“Chết hay lắm, đáng chết từ lâu rồi.”

Hương thơm vấn vít khắp phòng, trong làn hương bay, Quy Lạc vương hậu cười gằn, giọng uể oải: “Con thị nữ này cũng gọi là có bản lĩnh, đầu độc chết hai vương tử Đông Lâm, dụ dỗ Sở Bắc Tiệp. Tiểu Kính An vương coi như có chút tình chủ tớ thì cũng thôi, ai ngờ, sau khi ả chết còn được cả tướng lĩnh Bắc Mạc tế bái. Hừ, người trong thiên hạ điên hết cả rồi hay sao?”.

“Nương nương nói rất đúng.” Nhạc Địch lúng túng vuốt bộ râu được cắt tỉa kỹ càng, “Chính xác Bạch Sính Đình chẳng đáng là gì cả. Có điều, nghe nói ả vừa chết, Sở Bắc Tiệp cũng coi như bị một đòn trí mạng, không thể gượng dậy. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tình thế hiện nay của tứ quốc”.

“Không thể gượng dậy”, Vương hậu ngạc nhiên, ánh mắt bỗng trở nên ai oán, thở dài, “Đúng là trên đời này vẫn có những nam nhân thật lòng, nhưng sao chỉ một mình nữ tử họ Bạch kia có được? Nếu Đại vương của chúng ta được một nửa Trấn Bắc vương cũng là cái phúc của bản cung”.

“Nương nương đừng vội cảm khái vì Sở Bắc Tiệp, trước mắt chúng ta còn việc quan trọng cần lo liệu.”

“Việc gì?”

Nhạc Địch mở cửa nhìn quanh, rồi khép lại, bước đến trước mặt Vương hậu, hạ giọng: “Nương nương còn nhớ Phi Chiếu Hành không?”.

Suy nghĩ giây lát, Vương hậu như đã nghĩ ra: “Chính là thuộc hạ của ca ca. Lần đó Đại vương sai người xâm nhập Đông Lâm, tập kích đoàn xe của Hà Hiệp và Bạch Sính Đình, chúng ta đã cử hắn…”.

“Đúng thế.”

“Sao thế, chẳng phải nên xử lý kẻ này từ lâu rồi sao?”

“Nếu đã xử lý thì còn gì phải lo? Nói đến việc này, tất cả đều tại ca ca bất tài của nương nương.”

Nhạc Địch thở dài, nói tiếp, “Nhạc Chấn trong lòng không đủ cứng rắn, nghĩ hắn theo mình từ nhỏ, cũng là chỗ tâm phúc, nên sau khi hắn trở về đã không sai người giết hắn mà chỉ cho hắn tiền, bảo hắn trốn đi thật xa”.

Vương hậu biến sắc: “Sao ca ca lại hồ đồ như thế? Đây đâu phải chuyện có thể mềm lòng? Haizzz, nhưng dù ca ca có suy nghĩ không chu đáo thì phụ thân cũng phải giáo huấn ca ca mới phải”.

Chuyện này không to không nhỏ, nhưng nếu lộ ra ngoài, đó sẽ là tội làm lộ việc quân, giết sạch cả họ.

Nhạc Địch cau mày: “Sao lại không giáo huấn? Nhạc Chấn đã nghe lời ta, lập tức sai người đi tìm Phi Chiếu Hành. Ai ngờ hắn quá tinh khôn, biến mất không một tung tích”.

Trong lòng Vương hậu thầm hận phụ thân làm việc không chu đáo, nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ lạnh lùng: “Tên Phi Chiếu Hành từ nhỏ đã tinh khôn như một con quỷ. Thả hổ về rừng, nếu hắn đã cảnh giác, chúng ta càng không dễ gì giết hắn”.

“Một ngày hắn còn sống là một ngày chúng ta còn thấy bất an. Nếu để Đại vương tìm thấy hắn trước…”

“Bản cung biết rồi”, Vương hậu suy nghĩ một lát, dặn dò, “Việc của Phi Chiếu Hành, bản cung sẽ sai người xử lý. Phụ thân gặp ca ca, hãy dặn ca ca đừng để ý đến chuyện khác mà phải dẫn binh cho tốt, phải biết lôi kéo tướng lĩnh. Chỉ cần nắm chắc binh quyền, ngay cả Đại vương cũng không dám tùy tiện làm gì Nhạc gia chúng ta. Hừ, vết xe đổ của vương phủ Kính An còn ngay trước mắt, chúng ta không thể làm một trung thần ngu xuẩn như Kính An vương, vất vả cả đời để nhận lấy họa diệt môn”.

Nhạc Địch gật đầu: “Nương nương nói chí phải”. Như bỗng nhớ ra việc gì, ông ta hỏi tiếp: “Đại vương đã biết tin Bạch Sính Đình chết chưa?”.

