Đại nghiệp đang ngày càng hưng thịnh.

Có thái bình, mới có thịnh vượng. Nhớ lại mấy năm về trước tứ quốc phân tranh, khắp thiên hạ dân chúng lầm than. Nếu không phải nhờ đương kim Hoàng thượng, tức danh tướng Sở Bắc Tiệp kiên quyết xuống núi dẹp loạn, thống nhất thiên hạ, thì ai biết được còn phải mất bao nhiêu năm nữa mới có được cảnh phố thị phồn hoa, yên ổn ngày hôm nay?

Bàn tay thon nhỏ vén tấm rèm xe ngựa lên, cả quang cảnh náo nhiệt nơi con phố như ùa vào trong xe, tiếng rao bán hàng, tiếng cười đùa, tiếng trả giá của các bà, các cô… huyên náo vô cùng. Đôi mắt thông tuệ sáng lấp lánh, chăm chú nhìn thế giới bên ngoài, rồi lại rụt rè nép vào trong.

Xe ngựa được nạm vàng phối bạc, xa hoa lộng lẫy, ngay cả hàm thiếc của ngựa cũng toàn bằng bạc. Trước sau có tất cả mười tám hộ vệ cưỡi ngựa, lặng lẽ đi giữa phố phường náo nhiệt và thịnh vượng.

Trên xe, một nam một nữ đều không phải những quý nhân bình thường. Cô gái đang độ nụ hoa hé nở, sắc hồng tươi tắn tựa cánh đào, đôi môi chưa tô son đã thắm, khí chất tôn quý từ trong cốt cách, ai nhìn cũng phải ngưỡng mộ.

Nàng là công chúa của tộc Duy Hạo từ phương xa tới, tên gọi Dẫn La, từ nhỏ đã là tiểu mỹ nữ nổi tiếng nhất tộc, thông minh đáng yêu, là viên minh châu trong tay Tộc trưởng. Ngồi bên cạnh là ca ca của nàng, Dẫn Nghi. Hai huynh muội đường xa lặn lội, mang theo bao ngọc ngà châu báu tới vùng đất lạ lẫm này, vì một việc đại sự có liên quan đến tương lai của cả tộc Duy Hạo.

“Muội muội đang nghĩ gì thế?”, Dẫn Nghi hỏi.

Dẫn La trầm tư hồi lâu, rồi đáp: “Muội đang nghĩ, không biết vị hoàng đế Đình quốc đó trông thế nào? Những câu chuyện về ông ấy đã lưu truyền khắp thiên hạ bao năm nay. Đến giờ, chắc ông ấy đã là một lão nhân rồi”.

Dẫn Nghi bật cười, nói: “Muội muội nghĩ đi đâu thế? Vị hoàng đế này từ thuở thiếu thời đã là mãnh tướng lừng danh. Mười lăm tuổi, ông ấy dẫn quân bảo vệ Đông Lâm quốc, chinh chiến bao trận, khiến tướng địch vừa nghe tên đã hoảng sợ, nhưng sau đó chẳng hiểu vì lý do gì mà lại ẩn cư nơi núi rừng, không màng thế sự. Chỉ đến khi tứ quốc đại loạn, thiên hạ rơi vào cảnh diệt vong, ông ấy mới xuống núi bình định thiên hạ, lập nên Đại Đình quốc, hiển hách lẫy lừng. Đại Đình quốc tới nay mới thành lập được sáu năm. Tính ra năm nay ông ấy cũng chỉ hơn ba mươi một chút, đương độ tuổi sung mãn nhất của nam nhân”.

Nghe ca ca nói, Dẫn La không phản ứng gì, khẽ vén một góc rèm lên, ngó ra ngoài xem xét, rồi bất ngờ cất tiếng: “Dừng xe!”.

“Sao thế?”

“Dừng xe!”

Dẫn Nghi vô cùng ngạc nhiên, cao giọng bảo phu xe dừng ngựa, nhanh chóng xích lại bên Dẫn La, hỏi: “Sao thế?”, rồi nhìn theo ánh mắt nàng ra ngoài.

Bên đường là một tửu lâu ba tầng, sảnh đường rộng lớn, trên ngọn cờ cạnh cửa viết dòng chữ: “Chuyên thuật chuyện bản triều, bất kể người qua lại”. Một vị tiên sinh với dáng điệu thuyết thư[1] đang ngồi gật gù đắc ý ngoài cửa, đám đông hiếu kỳ vây quanh. Hóa ra, hôm nay tửu lâu khai trương nên chủ tiệm cho mời thuyết thư tiên sinh đến để thu hút khách, thêm phần náo nhiệt.

[1] Thuyết thư là cách gọi khác của nghệ thuật hát nói Trung Quốc, bao gồm các thể loại như bình sách, bình thoại, đàn từ v.v… Người thuyết thư là người biểu diễn các tiết mục hát nói trước đám đông.

“Đánh xe ngựa vào bên đường, đỗ gần một chút.”

“Muội…”

“Không sao đâu, vẫn sớm mà”, Dẫn La mỉm cười.

Nhìn nụ cười ngọt ngào của muội muội, Dẫn Nghi không muốn làm nàng cụt hứng, đành lệnh cho thị vệ đi theo đứng đợi hai bên đường, sau đó đỗ xe ngựa sát cửa tửu lâu, còn dặn phu xe mang cho chủ quán ít tiền thưởng, bảo thuyết thư tiên sinh nói lớn một chút, để người ngồi trong xe cũng có thể nghe được.

