Chúng tôi đi qua phòng khiêu vũ với vẻ ngoài bình tĩnh. Nhưng khi đã qua cánh cửa đôi, chúng tôi đầu hàng cơn sợ hãi và gần như co cẳng chạy. Vẫn khoác tay nhau, chúng tôi hết đâm sầm vào nhau lại ngã dúi dụi trong lúc Lindy dẫn đường tôi qua khách sạn. Rồi bà lôi tôi vào buồng thang máy dành cho nhân viên, và chỉ khi cửa đóng và thang chạy lên bà mới buông ra, tựa lưng vào vách thang kim loại mà phát ra một chuỗi tiếng kêu kỳ dị, tôi nhận ra đó là tiếng cười điên dại qua bộ lọc của lớp băng quấn.

Khi chúng tôi ra khỏi thang máy, bà lại khoác lấy tay tôi. “Được rồi, an toàn rồi,” bà nói. “Bây giờ tôi muốn đưa anh đến chỗ này. Đây thực sự là một chỗ đáng kể. Nhìn xem?” Bà giơ một chiếc thẻ phòng lên. “Để xem nó làm được những gì.”

Bà dùng chiếc thẻ mở một cánh cửa có biển “Không nhiệm vụ miễn vào”, rồi một cửa “Nguy hiểm. Không vào”. Và chúng tôi đã đứng giữa một nơi đầy mùi sơn và vữa. Các loại dây thả xuống lủng lẳng trên trần và tường, sàn nhà lạnh còn đang sũng nước và ố bẩn. Chúng tôi nhìn rõ được vì một vách tường phòng toàn bằng kính – chưa có màn hay rèm cửa gắn vào – và đèn đường bên ngoài hắt khắp phòng những vệt vàng dìu dịu. Chúng tôi còn đang ở cao hơn tầng mình nữa: trước mặt là toàn cảnh đường cao tốc và vùng lân cận, như nhìn từ trực thăng.

“Đây sẽ là một phòng tổng thống mới,” Lindy nói. “Tôi rất thích đến đây. Vẫn chưa có đèn, chưa có thảm. Nhưng nó đang dần dần thành hình. Lần đầu tôi thấy, nó còn sơ sài hơn nhiều.Bây giờ anh đã thấy dáng vẻ chung của nó. Còn có cả cái đi văng này nữa.”

Ở giữa phòng có một vật lù lù trùm vải lên trên. Lindy đi tới như một người quen cũ và thả mình xuống mệt mỏi.

“Tôi có một giấc mơ,” bà nói, “nhưng tôi gần như tin vào nó. Người ta xây phòng này chỉ để cho tôi. Vì thế tôi mới vào được đây. Toàn bộ việc này. Đấy là vì họ muốn giúp tôi. Giúp tôi xây dựng tương lai. Chỗ này lúc trước cực kỳ hỗn độn. Nhưng giờ nhìn xem. Nó đang định hình. Rồi ra nó sẽ tuyệt lắm.” Bà vỗ lên mặt ghế cạnh mình. “Lại đây, cưng, ngồi nghỉ chút đi. Tôi thấy rã rời cả người. Chắc anh cũng vậy.”

Cái đi văng – hoặc bất kỳ cái gì nằm dưới tấm vải – êm ái đến ngạc nhiên, và ngay khi ngồi xuống, tôi đã thấy cơn mệt mỏi đổ ập lên mình.

“Ôi trời. Tôi buồn ngủ quá đi mất,” bà nói, và tôi thấy sức nặng của bà tì lên vai. “Chỗ này có tuyệt không? Tôi thấy cái thẻ trong ổ khóa, khi lên đây lần đầu tiên.”

Chúng tôi im lặng một lúc, và tôi thấy mình đang lơ mơ ngủ. Nhưng rồi tôi nhớ ra một điều.

“Này, Lindy.”

“Ưm?”

“Lindy. Cái giải thưởng thế nào rồi?”

“Cái giải thưởng? À ờ. Cái giải thưởng. Tôi giấu nó rồi. Tôi còn làm gì được? Anh biết không, cưng ạ, anh thật sự xứng đáng nhận cái giải đó. Tôi hy vọng anh cũng thấy có ý nghĩa gì, việc tôi trao giải cho anh tối nay ấy, cách tôi đã làm. Đấy không phải là thói ngông trong phút chốc đâu. Tôi đã suy nghĩ chuyện đó. Tôi nghĩ rất là kỹ. Tôi không biết nó có ý nghĩa nhiều với anh không. Tôi không biết liệu mười hay hai mươi năm nữa anh có còn nhớ nó không.”