“Các tướng quân Bắc Mạc làm lễ cúng tế cho tiện nhân ấy, thiên hạ này còn ai không biết?” Nghĩ đến chuyện này, Vương hậu lại cảm thấy tức giận, đằng nào trước mặt cũng có mỗi phụ thân của mình, nên chẳng cần che đậy, nghiến răng nói: “Không biết một nữ nhân xuất thân thị nữ thì có được bản lĩnh gì, hơn nữa cũng chẳng phải là mỹ nhân. Biết tin ả chết, Đại vương cả ngày chẳng nói năng gì. Bản cung còn nghe nói Đại vương định ban bố vương lệnh, rằng tài đàn của Bạch Sính Đình là quốc bảo, ngự phong ả là Quy Lạc cầm tiên, còn định lập bia cho ả nữa. Đây chẳng phải là trò cười hay sao?”.

Nhạc Địch ưu tư: “Nương nương, Đại vương làm vậy hình như để cảnh cáo nương nương”.

Sắc mặt vương hậu tối sầm, bất đắc dĩ thở dài: “Sao bản cung lại không biết? Vương phủ Kính An không còn nữa, quyền thế của Nhạc gia ngày một lớn, phụ thân xem những tướng lĩnh dẫn binh trong triều, có người nào không phải do phụ thân và ca ca tiến cử? Trước kia vì việc của Dương Phượng, Đại vương đã cố nhẫn nhịn, nay lại vì Bạch Sính Đình, Đại vương càng cảm thấy bản cung không thuận mắt”.

“Nói ra, Vương hậu cũng thật lợi hại.” Nhìn sắc mặt Vương hậu, Nhạc Địch cẩn trọng lên tiếng, “Đại vương là vua một nước, bên cạnh có thêm vài mỹ nhân cũng là chuyện bình thường. Giống người có tên Lệ Nhi kia, nếu năm đó nương nương rộng lòng một chút, cho nàng ta làm thứ phi cũng có sao? Đằng này nương nương lại ép Đại vương phải tặng nàng ta cho Đông Lâm vương”.

Vương hậu khẽ hừ một tiếng: “Chẳng phải bản cung đã giúp nàng ta sao? Nàng ta đi theo Đông Lâm vương, được phong là Lệ phi, còn sinh hạ được một công chúa. Phụ thân đừng nói nữa, bản cung đang phiền lòng, việc gì cũng không như ý, phụ thân đừng chọc giận thêm”.

Biết nữ nhi hay ghen, Nhạc Địch thầm thở dài một tiếng, định khuyên nhủ tiếp, bỗng cảnh giác nghe thấy tiếng bước chân đang tới gần, liền vội vã dừng lại.

Ông ta trở về chỗ ngồi, nâng chén trà lên, còn chưa kịp uống, đã nghe thấy thị nữ tâm phúc của Vương hậu là Ngưỡng Dung đứng ngoài cửa, bẩm báo: “Nương nương, Đại vương sai người đến chuyển lời”.

“Vào đi.” Vương hậu cho gọi kẻ chuyển lời vào, vừa uống trà, vừa hỏi, “Đại vương chuyển lời gì?”.

“Bẩm nương nương, Đại vương đã ban bố vương lệnh, phong Bạch Sính Đình làm Quy Lạc cầm tiên, ngày kia sẽ tiến hành nghi lễ tế bái tại cổng chính vương cung. Đại vương nói, hôm đó mời nương nương tới cùng tế bái, làm gương cho nữ tử Quy Lạc.”

Nghe được một nửa, Vương hậu như muốn bóp nát chén trà trong tay, giận đến nỗi bàn tay run rẩy. Nhạc Địch ngồi bên cạnh vội nhìn sang, muốn nữ nhi nhẫn nại một chút.

Vương hậu nén cơn giận, khẽ cười: “Ta biết rồi. Ngày kia, cổng chính vương cung, đúng không? Đi nói với Đại vương, ta sẽ chuẩn bị”.

Thị vệ nhận lệnh, vội vã đi chuyển lời.

Nhạc Địch đóng cửa, quay lại, nhìn nữ nhi mặt đã biến sắc.

“Quả nhiên, quả nhiên! Lại là Bạch Sính Đình, âm hồn không tan!”, Vương hậu nghiến chặt hàm răng nhỏ đều, “Ả đã làm những gì mà phải khoa trương như thế? Đường đường một đại vương, lại ra lệnh ngự phong cho một thị nữ, phải ăn nói thế nào với bách tính Quy Lạc đây?”.