Câu chuyện đang vào hồi gay cấn.

“Đương kim Hoàng thượng nghe thuộc hạ cũ đưa thư đến, thuật lại tình hình tứ quốc hỗn loạn, dù liên tục chau mày, nhưng vẫn không thay đổi ý định, người nói với thuộc hạ: ‘Ta đã không còn quan tâm đến những chuyện này, các ngươi có nói thế nào cũng vô ích. Thiên hạ bao nhiêu anh hùng, bình định tứ quốc, hà tất phải là ta?’. Ý rằng, người sẽ không chịu xuống núi.”

Câu chuyện đến đây, những người nghe đang háo hức đều xị mặt xuống, đâu đó vang lên tiếng thở dài, có người la lớn: “Sao Hoàng thượng của chúng ta vẫn chưa chịu xuống núi? Thiên hạ đã loạn thế rồi”.

“Ông cuống cái gì chứ, nếu Hoàng thượng không xuống núi, chúng ta sao có được thái bình ngày hôm nay?”, thuyết thư tiên sinh cười khà khà, nhấp ngụm trà cho trơn giọng, sắc mặt nghiêm trang trở lại, “Thuộc hạ đó nghe vậy thì cuống lên. Giờ là lúc nào rồi mà Vương gia vẫn chẳng chịu ra tay? Nhưng mà, đúng là cái khó ló cái khôn, thuộc hạ này đã nghĩ ra một cách hay, liền nói với Hoàng thượng của chúng ta rằng: ‘Anh hùng trong thiên hạ tuy nhiều, nhưng chỉ có mình người mới cứu được Bạch cô nương. Nay Bạch cô nương đang trong cảnh nguy nan, nếu Vương gia không đi, e là Hoàng hậu nương nương tương lai của chúng ta sẽ gặp chuyện không hay rồi’. Vừa nghe thế, mặt Hoàng thượng liền biến sắc, trừng mắt quát: ‘Kẻ nào dám làm tổn hại đến Hoàng hậu của trẫm, trẫm giết kẻ đó!’.”.

Thuyết thư tiên sinh mắt trợn trừng, biểu cảm giống y như thật, khiến những người ngồi nghe cũng phải nổi da gà, duy chỉ có một kẻ không thức thời, lên tiếng cười nhạo: “Thuyết thư, ngươi nói dóc mà chẳng biết đường. Lúc đó còn chưa có Đại Đình quốc thì thuộc hạ kia sao biết được Bạch cô nương sau này sẽ trở thành Hoàng hậu nương nương?”.

“Ha ha, ngươi chưa mở miệng, người ta còn không biết ngươi thiếu hiểu biết, mở miệng ra rồi, thật chứng tỏ mình là kẻ không biết gì.” Thuyết thư tiên sinh nghiêm túc, “Lại nói đến Bạch cô nương. Người này lai lịch bất phàm. Nàng lớn lên trong vương phủ Kính An của Quy Lạc quốc, từ nhỏ đã hát hay múa giỏi. Đừng nói nhi nữ chỉ biết đàn ca, ngay cả hai việc văn võ vốn chỉ của nam nhân, cũng ít ai theo kịp nàng. Có thầy tướng xem cho Bạch cô nương, nói, ‘Người này là tiên nữ hạ phàm, để phò trợ chủ nhân thiên hạ’. Quy Lạc vương biết chuyện, hạ chỉ đòi lấy nàng. Nào ngờ vừa gặp Quy Lạc vương, Bạch cô nương đã nói: ‘Ông không đủ tư cách lấy ta, ta chỉ gả cho chủ nhân thực sự của thiên hạ thôi’. Sau đó, quả nhiên nàng đã chọn Hoàng thượng của chúng ta. Ha ha, các vị nói xem, nhãn quan này có lợi hại không?”.

Dẫn Nghi ngồi trong xe nghe, cười bảo: “Đúng là xằng bậy. Nói như thế, người đàn bà ấy không gì là không biết, không gì là không thể, vậy thì khác gì yêu quái?”.

Dẫn La khẽ mỉm cười, chẳng đáp lời, tiếp tục lắng nghe.

©ST.E.NT

Có người cung kính hỏi: “Tiên sinh, ông nói Hoàng hậu nương nương của chúng ta là tiên nữ hạ phàm, thế thì Hoàng hậu chắc chắn là một đại mỹ nhân ư?”.

“Tất nhiên rồi, Bạch cô nương dung mạo tươi như hoa, giọng nói thánh thót tựa vàng anh, đẹp đến không ai sánh kịp, thực là một trang tuyệt thế giai nhân!”, thuyết thư tiên sinh ngưỡng mộ cảm thán, “Ban đầu, Hoàng thượng của chúng ta cũng sống giữa trăm hoa, chỉ sau khi gặp Hoàng hậu nương nương, người mới quên hết những mỹ nhân còn lại. Từ đó trở đi, trong mắt người chỉ có mình Hoàng hậu nương nương mà thôi”.

“Không đúng rồi!”, một lão nhân nheo mắt tỏ vẻ nghi ngờ, “Sao ta nghe nói, năm đó Hoàng hậu nương nương và Hoàng thượng đã từng giao chiến ở Bắc Mạc quốc? Rõ ràng thuyết thư tiên sinh họ Trương đã nói thế mà”. Mấy người bên cạnh lão nhân hẳn cũng nghe được đoạn này, ai nấy đều gật gù đồng ý.

