp đã thông qua được, đề thi viết là làm một bài thơ, con cũng viết xong rồi, nhưng kết quả cuối cùng thì chưa biết thế nào.

- Câu hỏi vấn đáp là đề tài gì?Thiếu niên bên cạnh hỏi.

Phạm Ninh rất ngạc nhiên liếc mắt nhìn thiếu niên đó.

Phạm Thiết Chu liền vội vàng vừa cười vừa giới thiệu cho con:- Vị Lưu bá bá này trước kia cũng là người thôn Tương Loan chúng ta đấy, sau này chuyển chỗ lên trấn trên.

Phạm Ninh liền vội cung kính ra mắt:- Chào Lưu bá bá ạ!- Tốt! Tốt!Nam tử trung niên liên tục khen ngợi:- Không ngờ A Ngốc có thể tham gia thi vào học đường Diên Anh rồi, quả thực khiến người ta không dám tin.

Phạm Thiết Chu lại chỉ vào thiếu niên, cười nói:- Đây là con trai của Lưu bá bá, lớn hơn con một tuổi, trước kia đã từng chơi đùa với con đấy, bây giờ đang học tập tại học đường Diên Anh.

Hóa ra thiếu niên này cũng là người trong học đường Diên Anh, khó trách lại hỏi mình đã rút phải đề gì.

Phạm Ninh gãi đầu cười, hỏi:- Rút ra đề gì thì có gì quan trọng sao?Thiếu niên nghiêm túc gật đầu:- Đương nhiên là quan trọng rồi, còn khá quan trọng là đằng khác, liên quan đến chuyện đệ có thể thi đậu học đường hay không đấy.

Người đàn ông trung niên tên là Lưu Hoành Vận, gia cảnh nhà lão ở trong thôn Tưởng Loan rất tốt, ở trấn trên còn mở một tiệm tạp hóa.

Để cho con trai có được sự dạy dỗ tốt hơn, ba năm trước cả nhà lão đã chuyển lên trấn trên, con trai vào học ở một tiểu học tư thục có tiếng, người con cũng rất cố gắng, năm trước đã thi đỗ vào học đường Diên Anh.

Lưu Hoành Vận cười nói ha hả:- Thật khó gặp được ngày như hôm nay, chúng ta đi ăn trưa thôi, tôi mời.

Từ Tần Hán tới nay, bình thường mỗi ngày người dân chỉ ăn hai bữa cơm, một bữa sáng, một bữa tối.

Tới triều Tống, vì buôn bán phát triển, thức ăn phong phú, quán ăn mở ra khắp nơi, thói quen ăn uống của dân chúng bắt đầu chuyển thành mỗi ngày ba bữa cơm.

Nhưng sự chuyển đổi này cũng không phải là xảy ra trong chốc lát, mà là quá trình từng bước thay đổi, thời Tống Nhân Tông đúng là thời kì hai bữa và ba bữa cùng tồn tại.

Nhà gia cảnh có chút bần hàn, giống như nhà Phạm Ninh, một ngày chỉ hai nữa cơm, nhà gia cảnh giàu có hơn một chút, giống như Lưu viên ngoại này, đã bắt đầu chuyển sang lối sống bậc trung ăn ba bữa một ngày.

Do sự khăng khăng nhất mực của Phạm Thiết Chu, bọn họ đi vào một quán ăn gần bến đò.

Quán cơm nhỏ kiểu này đương nhiên là phong thái không thể bằng quán rượu lớn, thật ra chỉ là dựng vách ngăn lên làm thành một cái lều cỏ, ở dưới bày bốn năm bàn lớn, ba mặt đều thông gió.

Điều kiện tuy rằng đơn sơ một chút, nhưng hơn ở chỗ đồ ăn nhiều giá lại rẻ, vô cùng hợp lý, rất được dân chúng bình thường chào đón.

Hai nhà bốn người ngồi xuống một cái bàn, Lưu Hoành Vận gọi hai đĩa bánh hấp nhân thịt dê, bốn đĩa rau củ muối, một con cá ngão hấp, một bát canh thịt dê, một bát chân giò kho, lại gọi thêm bốn bát canh dê thập cẩm.

Mấy món ăn này ở quán rượu lớn cộng lại ít nhất phải năm sáu trăm đồng, nhưng ở quán ăn nhỏ thế này, chỉ cần một trăm đồng là đủ rồi.

.