Khuôn mặt Nhạc Địch cũng sa sầm, nhưng suy nghĩ sâu xa hơn nhiều: “Đại vương muốn dùng vương phủ Kính An để áp chế Nhạc gia chúng ta. Tuy vương phủ Kính An không còn nữa, nhưng bách tính Quy Lạc vẫn chưa quên họ. Chính Đại vương đã phán tội vương phủ Kính An, nên không thể trực tiếp dùng họ để trấn áp Nhạc gia, mà phải mượn một đứa a hoàn trong phủ, thị nữ của Hà Hiệp để tạo thanh thế”.

“Phụ thân nghĩ rất đúng.” Vương hậu đã bình tĩnh hơn, ngữ điệu chậm rãi, dừng một chút, cười chua chát: “Có điều, bản cung không tin Đại vương chỉ vì muốn tạo uy thế, mà không có chút tình ý nào với Bạch Sính Đình”.

“Bạch Sính Đình đã chết rồi mà?”

“Chết rồi mới càng đáng hận.” Những móng tay dài của Vương hậu làm hằn lên các vệt trắng trên tay vịn của chiếc ghế gỗ, “Tâm tư của nam nhân, không nắm bắt được là tốt nhất”.

Không có gì bất hợp lý hơn việc này, cũng chẳng có gì hợp lý hơn việc này.

Tin Bạch Sính Đình chết đã lan khắp tứ quốc.

Cái chết của một thị nữ trong vương phủ Kính An lại chấn động toàn thiên hạ.

Nàng là Quy Lạc cầm tiên, là thị nữ của Hà Hiệp, từng là tướng lĩnh quân sự cao nhất của Bắc Mạc, đồng thời cũng là thê tử của Trấn Bắc vương.

Tuy chưa có hôn lễ long trọng, nhưng những người từng gặp nàng và Trấn Bắc vương đều hiểu rằng, chỉ mình Bạch Sính Đình mới là thê tử suốt đời suốt kiếp của bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất ấy.

Bạch Sính Đình đã không còn.

Sở Bắc Tiệp thì sao?

Dũng tướng vô địch thiên hạ ngày trước giờ đang ở đâu?

Đông Lâm vương hậu nhìn chăm chăm người trước mặt, cố nén tiếng thở dài, giọng cương quyết: “Hoắc thần y, ở đây không có người ngoài, không có gì phải giấu giếm, ông cứ nói thẳng ra đi”.

“Khởi bẩm Vương hậu, bệnh của Đại vương… e là không kéo dài được bao lâu.” Chỉ một thời gian ngắn mà Thần y Đông Lâm Hoắc Vũ Nam như già thêm cả chục tuổi, chòm râu đen đã lẫn những sợi bạc.

“Nói thực với ta, còn được bao lâu?”

“E là… e là không quá bảy ngày.”

Vương hậu đờ đẫn, hồi lâu mới sực tỉnh, sống lưng như sắp nhũn ra vì không thể chịu nổi tin tức này, đành dựa hẳn vào lưng ghế. Ôm ấp tia hy vọng cuối cùng, Vương hậu nhìn về phía danh y Đông Lâm, người có thể quyết định sống chết của kẻ khác: “Cho dù không thể qua được, nhưng có thể cố kéo dài vài tháng chứ?”.

“Vương hậu nương nương…” Hoắc Vũ Nam dù không muốn cũng phải nói rõ, đành cố sức dằn từng tiếng, “Thần đã hết cách rồi, Vương hậu nên chuẩn bị hậu sự cho Đại vương…”.

“Nương nương, nương nương!” Thị nữ từ ngoài tấm rèm tức tốc chạy vào, cắt ngang lời Hoắc Vũ Nam, hành lễ với Vương hậu, giọng vội vã: “Nương nương, Đại vương tỉnh rồi, người đang tìm Vương hậu”.

Vương hậu đứng bật dậy, trước mắt bỗng tối sầm, cả người lảo đảo như sắp ngã.

“Nương nương!”

“Vương hậu nương nương!”

Cả thị nữ và Hoắc Vũ Nam đều kêu lên kinh hãi, nhanh chóng đỡ lấy Vương hậu.

Vương hậu day day huyệt thái dương, cảm thấy đã đỡ hơn: “Ta không sao”.

Sắc mặt và làn môi Vương hậu vô cùng nhợt nhạt.

Từ khi tin tức về cái chết của Bạch Sính Đình truyền đến, sắc mặt Vương hậu chẳng còn màu huyết.

Tất cả đều đã hết.

Trong bụng Bạch Sính Đình là huyết mạch của vương tộc Đông Lâm.

Cho đến nay, cả Đại vương và Trấn Bắc vương đều không có người nối dõi.

Sao lại thế này? Tại sao lại thành ra thế này?

Khi ba mươi vạn đại quân Bắc Mạc – Vân Thường đe dọa biên cương, sao họ không lường đến kết cục ngày hôm nay?