“Nhảm nhí!”, thuyết thư tiên sinh nổi trận lôi đình: “Hoàng thượng và Hoàng hậu nương nương là một cặp ân ân ái ái, làm gì có chuyện đối đầu nơi sa trường? Đừng nghe cái tên họ Trương kia nói càn”.

Tiếng tranh luận vang khắp tửu lâu. Phía xe ngựa, rèm lại lặng lẽ buông xuống.

“Chẳng có gì đáng nghe cả, đi thôi.”

Ngựa chầm chậm cất bước.

Chỉ mấy khắc sau, xe ngựa đã ra khỏi thành trấn. Phía xa xa là con đường đất vàng mới đắp, hai bên cây cối xanh mướt, cơ hồ nhìn mãi cũng không thấy được cuối con đường.

Như nhìn ra nỗi ưu tư của tiểu muội, do dự hồi lâu, Dẫn Nghi nói: “Muội muội đừng nghe thuyết thư tiên sinh đó nói bậy, lấy đâu ra tiên nữ chứ. Hoàng hậu dù có xinh đẹp như hoa, cũng không thể sánh bằng muội. Mà cứ cho là đẹp hơn muội đi nữa, thì cũng làm sao, năm tháng qua đi, sao bì được với vẻ trẻ trung đáng yêu của muội? Lần này muội vào cung, theo ta thì trái tim của Hoàng đế nhất định sẽ thuộc về muội”.

Đôi mắt đẹp của Dẫn La chợt sáng lên, quét qua Dẫn Nghi một cái. Dẫn Nghi tự cảm thấy mình nói có lý, đâu biết Dẫn La lại liếc xéo mình như thế. Chỉ cảm thấy có gì đó vừa xẹt qua người, chàng giật mình im lặng.

“Đại Đình quốc thật sự quá lớn mạnh. Từ khi thống nhất tứ quốc, Đại Đình quốc binh hùng tướng mạnh, tộc Duy Hạo chúng ta tuy ở phương xa, nhưng cũng ngầm cảm thấy bị đe dọa. Phụ thân nói đúng, e rằng cầu thân chính là cách duy nhất để giữ được tương lai yên ổn của tộc chúng ta”, Dẫn La thầm thở dài, cười khổ, “Dẫn La muội chỉ lo, chưa chắc sắc đẹp đã dụ nổi vị hoàng đế ấy. Nếu thật như vậy, thì chuyến đi lần này của Dẫn La quả là vô ích”.

Như chợt nghĩ ra điều gì, khuôn mặt càng lộ vẻ trầm tư, nàng chau mày lẩm nhẩm: “Đại Đình quốc… Đại Đình? Khuê danh của Hoàng hậu nương nương, không phải là ‘Sính Đình’ sao?”.

Dẫn Nghi bỗng cảm thấy bất an, cố cười an ủi: “Muội muội đừng coi nhẹ bản thân như vậy. Ta thấy trong thiên hạ này chẳng nam nhân nào có thể làm ngơ trước nhan sắc của muội. Hoàng đế chẳng qua cũng chỉ là nam nhân, Hoàng hậu lại sắp ba mươi rồi. Là phu thê với nhau đã nhiều năm, chắc hẳn cũng đến lúc Hoàng đế thấy mệt mỏi rồi. Đây chính là thời điểm Hoàng đế muốn tìm niềm vui mới. Chỉ cần muội muội biết toan tính một chút, thì sợ gì…”.

“Huynh đừng nói nữa”, Dẫn La quay lại, “Rốt cuộc nên hành sự thế nào, đợi đến khi gặp được Hoàng hậu nương nương thâm sâu khó đoán kia, muội sẽ tự có chủ ý của mình”.

Không khí như đóng băng, chỉ còn tiếng vó ngựa gõ lộp cộp trên đường.

Ngoài cửa sổ, thảo nguyên bất tận, mênh mang không thấy bờ, cũng chính là đích đến của chuyến đi này, chuyến đi tới kinh đô Đại Đình quốc.

Duy Hạo là một ngoại tộc[2] xa xôi khá có tiếng tăm. Trong tộc, nam nhân thượng võ, võ nghệ tinh thông, sức khỏe hơn người, nữ nhân xinh đẹp mảnh mai. Đây hẳn là vùng đất của anh hùng và mỹ nữ. Cũng bởi truyền thống oai hùng, trước nay chưa từng e sợ ai, nên tộc này hiếm khi bị nước ngoài xâm chiếm cướp bóc. Trải qua bao đời, tộc cũng tích lũy được khá nhiều ngọc ngà châu báu.

[2] Người Hán coi tất cả những dân tộc khác là ngoại tộc.

Nếu không phải vì Đại Đình quốc quá lớn mạnh, lại có vị Hoàng đế trẻ tuổi anh minh khiến tộc trưởng cũng sinh lòng lo sợ, thì tộc Duy Hạo quyết không làm cái việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử là dâng tặng mỹ nhân và châu báu của mình.

Cuối ngày hôm sau, qua bao ngày lặn lội đường xa, dặm trường vất vả, cuối cùng đoàn xe chở châu báu và mỹ nhân cũng đến được kinh đô của Đại Đình quốc.

Đón tiếp họ, chính là người được Hoàng đế tín nhiệm nhất, Khoa hổ đại tướng quân, Sở Mạc Nhiên.