“Tôi sẽ nhớ, tất nhiên rồi. Và nó có ý nghĩa nhiều lắm. Nhưng Lindy này, bà bảo bà giấu nó, nhưng ở đâu? Bà giấu nó ở đâu?”

“Ừm?” Bà đã lại gà gật. “Tôi giấu nó ở chỗ duy nhất giấu được. Tôi nhét nó vào con gà tây.”

“Bà nhét nó vào con gà tây.”

“Tôi đã làm một việc y hệt một lần hồi lên chín. Tôi giấu quả bòng dạ quang của chị tôi trong con gà tây. Nhờ thế tôi mới nghĩ ra lúc ấy. Tôi nhanh trí nhỉ, phải không?”

“Phải, tất nhiên rồi.” Tôi thấy mệt kinh khủng, nhưng buộc mình phải tập trung. “Nhưng Lindy này, bà giấu có kỹ không? Ý tôi là, liệu bây giờ hai người đó đã có thể tìm ra chưa?”

“Tôi cho là không. Không có cái gì thò ra cả, nếu ý anh là thế. Làm sao họ lại nghĩ ra mà tìm ở đó được? Tôi ấn nó vào đằng sau lưng mình, thế này này. Cứ thế mà ấn. Tôi không quay lại nhìn, vì nếu thế hai cậu đó sẽ nghĩ xem tôi làm gì. Đấy không phải thói ngông phút chốc đâu, anh biết không. Quyết định trao giải cho anh ấy. Tôi đã suy nghĩ chuyện đó, nghĩ nhiều lắm. Tôi cực kỳ hy vọng nó có ý nghĩa gì với anh. Ôi trời, tôi muốn ngủ.”

Bà đổ ập vào tôi và chốc sau đã vang lên tiếng ngáy. Lo cho vết mổ của bà, tôi lựa đầu bà cẩn thận để má bà không tì lên vai mình. Rồi cả tôi cũng thiếp đi.

Tôi giật mình tỉnh dậy thì thấy bình minh đang chớm đến trong khung cửa sổ lớn đùng trước mặt. Lindy vẫn ngủ rất say, nên tôi thận trọng giải phóng mình khỏi bà, đứng dậy vươn vai. Tôi đến bên cửa sổ nhìn lên bầu trời sáng mờ và đường cao tốc bên dưới. Có gì đó cứ vẩn trong đầu trong khi tôi ngủ và tôi cố nghĩ lại xem là gì, nhưng óc tôi cứ ù lên và rã rời cả. Rồi tôi nhớ ra, liền quay lại đi văng lay Lindy dậy.

“Cái gì thế? Cái gì thế? Anh muốn gì?” bà nói mà không mở mắt.

“Lindy,” tôi nói. “Cái giải thưởng. Chúng ta đã quên mất cái giải thưởng.”

“Tôi đã nói với anh rồi. Nó ở trong con gà tây.”

“Được rồi, giờ nghe này. Mấy người cảnh sát có thể không nghĩ đến chuyện tìm trong con gà tây. Nhưng sớm hay muộn cũng sẽ có người tìm thấy. Có thể người ta đang cắt nó ra ngay lúc này cũng nên.”

“Thế thì sao? Thì họ tìm thấy nó trong ấy. Thế thì sao?”

“Họ tìm thấy nó trong ấy, họ báo lại phát hiện này. Rồi ông cảnh sát nhớ lại chúng ta. Ông ta nhớ lại chúng ta đang ở đó, đứng ngay cạnh con gà.”

Lindy có vẻ tỉnh hơn. “Phải rồi,” bà nói. “Tôi hiểu anh nói gì rồi.”

“Trong lúc cái tượng còn ở trong con gà, họ còn có thể truy ra chúng ta là thủ phạm.”

“Thủ phạm à? Này, anh nói thủ phạm là thế nào?”

“Bà gọi là gì cũng được. Chúng ta phải quay lại đó lấy nó ra khỏi con gà. Sau rồi chúng ta bỏ lại đâu cũng được. Nhưng chúng ta không thể để nó lại chỗ của nó bây giờ.”

“Cưng ơi, anh có chắc là chúng ta cần làm thế không? Tôi mệt quá chừng.”

“Chúng ta phải làm thế, Lindy. Chúng ta cứ để nó đấy thì bà sẽ gặp rắc rối. Và phải nhớ đây là một chuyện cánh nhà báo sẽ nhảy xổ vào.”

Lindy suy nghĩ một lúc, rồi thẳng người lên một khúc và nhìn lên tôi. “Được rồi,” bà nói. “Chúng ta quay lại đó.”