Nỗi hối hận thiêu đốt cả đầu óc và cơ thể Vương hậu, bao nhiêu vấn đề khó khăn đang bày ra trước mắt. Rốt cuộc kiếp trước vương tộc Đông Lâm và Bạch Sính Đình đã có nghiệt duyên gì, mà dai dẳng đến cả kiếp này, không thể ngừng lại?

Vương hậu vội vã bước vào tẩm cung, nơi nam nhân mà mình đã sát cánh suốt cuộc đời đang nằm trên giường.

Đông Lâm vương cũng từng là bậc anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, cũng như Trấn Bắc vương, từng nắm chắc bảo kiếm, uống rượu trên lưng ngựa, tiếng cười hào sảng vang vọng.

“Đại vương, thần thiếp đã đến.” Vương hậu ngồi bên giường, khẽ nắm bàn tay Đông Lâm vương.

Bàn tay ấy gầy quá, gầy đến trơ xương, khiến người ta đau lòng.

Sống mũi cay cay, Vương hậu cố nén dòng nước mắt: “Đại vương gọi thần thiếp đến có gì sai bảo?”.

Đôi mắt Đông Lâm vương đã mờ đục, không chút ánh sáng.

“Vương đệ đâu? Vương đệ về chưa?”, Đông Lâm vương giọng đã khản đặc.

“Đã sai người đi tìm, Trấn Bắc vương sẽ nhanh trở về thôi.”

Đông Lâm vương khó khăn ngẩng đầu, nhìn thê tử: “Vương hậu muốn khóc thì cứ khóc đi”, giọng nói khản đặc yếu ớt, nhưng vô cùng dịu dàng, “Trong lòng quả nhân hiểu rõ, Bắc Tiệp sẽ không trở về”.

“Đại vương!”

“Bạch Sính Đình… Ba mươi vạn quân Vân Thường – Bắc Mạc đe dọa biên cương, vương lệnh điều động chủ soái doanh trại Long Hổ Đông Lâm…”, Đông Lâm vương thở dốc, “Chúng ta… binh lực ba nước hợp lại dồn thê tử của vương đệ vào chỗ chết”.

“Đây là sai lầm của thần thiếp…”

“Đừng tự trách mình.” Đông Lâm vương nắm chặt bàn tay Vương hậu, như muốn truyền tất cả sức lực cuối cùng của mình sang ái thê, “Không thể trách Vương hậu, ông Trời đã sắp đặt hết chuyện này. Những điều chúng ta lo lắng cuối cùng đều đã xảy ra. Tính tình vương đệ từ nhỏ đã thế, quả nhân cứ ngỡ lần này có thể mài giũa vương đệ trở nên vô tình một chút. Có sai, thì là quả nhân đã sai”.

Đại vương nhìn quanh, hạ lệnh: “Các ngươi lui ra đi. Lão Thừa tướng, canh cửa giúp quả nhân”.

“Vâng.” Sở Tại Nhiên vẫn luôn túc trực bên Đông Lâm vương. Vốn gặp nhiều hiểu rộng, biết Đông Lâm vương sắp đi xa, ông ta không cầm được những giọt nước mắt lã chã rơi. Sở Tại Nhiên quỳ xuống đập đầu, run rẩy và chậm chạp lùi ra, nhẹ nhàng khép cửa lại.

Trong tẩm cung chỉ còn lại Đông Lâm vương cùng Vương hậu.

“Vương hậu, nàng mở chiếc hộp ngọc ở đầu giường ra, trong đó có một vương lệnh, mang lại đây.”

Vương hậu cầm vương lệnh, nhẹ giọng khuyên giải: “Đại vương sức khỏe không tốt, tạm thời đừng lo đến chính sự. Những việc này cứ giao cả cho lão Thừa tướng xử lý, được không?”.

Đông Lâm vương chậm rãi lắc đầu: “Nàng mở ra đi”.

Thấy Đại vương cương quyết, Vương hậu cũng thuận theo, mở vương lệnh ra, cúi xuống nhìn, dòng đầu tiên đã là mấy chữ rất to. Di lệnh Vương hậu nhiếp chính. Vương hậu vô cùng ngạc nhiên: “Đại vương, tuyệt đối không được…”.

“Đây là di lệnh của quả nhân.”

“Đại vương, nhất định Trấn Bắc vương sẽ trở về. Trấn Bắc vương là đệ đệ của Đại vương, người trong vương tộc Đông Lâm sao có thể vì một nữ nhân mà từ bỏ giang sơn của mình?”

“Vương hậu…”, giọng Đông Lâm vương bỗng trở nên dịu dàng, cố hết sức nhìn về phía Vương hậu: “Khoan nói đến những chuyện đó. Nàng ngồi xuống đây, ngồi cạnh quả nhân”.