Mạc Nhiên cưỡi ngựa dẫn đầu, đưa đoàn xe đến trước vương cung nguy nga tráng lệ. Tướng quân xuống ngựa, đến bên xe, cất giọng sang sảng: “Mời Công chúa xuống xe. Hoàng thượng có chỉ, Công chúa hãy cùng ta vào cung yết kiến Hoàng hậu nương nương trước đã”.

Dẫn La và Dẫn Nghi đang ở trong xe, nghe thế đều ngẩn người, bất giác nhìn nhau.

Dẫn Nghi ngạc nhiên, nói: “Chúng ta đường xa đến đây, đã giương cờ cầu thân, sao Hoàng đế không gặp chúng ta, mà lại là Hoàng hậu? Không lẽ muội mới đến, Hoàng hậu đã phải ra oai phủ đầu?”, khuôn mặt chàng mang vài phần tức giận.

“Người đàn bà đứng đầu hậu cung lại chỉ biết ra oai phủ đầu như thế, Dẫn La hà tất phải sợ?”, Dẫn La nở nụ cười xán lạn.

Dẫn Nghi vì câu nói này mà có thêm lòng tin: “Muội muội tốt, chỉ cần dựa vào dáng vẻ này, đệ nhất công chúa của tộc Duy Hạo chúng ta nhất định sẽ không thiệt thòi”. Sau đó chàng dìu Dẫn La, đang khoác trên mình phục sức long trọng nhất của tộc Duy Hạo, nhẹ nhàng xuống xe.

Mạc Nhiên vội ngăn lại: “Hoàng hậu nương nương chỉ triệu kiến Công chúa điện hạ thôi, mời Vương tử đi lối này”.

Dẫn Nghi bất mãn nhìn Mạc Nhiên, đang định phản đối, Dẫn La đã dịu dàng bảo: “Huynh không cần bận tâm, sớm muộn gì muội cũng phải ở trong cung một mình”.

“Muội hãy nhớ rằng, không ai sánh được với sắc đẹp của muội, không ai xứng đáng được Hoàng thượng sủng ái hơn muội”, Dẫn Nghi nắm chặt tay nàng, khẽ nói.

Dẫn La nhìn sâu vào mắt ca ca, gật đầu: “Dẫn La nhớ rồi”.

Gót sen nhẹ bước theo sau người dẫn đường, từng bước, từng bước qua lớp lớp những cánh cửa trong nội cung.

Dẫn Nghi đã đợi ba ngày ở tân quán, nơi chuyên tiếp đón các quý nhân ngoại tộc.

Ba ngày nay vẫn không có tin tức gì của Dẫn La. Rốt cuộc muội muội đang ở đâu? Có được Hoàng đế sủng ái không? Có khiến Hoàng đế vui lòng không? Có đấu lại được với thế lực của Hoàng hậu không?

Chẳng hề có bất cứ tin tức nào.

Hoàng đế trịnh trọng triệu kiến Dẫn Nghi. Nhận lấy thư và bao ngọc ngà châu báu của tộc trưởng Duy Hạo gửi đến, người cũng tặng lại không ít lễ vật.

Hoàng đế tuổi trẻ uy vũ, quyền quý cao sang, không hề giống với một người đã ba mươi tuổi.

Dẫn Nghi thay phụ thân bày tỏ nguyện vọng mong Đại Đình quốc và tộc Duy Hạo có thể chung sống hòa bình. Hoàng đế cười hào sảng: “Bách tính đã chịu nỗi khổ chiến loạn đủ rồi, trẫm sẽ không vô cớ khởi binh”, còn bổ sung: “Hoàng hậu cũng không thích chiến tranh”. Nhắc đến Hoàng hậu, khuôn mặt anh tuấn của vị đế vương thoáng vẻ dịu dàng không hề che giấu.

Trong lòng Dẫn Nghi bỗng cảm thấy không ổn, liền nhân cơ hội hỏi thăm về muội muội đã được Hoàng hậu triệu kiến của mình.

“Công chúa?”, Hoàng đế nói, “Hoàng hậu ở trong cung luôn cảm thấy buồn, cứ để Công chúa ở đó bầu bạn với Hoàng hậu thêm mấy ngày cũng tốt”.

Đứng trước vị hoàng đế thâm trầm khó đoán, Dẫn Nghi không hỏi được câu nào.

Hôm đó, Hoàng đế rất có hứng trò chuyện. Người nói hết chuyện thời thế, vấn đề binh lực, biên giới quốc gia, bách nghiệp, lại đến chuyện năm nay mùa màng bội thu, rồi cả những việc của gia quyến các đại thần trong triều ở kinh thành. Từ việc nhỏ mà cân nhắc đắn đo sang chuyện lớn, thuận miệng lại ban hành thêm mấy đạo thánh chỉ, sau đó mỉm cười với Dẫn Nghi: “Vương tử cảm thấy thế nào?”.

Dẫn Nghi lùi một bước, cúi đầu.

Chàng đã hiểu vì sao người đàn ông này có thể khiến tướng địch kinh hồn bạt vía. Mạnh mẽ quyết đoán đến thế, đôi mắt sắc bén như nhìn thấu tâm tư người khác đến thế, sức mạnh ấy có thể tiêu diệt mọi kẻ thù, dù lớn mạnh đến đâu.

Sau khi cáo lui, rời khỏi đại điện, Dẫn Nghi ngưỡng mộ nói với thị vệ dẫn đường: “Đại Đình quốc có vị hoàng đế thông tuệ như vậy, theo ta thì không ai trong thiên hạ có thể đoán được tâm tư của người”.