Vương hậu nghe lời dịu dàng đó, lòng càng tan nát, bèn ngồi xuống. Thấy Đông Lâm vương giơ tay ra, Vương hậu vội vã đưa hai tay đón lấy.

“Vương hậu, quả nhân muốn hỏi nàng một chuyện.”

“Đại vương cứ hỏi. Bất cứ chuyện gì, thần thiếp cũng xin trả lời Đại vương.”

Giọng Đông Lâm vương càng khẽ hơn, hơi thở yếu ớt: “Không phải chuyện quốc gia đại sự gì, câu hỏi này quả nhân muốn hỏi Vương hậu lâu lắm rồi, nhưng lại cảm thấy thật ngớ ngẩn. Đến hôm nay, nếu vẫn không hỏi, quả nhân sẽ chẳng bao giờ nghe được câu trả lời nữa”.

Vương hậu quay đầu, lặng lẽ lau nước mắt, giọng dịu dàng: “Đại vương hỏi đi”.

“Vương hậu, hôn sự của chúng ta do tiên vương chỉ định, duyên phận phu thê… như nước chảy thành dòng, không hề sóng gió.” Đông Lâm vương ngẩng đầu, nhìn vào mắt Vương hậu, hỏi: “Giả dụ chúng ta cũng giống như Trấn Bắc vương và Bạch Sính Đình, sinh ra ở hai nước thù địch, dốc sức cho hai người thù địch, liệu Vương hậu có… muốn ở cạnh quả nhân suốt đời suốt kiếp?”.

Suy nghĩ hồi lâu, Vương hậu khẽ đáp: “Có”.

Suốt đời suốt kiếp.

Có, chỉ là làm được sẽ rất khó mà thôi.

Thệ hải minh sơn? Nếu sinh ra đã là thù địch, rồi nảy sinh tình yêu, vậy thì đến cuối cùng, ai sẽ phụ bạc ai? Cuối cùng sẽ là không sao quên được quốc ân hay không thể từ bỏ niềm vui trong chốc lát mà lao vào vòng tay người yêu dấu?

May mắn thay, họ không phải Sở Bắc Tiệp và Bạch Sính Đình.

Nhưng nếu phải thì sao?

Nếu nỗi bất hạnh ấy lại lựa chọn họ thì sao?

Vương hậu nhắm mắt, nắm chặt bàn tay gầy trơ xương của phu quân.

Có, tuy rằng rất khó, khó như muốn bắc thang lên trời.

Nhưng, có.

“Chúng ta sinh ra ở hai nước thù địch”, Đông Lâm vương nói.

“Vâng.”

“Chúng ta sinh ra ở hai trận địa đối nghịch.”

“Vâng.”

“Chúng ta vẫn sẽ suốt đời suốt kiếp?”

Vương hậu im lặng một lúc lâu.

Cuối cùng vẫn là một tiếng: “Vâng”.

Đông Lâm vương hít sâu một hơi. Mùa đông sắp qua, hương vị của mùa xuân đang thấp thoáng trong không khí, lành lạnh, căng tràn lồng ngực mãn nguyện của Đông Lâm vương.

Chắc chắn, chắc chắn thế.

Đông Lâm vương nhắm mắt.

Khóe môi khẽ nở nụ cười hạnh phúc.

Mấy ngày sau, thư của Nhược Hàn lại được chuyển đến sơn mạch Tùng Sâm.

Tuyết trên đất bằng đã tan hết, cỏ non đâm chồi mạnh mẽ. Mùa xuân vẫn chưa thực sự gõ cửa, nhưng trong lòng mọi người đã tràn ngập niềm vui và hy vọng.

Lính truyền tin không chỉ mang tới những loại thảo dược thượng đẳng Nhược Hàn đã tìm kiếm khắp nơi, mà còn mang theo cả lời thăm hỏi của Bắc Mạc vương.

“Cây nhân sâm ngàn năm này là của Đại vương ban tặng.”

Tắc Doãn cảm kích nhận lấy, rồi hướng về phía vương cung xa xôi hành lễ.

Vốn năm xưa cũng là lính dưới trướng Tắc Doãn, sau khi chuyển tin, giao hết lễ vật, người truyền tin quan tâm hỏi: “Thượng tướng quân, bệnh của phu nhân… có đỡ chút nào không?”.

Tắc Doãn lắc đầu, vẻ mặt u sầu: “Nếu có chút chuyển biến thì trong lòng ta cũng dễ chịu phần nào. Đây là tâm bệnh, tâm bệnh khó chữa”.

Sau khi chôn cất Sính Đình, Dương Phượng cứ cầm cây trâm dạ minh châu đứng bên mộ cả đêm, rồi ngã bệnh không dậy nổi.

Cây trâm sáng lấp lánh trong đêm, người cài trâm đã nằm sâu dưới lớp đất vàng.

“Cái chết của Sính Đình là tại thiếp.”