Nghe thế, thị vệ liền cười, quay lại bảo: “Điều này thì Vương tử nói sai rồi. Vẫn có người đoán được tâm tư của Hoàng thượng, hơn nữa còn luôn đúng, không sai một li”.

“Ồ?”

Thị vệ giơ ngón tay lên, thần bí chỉ về phía xa xa, nơi hậu cung mịt mù sương khói.

“Là… Hoàng hậu sao?”

Một cảm giác thấp thỏm không yên chạy dọc sống lưng chàng.

Ba ngày sau, cảm giác thấp thỏm cứ mỗi lúc một lớn dần. Dẫn La, tiểu muội chàng yêu thương nhất đang khoe sắc của một đệ nhất công chúa tộc Duy Hạo trước nữ nhân như thế nào? Liệu nàng có khiến nữ nhân đó sinh lòng đố kỵ? Liệu nàng có giành được phần thắng trong cuộc chiến chốn thâm cung?

Chàng bỗng nhớ ra, khi nhắc đến Dẫn La với Hoàng đế, Hoàng đế chỉ gọi nàng là “Công chúa”, chứ không gọi trực tiếp tên nàng. Chẳng lẽ người vẫn chưa từng thân mật với nàng?

Dẫn Nghi đi đi lại lại trong tân quán như con dã thú đang bị nhốt trong lồng.

Ý nguyện hòa bình đã đạt được, coi như họ đã trọn vẹn mục đích của chuyến đi. Nhưng chàng không thể cam tâm khi thấy Dẫn La phải chịu đựng cái lạnh lẽo chốn thâm cung. Giả như nàng không hạnh phúc, thì đó cũng là một kết cục hết sức bi thương.

Sau khi đạt được mục đích của mình, người ta mới hối hận vì cái giá phải trả.

“Rốt cuộc, Dẫn La công chúa hiện giờ ra sao?”

“Ta muốn gặp Hoàng thượng.”

“Ta muốn gặp Hoàng hậu.”

“Đều không được hả? Thế thì, ta muốn gặp Khoa hổ đại tướng quân hôm đó dẫn muội muội của ta vào cung!”

Đã mấy lần chàng muốn rút đao xông ra, phỏng chừng Dẫn La đã bị người đàn bà độc địa chốn thâm cung kia hãm hại rồi. Chàng đau khổ tự trách bản thân sao có thể vạn dặm đường trường lặn lội đến đây, để rồi đẩy muội muội vào cuộc chiến không cân sức ở cái nơi xa lạ này. Những lời chàng an ủi Dẫn La lúc đầu toàn là điều giả dối, toàn những thứ nhảm nhí!

Chàng chẳng qua cũng chỉ là một tên khốn đem muội muội ra để đánh đổi lấy cuộc sống yên bình cho bản thân mà thôi.

Chính lúc Dẫn Nghi sắp phát điên, Dẫn La đã trở về.

Nàng đổi sang lối ăn mặc và trang điểm truyền thống của nữ nhân thuộc hàng tôn quý Đại Đình quốc, tơ lụa trắng tinh càng tôn thêm làn tóc đen mượt như thác nước của nàng.

Dẫn La bước vào phòng, dịu dàng nhìn ca ca, rồi bất chợt cúi đầu mỉm cười, cười mãi, sau đó lại ngẩng lên, nhìn dáng vẻ luống cuống vừa vui mừng vừa kinh ngạc của Dẫn Nghi.

“Muội đã gặp Hoàng hậu”, hồi lâu sau, nàng mới nói.

“Hoàng hậu trông thế nào? Ta không tin Hoàng hậu lại có thể đẹp hơn muội. Muội muội, muội có bị bà ta bắt nạt không?”

Suy nghĩ hồi lâu, Dẫn La mới lẩm bẩm: “Không thể mang cái nhìn của kẻ phàm phu mà đánh giá…”.

“Sao hả?”

“Muội nói là…”, như đang hồi tưởng lại, Dẫn La nhìn về phía vương cung lộng lẫy đang đắm chìm dưới ánh mặt trời, “Không thể mang cái nhìn của kẻ phàm phu mà đánh giá…”. Nàng bỗng quay sang Dẫn Nghi với nụ cười xán lạn: “Ca ca, chúng ta về thôi. Hoàng hậu nương nương nói, muội có thể lựa chọn ở lại vương cung của Đại Đình quốc, hoặc cũng có thể trở về. Dù chọn lựa thế nào, muội cũng đã hoàn thành sứ mệnh của mình, Đại Đình quốc và tộc Duy Hạo sẽ đời đời hòa hảo”.

Thấy biểu cảm khó tin trên gương mặt Dẫn Nghi, nàng nhẹ nhàng quay một vòng, dáng vẻ sảng khoái như phượng hoàng vừa được phóng thích.

“Huynh, chúng ta về thôi.” Đôi mắt đen nhánh của nàng bừng sáng, rạng rỡ thanh xuân.

Vẻ mê hoặc của mỹ nhân, một phần bởi nhan sắc, một phần bởi khí chất.

Theo thời gian, nhan sắc sẽ tàn phai, nhưng khí chất vẫn còn mãi.

Trong một nước, đã có một hoàng hậu khí chất tuyệt đỉnh, hà tất phải cần thêm một phi tần tuyệt thế giai nhân?

Về nhà đi, đệ nhất công chúa tộc Duy Hạo.

Dù toan tính cỡ nào, nàng cũng chưa chắc có được mấy ngày sủng ái của Hoàng thượng, rồi số phận nàng sẽ chìm dài trong chuỗi ngày bị lãng quên.

Đó không phải vận mệnh nàng đáng phải chịu.

Về nhà đi, người con gái trẻ trung xinh đẹp.

Bởi vì trên thế gian này, có rất nhiều điều nàng chưa từng trải qua; chưa từng trải qua tháng ngày khoác áo bào, cưỡi ngựa rong ruổi giữa ba quân; chưa từng trải qua nỗi tuyệt vọng khi cây đàn cổ tan thành tro bụi; chưa từng phải quên hết oán hận, vứt bỏ hoài bão ôm trọn cả thế gian này; và cũng chưa từng được nếm trải thứ tình yêu mãnh liệt mà ngay cả hàng ngàn hàng vạn thuyết thư trên đời cũng chẳng thể kể hết được.

Về nhà đi, tiếng cười như chuông bạc của nàng phải được vang trên quê hương tươi vui của nàng, vang bên tai cha mẹ yêu dấu của nàng.

Nửa đêm, sâu trong lớp lớp những cánh cửa cung, một đôi mắt tinh anh đang lặng lẽ ngắm nhìn ánh trăng vằng vặc treo trên bầu trời.

Cung nữ nhẹ nhàng bước tới, cúi người bẩm báo: “Nương nương, Công chúa điện hạ đêm nay đã khởi hành, rời khỏi kinh đô”.

Sính Đình ngẩng đầu, mãn nguyện dựa lưng vào gối mềm.

“Khoa hổ đại tướng quân đâu?”, nàng chợt hỏi.

“Nô tỳ không biết.”

“Có đang ở trong phủ tướng quân không?”

“Nô tỳ nghe nói Đại tướng quân vẫn chưa về.”

“Thế thì đang giúp Hoàng thượng xử lý chính sự à?”

“Nô tỳ nghe cận vệ của Hoàng thượng nói, hôm nay Hoàng thượng bàn chính sự với hai vị thừa tướng, Khoa hổ đại tướng quân cũng không tham dự.”

Sính Đình ngây người một lát, khẽ bảo: “Nếu vậy, có lẽ Đại tướng quân đang đuổi theo họ rồi. Không biết đi một mình, hay đem theo thiên quân vạn mã nữa”.

Cung nữ ngơ ngác nhìn nàng.

Người phụ nữ mẫu nghi thiên hạ bỗng cười khúc khích, nụ cười hồn nhiên như trẻ thơ, khẽ vỗ tay, nói: “Ta đoán Đại tướng quân không nhẫn nhịn nổi nữa rồi. Mạc Nhiên ơi là Mạc Nhiên, đường đường là Khoa hổ đại tướng quân, chưa đầy ba ngày đã bị nàng công chúa trẻ tuổi đó bắt mất hồn. Cũng tốt, đã đến lúc Đại tướng quân nên nếm trải hương vị ái tình rồi”.

Ngừng một lát, nàng nói tiếp: “Phải bẩm với Hoàng thượng nhanh chóng sắp xếp người tiếp quản công việc của Khoa hổ đại tướng quân thôi, tránh đến lúc đó không tìm được người lại cuống cả lên”.

Đúng lúc ấy, Sở Bắc Tiệp trở về, vừa bước vào cung, vừa hỏi: “Cái gì mà không tìm được người?”.

Sính Đình mỉm cười, thuật lại toàn bộ sự việc: “Chàng không thấy mấy ngày nay Mạc Nhiên luôn tìm cớ đến chỗ thiếp sao? Nào là mới có cống phẩm, muốn Hoàng hậu xem qua, nào là chuẩn bị lễ mừng vương đình[3] sắp tới, có nhiều tiết mục cần Hoàng hậu phê duyệt, chẳng lẽ không phải vì nàng công chúa đó? Chỉ là thiếp thấy nàng ấy quá thông minh, không dễ gì gật đầu đâu. Lần này thì Mạc Nhiên phải khổ sở rồi”.

[3] Vương đình: Đất nước lớn thống trị tất cả các dân tộc thiểu số trong khu vực.

Sở Bắc Tiệp cười nói: “Đã phải chịu khổ bằng ta chưa?”. Ra hiệu cho đám cung nữ lui ra xong, Sở Bắc Tiệp bế bổng Sính Đình lên giường.

Sính Đình bị chàng nhìn tới đỏ mặt: “Chàng thật là… Đường đường là hoàng đế, còn không biết chừng mực”. Nàng quay đi, Sở Bắc Tiệp rút ngay cây trâm phượng trên đầu, khiến mái tóc đen mượt của nàng trải dài xuống giường.

Sở Bắc Tiệp chầm chậm cúi xuống, thưởng thức hương thơm phảng phất nơi cổ nàng, khẽ hỏi: “Hoàng hậu còn nhớ khúc ca năm đó hát cho ta nghe không?”.

“Không nhớ.” Đôi mắt đẹp của Sính Đình khẽ động, nàng ai oán nói, “Thiếp chỉ nhớ năm đó có người đập vỡ cây đàn của thiếp, nhốt thiếp ẩn cư ở một nơi khác, còn ức hiếp thiếp trăm bề”.

“Ta biết sai rồi”, Sở Bắc Tiệp vội đầu hàng, dịu giọng dỗ dành, “Một ngày đẹp trời thế này, không lẽ Hoàng hậu lại muốn dành thời gian hồi ức tới câu chuyện dài của chúng ta sao?”.