Sính Đình là người thông minh, rõ ràng đã vùng vẫy, nên mới thoát khỏi Hà Hiệp, thoát khỏi Sở Bắc Tiệp, một mình từ Quy Lạc đến Bắc Mạc.

Sính Đình đi tìm Dương Phượng, muốn quên nỗi bất hạnh trước kia, vậy mà nàng lại quỳ xuống, nói đôi ba câu đã đẩy Sính Đình vào giữa quân Bắc Mạc và Sở Bắc Tiệp.

Hai quân đối đầu, áo thắm ngựa hăng, sát khí ngút trời, bắt đầu từ đây.

Nàng phải phiêu bạt đến chốn rừng sâu Bách Lý, rồi vương cung Đông Lâm, tới biệt viện ẩn cư, sau đó là phủ phò mã Vân Thường, để rồi cuối cùng kết thúc ở sơn mạch Tùng Sâm ngập màu tuyết trắng.

Một người chẳng màng danh lợi, điềm đạm như Sính Đình, sao phải chịu kết cục không toàn thây như thế?

Dương Phượng không thể tha thứ cho mình.

Bao nhiêu bất hạnh, Dương Phượng là nhân, Sính Đình là quả.

“Dương Phượng, ái thê, nàng còn nhớ hài tử của chúng ta không?”, Tắc Doãn cẩn thận đỡ Dương Phượng dậy, “Nàng không thể bỏ mặc ta và Khánh nhi, nàng đã hứa sẽ ở bên ta suốt đời suốt kiếp. Nàng hãy cố gắng uống lấy chút thuốc này”.

“Khánh nhi…” Ánh mắt Dương Phượng khẽ chuyển.

“Khánh nhi cứ khóc đòi mẫu thân. Dương Phượng, đừng tự trách mình nữa. Sính Đình đã không còn, nàng cứ giày vò bản thân thế này. Sính Đình cũng chẳng thể sống lại. Sính Đình ở trên trời chắc cũng không muốn thấy nàng như vậy. Nàng uống thuốc đi cho mau khỏe.”

Tắc Doãn nếm thử bát thuốc nóng trên tay, rồi mới đưa lên miệng Dương Phượng: “Uống đi, coi như là vì Khánh nhi”.

Trong lòng Dương Phượng trống rỗng, thi thể Sính Đình và phần mộ cô độc trong tuyết cứ hiện lên trước mắt nàng, không hề dừng lại. Tắc Doãn dịu dàng an ủi, hai từ “Khánh nhi” như đánh thức tình mẫu tử nơi nàng, khiến nàng tìm lại được chút thần trí.

Dương Phượng chậm rãi ngước mắt nhìn phu quân.

Chàng đã từng là Thượng tướng quân của Bắc Mạc, nhưng gương mặt tiều tụy lúc này thật khiến người ta thương xót.

Tất cả là vì nàng.

Nàng buồn bã thở dài, khẽ mở miệng.

Tắc Doãn thấy nàng nghe lời uống hết bát thuốc, giọng vui mừng: “Đây là phương thuốc do Nhược Hàn sai người mang tới, sắc kỹ lắm rồi, nàng uống từ từ thôi, kẻo sặc”.

Một tay đỡ Dương Phượng, một tay bê bát thuốc, thấy ái thê đã uống hết, trái tim lo lắng của Tắc Doãn cũng dịu bớt phần nào, nhẹ giọng: “Nhược Hàn nói, bệnh của nàng cứ uống theo phương thuốc này, liên tục mấy ngày…”.

Chưa dứt lời, Tắc Doãn đã thấy Dương Phượng run rẩy trên cánh tay mình, cả người thẳng dậy, cúi xuống bên giường “ọe” một tiếng, nôn sạch cả bát thuốc vừa uống ra ngoài.

Dương Phượng gần như nôn ra cả mật xanh mật vàng, sắc mặt trắng bệch, mãi mới ngẩng đầu lên được, rồi đổ vật xuống giường.

“Dương Phượng!” Tắc Doãn ôm lấy nàng, thấy nàng nằm trong lòng mình, hai mắt nhắm nghiền, gương mặt hồng hào mọi khi giờ không còn sinh khí, trong lòng đau đớn mà chẳng biết nên làm thế nào, buồn đến rơi nước mắt: “Thê tử của ta, nàng hà tất phải thế? Lẽ nào ngoài Bạch Sính Đình, trong lòng nàng không hề có ta và Khánh nhi?”.

Dương Phượng thở khó nhọc, nghe những lời của Tắc Doãn, nàng từ từ mở mắt, cười chua chát: “Thiếp nào có muốn bỏ mặc phụ tử chàng, chỉ là tâm bệnh quá nặng, không thể cứu chữa. Thiếp và Sính Đình cùng lớn lên bên nhau, tình như tỷ muội, đều do thiếp… do thiếp hại chết Sính Đình”.

“Nàng đừng khóc, đừng khóc nữa. Bệnh thành thế này, kỵ nhất là đau lòng…” Bàn tay thô ráp của Tắc Doãn khẽ lau nước mắt cho Dương Phượng, nhưng càng lau dòng lệ càng tuôn chảy.

Tắc Doãn vừa lo lắng vừa đau lòng, đôi mắt hổ đỏ hoe.

Nức nở một hồi, thở dốc một hồi, Dương Phượng ngẩng lên, hơi thở yếu ớt nói với Tắc Doãn: “Không phải thiếp muốn bỏ mặc phụ tử chàng, mà tình trạng thiếp thế này, chắc vì Sính Đình muốn thiếp đi theo bầu bạn. Vương cung và sa trường hiểm ác, thiếp không muốn sau này Khánh nhi phải đi theo con đường của Bạch Sính Đình và Sở Bắc Tiệp. Chàng đã đồng ý với thiếp quy ẩn sơn lâm thì hãy giữ lời hứa, đừng bao giờ ra khỏi đây, cũng đừng để Khánh nhi dính dáng đến những chuyện đó. Chàng… chàng hứa với thiếp”.

Những từ này của Dương Phượng thật chẳng khác gì lời giao phó hậu sự, rõ là điềm gở. Cả người lạnh toát, Tắc Doãn chỉ biết ôm chặt Dương Phượng, giọng lo lắng: “Nàng đang nói lung tung gì thế? Ta không đồng ý, không đồng ý một điều gì hết!”.

“Phu quân, thiếp không đợi được đến mùa xuân đâu.”

“Nói bậy.”

“Không thể cùng chàng thưởng hoa, không thể may áo cho Khánh nhi…”

“Nói bậy!”

“Thiếp phải đi gặp Sính Đình, tạ tội với nàng ấy…”

“Nói bậy! Nói bậy! Đừng nói nữa!”

Tắc Doãn ôm chặt Dương Phượng, luôn miệng bảo nàng dừng lại. Đột nhiên bên ngoài có tiếng bước chân vội vã, kẻ nào lại dám vô ý chạy ầm ĩ ở hành lang? Vẻ mặt lo lắng của Tắc Doãn dần hóa thành cơn thịnh nộ, gầm lên: “Kẻ nào đang ở ngoài kia? Ta đã nói phải giữ yên cho phu nhân tĩnh dưỡng, các ngươi điếc cả rồi sao?”.

Rèm cửa bị kéo ra, một thị vệ chạy vào, hốt hoảng như gặp ma. Hắn vừa lau mồ hôi vừa báo với Tắc Doãn vẻ mặt đang sa sầm: “Thượng tướng quân, có người cầu kiến”.

“Không gặp ai cả, đuổi hết đi cho ta!”

“Người đó… Người đó…”

“Phu nhân đang tĩnh dưỡng, dù là ai cũng đuổi hết đi cho ta!”

“Người đó…” Thị vệ cau mày, như thấy lời mình sắp nói ra vô cùng khác thường, “Người đó nói, mình là Bạch… Bạch Sính Đình!”.

Sính Đình?

Tắc Doãn và Dương Phượng cùng mở trừng mắt, ngây người.

Việc này sao có thể?

Ngay cả Tắc Doãn đã nhiều năm chinh chiến trên sa trường, quen phong ba bão táp cũng đờ người ra hồi lâu mới biết phải làm thế nào, quát lên: “Mau, mau mời vào!”.

“Phu quân…” Dương Phượng lo lắng dựa vào lồng ngực Tắc Doãn.

Nghe tin này, bệnh tật trong người Dương Phượng như đã rút lui ba mươi dặm, ánh mắt vừa có hồn, vừa hy vọng vừa lo lắng nhìn chằm chằm về phía tấm rèm.

Đôi mắt như chuông đồng của Tắc Doãn cũng mở to, nhưng không tránh khỏi có chút lo âu, thầm tính: Nếu là giả mạo, càng khiến Dương Phượng thêm đau lòng… Dù là kẻ nào dám mạo phạm, ta cũng sẽ băm vằm thành ngàn mảnh!

Nhưng, kẻ nào lại to gan như vậy, dám đến tận chỗ Dương Phượng mạo nhận là Bạch Sính Đình?

Chưa nói đến chuyện làm thế nào kẻ đó lại biết được chỗ ẩn cư của họ.

Trong lúc đang lo lắng không yên, ngoài hành lang đã vọng đến tiếng chân nhẹ bước.