Sính Đình bật cười, nhưng vẫn khẽ thở dài: “Đúng thế, một câu chuyện thật dài, cả đời cũng hồi tưởng không hết, thật dài, thật dài…”.

Ngày đó khi cùng ẩn cư với Sở Bắc Tiệp, tứ quốc vẫn chưa thực sự loạn lạc.

Nếu không phải vì lòng người tham lam, chỉ bởi dục vọng cá nhân mà khiến muôn dân trong thiên hạ gặp cảnh tai ương, thì sao có được một Đại Đình quốc hùng mạnh như hôm nay, sao có được một đôi đế hậu mỹ mãn thế này?

Một câu chuyện dài, tựa khúc nhạc dưới ngón tay Sính Đình, dệt nên bản ngũ âm của cả đời người.

Trăng sáng vằng vặc, dịu dàng chiếu trên hai người.

Chàng còn nhớ, chúng ta đã thề nguyền dưới ánh trăng, cả đời không phụ bạc?

Cũng có thể, cả đời này chúng ta sẽ mãi chẳng phụ bạc nhau.

Giữa tháng Bảy, biên giới Quy Lạc quốc.

Mặt trời thiêu đốt, hai hàng cây bên đường rũ lá.

Ba bốn người qua đường không chịu nổi cái nóng phải trốn dưới bóng cây râm mát. Lão đầu bán nước bên đường cũng vì thế mà có thêm vài vị khách.

“Cho bát trà nào.” Cánh tay ra sức quạt, người qua đường cẩn thận lấy trong túi ra một đồng tiền, đặt lên bàn.

“Có ngay đây, một bát trà ngon, mát gan hạ hỏa”, ông lão bán nước tươi cười bê bát trà ra, nói thêm: “Nóng quá, khách quan đang vội hả?”.

“Vâng, đúng là thời tiết quỷ quái, thiêu chết người ta mất.” Nhấp một ngụm trà, cảm thấy mát rượi cả cổ họng đang khát cháy, vị khách quan vui vẻ hẳn lên, nói tiếp: “Tôi đang vội đưa hàng sang vùng biên. Haizzz, hai năm nay Đông Lâm quốc làm loạn ở vùng biên, khiến những thương nhân như chúng ta chẳng có lấy miếng cơm mà ăn. Cũng may, tiểu Kính An vương đã đánh lui được cái gì mà Sở Bắc gì gì ấy, nếu không, cũng chưa biết khi nào tôi mới được trở về”.

“Tiểu Kính An vương của chúng ta thật là cự phách!”

“Ông nói cái người Bắc gì gì ấy tôi cũng biết, đó là đệ đệ ruột của Đông Lâm quốc Đại vương, cũng lợi hại vô cùng.”

Người bên cạnh cười bảo: “Lợi hại thì đã sao? Gặp tiểu Kính An vương của chúng ta thì cũng bị đánh lui về quê rồi”. Uống một hơi cạn sạch trà trong bát, vị khách quan lại lấy ra một đồng tiền nữa, đặt lên bàn: “Lão đầu, cho tôi thêm một bát!”.

Nghe đến bốn chữ “tiểu Kính An vương”, lão nhân bán nước vội gật đầu theo, vừa rót trà vừa nói: “Tôi cũng từng nghe nói đến, đây quả là một mãnh tướng của Quy Lạc quốc chúng ta, không có ông ấy thì không thắng nổi đâu”.

Câu chuyện đang hăng, bỗng nghe tiếng thở dài: “Các người còn dám nhắc đến mấy chữ ‘tiểu Kính An vương’ sao? Bây giờ hắn đã trở thành phản thần của Quy Lạc quốc rồi”.

Lời này chẳng khác nào tiếng sấm giữa trời quang, khiến những người ngồi uống trà đều vô cùng kinh ngạc.

Bàn tay khẽ run, ông lão bán trà thảng thốt: “Vị khách quan này nói gì vậy? Tiểu Kính An vương…”.

“Không ai biết gì sao?”, vị khách vừa đến ngồi xuống, lấy ống tay áo quạt cho mát, “Hôm qua tôi mới từ thành đô tới đây, tiểu Kính An vương hành thích Đại vương thất bại, nên đã trốn khỏi thành đô rồi. Nay, Đại vương hạ lệnh truy bắt toàn bộ người của phủ Kính An. Ta còn nghe nói, tiền thưởng không ít đâu”.

“Nhưng tiểu Kính An vương mới đánh tan đám phản quân, và bình định biên cương, vừa trở về thành đô lãnh thưởng mà?”

“Thế mới lạ chứ? Ngay tối hôm về thành đô, tiểu Kính An vương đã âm mưu vào cung hành thích Đại vương rồi. Các người có biết lúc đó, tiểu Kính An vương dùng thanh kiếm nào không?” Thấy người xung quanh đều chăm chú lắng nghe câu chuyện của mình, vị khách quan kia cố tình vòng vo.

“Chắc chắn phải là thanh bảo kiếm rồi”, có người đoán.

“Đừng nghe hắn nói lung tung”, lại có người nói vẻ khinh miệt, “Ta không tin tiểu Kính An vương dám tạo phản. Vương phủ Kính An đời đời kiếp kiếp là trung thần của Quy Lạc, quyết không bao giờ tạo phản”.