Năm ngón tay Dương Phượng túm thật chặt vạt áo Tắc Doãn, cố ngồi thẳng người ngóng ra cửa. Tấm rèm từ từ được vén lên, ánh sáng bên ngoài chiếu vào khiến người ta chói mắt. Dương Phượng chỉ cảm thấy mọi thứ trước mắt như vụt qua, một bóng người lọt vào tầm nhìn.

“Dương Phượng, sao tỷ lại bệnh thành ra thế này?” Giọng nói dịu dàng mà quen thuộc, vừa nghe đã khiến người ta rơi lệ.

Dương Phượng nín thở, nhìn thật kỹ khuôn mặt trước mắt, khẽ kêu lên một tiếng, “Trời ơi…”. Nàng thở ra một hơi, chút sức lực cuối cùng cũng cạn kiệt, cả người mềm nhũn, đổ vật vào vòng tay Tắc Doãn.

Sính Đình ngạc nhiên: “Dương Phượng! Tỷ sao thế?”.

“Ái thê, ái thê!”

Hai người thi nhau gọi, đám người hầu vội vã mang khăn bông nóng vào.

Dương Phượng được đắp khăn bông nóng lên trán, dần tỉnh lại, ánh mắt dán chặt vào Sính Đình, sợ rằng chỉ cần chớp mắt, người hảo hữu này sẽ biến mất, sau đó thở dài: “Sính Đình, muội còn sống à? Ông Trời cũng coi như từ bi một lần”.

“Mọi người đều tưởng muội chết rồi sao? Chẳng trách đám thị vệ lúc nãy thấy muội mà sắc mặt như gặp ma.” Sính Đình vô cùng áy náy, “Là muội không tốt, không giữ đúng lời hẹn ba ngày ở đó đợi mọi người. Không tìm thấy muội, chắc tỷ và Túy Cúc lo lắm. Túy Cúc đâu? Mau bảo Túy Cúc ra đây, để nàng ấy yên tâm”.

“Ai là Túy Cúc?”

Sính Đình sững người: “Túy Cúc không đến tìm mọi người sao?”.

Cả Tắc Doãn và Dương Phượng đều ngơ ngác, lắc đầu không hiểu.

Trong lòng cảm thấy không ổn, Sính Đình vội hỏi: “Nếu không gặp Túy Cúc, không lên núi tìm kiếm, không phát hiện ra muội mất tích, làm sao mọi người lại đoán muội đã chết?”.

“Chúng ta tìm thấy dưới chân núi một bộ y phục và xương cốt của nữ nhân bị sói ăn thịt, trong đó có cây trâm dạ minh châu Dương Phượng tặng tiểu thư, Dương Phượng cứ ngỡ tiểu thư đã…”

“Ông Trời ơi…” Cả người cứng đờ, Sính Đình bịt miệng, hai mắt mở trừng trừng, mãi một lúc sau mới đứt ruột đứt gan kêu lên một tiếng, “Túy Cúc!”.

Cảnh cuồng phong bão tuyết ở sơn mạch Tùng Sâm như lại hiện ra trước mắt nàng.

Trong nỗi hốt hoảng, Túy Cúc quay đầu, vê cây kim bạc. Cây kim bạc phản chiếu ánh tuyết, càng lúc càng sáng, như thể chỉ cần cây kim ấy cũng đủ soi sáng cả đất trời.

Nhưng, sau khoảnh khắc cực sáng, trời đất lại tối sầm. Toàn thân Sính Đình mệt mỏi rã rời, cảm thấy trước mắt trời đất bỗng chao đảo, hai đầu gối khuỵu xuống, ngã ra đất.

Dương Phượng thất kinh: “Sính Đình! Sính Đình! Muội làm sao thế?”. Dương Phượng cố bước xuống giường. Tắc Doãn sợ Dương Phượng ngã, nhanh chóng đỡ lấy nàng, nói: “Dương Phượng, cẩn thận…”.

“Mặc kệ thiếp, chàng mau đi xem Sính Đình đi, đi đi!”

Tắc Doãn vội bế Sính Đình đã ngất xỉu, quát lên: “Đại phu, mau gọi đại phu”.

“Mau đi hầm ngay loại nhân sâm tốt nhất.”

“Phu nhân, nhân sâm là để chữa bệnh cho phu nhân…”

Gặp được Sính Đình, tâm bệnh không còn, cả người khỏe lên được một nửa, Dương Phượng nhướng mày, nói: “Sính Đình vẫn sống, thiếp còn có bệnh gì? Mau đi”.

Quát tháo một hồi, thấy đám người hầu đã nghe lệnh chạy đi hầm nhân sâm, Dương Phượng mới dừng lại. Vừa trải qua một trận ốm, Dương Phượng cũng cảm thấy tim đập thình thịch, tay chân không còn sức, bèn gọi một thị nữ đến, thều thào: “Đi, sắc thuốc luôn cho ta rồi mang lên đây”.

Còn sống.

Đều vẫn còn sống.