Thấy có người nghi ngờ mình, vị khách quan kia bực đến nỗi râu tóc dựng đứng: “Tiểu Kính An vương dùng chính thanh bảo kiếm Hắc Mặc do đích thân Đại vương ban tặng để hành thích Đại vương. Ở đây đã ai nghe nói về thanh kiếm này chưa? Nếu bị nó chạm vào, thì vết thương sẽ đen sì như mực, không bao giờ phai”.

“Nhưng mà…”

Giữa lúc mọi người đang tranh luận, bỗng tiếng vó ngựa lộp cộp lại gần.

Một đoàn ngựa xe tiến đến, loại xe thường thấy của thương nhân, cửa sổ, cửa xe đều được che kín bằng lớp vải dày. Nam nhân đánh xe mặt mũi bặm trợn, ném hai đồng tiền về phía mặt bàn, lớn tiếng quát: “Lão đầu, cho hai bát trà!”.

“Có ngay.”

“Trời với đất, nóng thế không biết!”

“Đúng đấy, khách quan xuống nghỉ ngơi cho mát rồi hãy đi, ở đây đang nói chuyện về tiểu Kính An vương đấy.”

“Lão tử còn phải lo buôn bán, quản làm chi mấy chuyện vương này đế nọ.” Ngửa cổ uống cạn bát nước, người đánh xe ngựa tháo bình nước lớn giắt ở thắt lưng đưa cho ông lão, “Đổ đầy bình luôn đi, lão tử còn phải lên đường”.

Ông lão vội rót nước đầy bình.

Nam nhân cầm bình nước, nhảy lên lưng ngựa, khẽ thúc một tiếng, xe ngựa lại tiếp tục lăn bánh.

Xe ngựa lắc lư tiến về phía trước, khiến Sính Đình mở choàng mắt.

Không khí oi bức, mồ hôi đầm đìa trên cổ, đôi mắt mới mở của Sính Đình vẫn chưa quen với ánh sáng bên ngoài, nàng bèn nhắm lại.

Đầu đau ê ẩm, từng cơn chóng mặt như những đợt sóng đang muốn nhấn chìm cả người nàng.

Đây là đâu? Nàng nghi ngờ tự hỏi. Đến khi nhìn rõ bốn bề xung quanh, sự cảnh giác vô cớ khiến Sính Đình tỉnh hẳn. Đôi mắt tròn đen bỗng chốc mở to.

Trí nhớ của nàng đột nhiên lấp đầy những tiếng đuổi giết dữ dội, lửa cháy đầy trời…

“Sính Đình, muội đợi ở ngoài thành, chúng ta vào thành làm rối cục diện thêm chút nữa, tiếp ứng phụ thân.”

“Vậy… thiếu gia, lúc bình minh, chúng ta sẽ gặp nhau ở ngọn đồi ngoài thành nhé.”

Vương gia đâu? Thiếu gia đâu? Còn cả Đông Chước bướng bỉnh quấy phá lúc nào cũng lo thiên hạ chưa đủ loạn hiện đang ở đâu?

Còn nhớ, sau khi hẹn với thiếu gia, ngay lập tức nàng đã đi về phía đồi, rồi đoạn ký ức cuối cùng của nàng dừng lại ở việc vừa nhìn thấy ngọn đồi ấy.

Lúc đó nàng bỗng cảm thấy đau nhức sau đầu, trước mắt bất chợt tối sầm…

“Tỉnh rồi à?”, có người vén rèm xe lên, một khuôn mặt nam nhân xuất hiện, “Đáng nhẽ phải tỉnh từ lâu rồi chứ? Mãi không tỉnh, lão tử còn tưởng gậy ấy đánh chết ngươi rồi”.

Bọn buôn người ư? Sính Đình cảnh giác đánh giá con người trước mặt.

Không lẽ trong lúc quan trọng nhất, trong lúc thiếu gia không thể thiếu nàng hầu hạ, nàng lại bị bọn buôn người bắt cóc? Thật bất công, từ nhỏ đến lớn số lần Bạch Sính Đình nàng một mình rời khỏi vương phủ rất ít, nay một thân một mình rời vương phủ thì lại gặp bọn buôn người thế này.

“Được rồi, bây giờ lão tử hỏi ngươi”, nam nhân vào trong xe ngựa, rút cái giẻ ở miệng nàng ra, giọng uy hiếp: “Ta hỏi gì ngươi phải đáp nấy. Nếu không chịu thật thà, ta sẽ bắt ngươi cho sói ăn đấy”.

Nghe cái giọng dọa nạt trẻ con ấy, suýt chút nữa Sính Đình bật cười. Từ nhỏ, nàng đã theo hầu tiểu Kính An vương Hà Hiệp, là nữ tử duy nhất có thể theo Hà Hiệp xuất chinh. Tuy còn ít tuổi, nhưng nàng đã được chứng kiến không ít trận chém giết trên sa trường. Chỉ một câu ấy, sao dọa nổi nàng?

Không đợi nam nhân kia hỏi tiếp, Sính Đình hỏi trước: “Ngươi bắt ta ở khoảng hai dặm ngoài cổng thành đúng không?”.

Nghe thế, nam nhân bỗng giật mình, lại thấy vẻ ung dung tự đắc, vẻ uy nghiêm toát ra từ nụ cười của nàng, thì bất giác gật đầu trả lời: “Đúng thế”.

“Ta ngủ mấy ngày rồi?”

“Hai ngày rưỡi.”

Nghe thấy câu trả lời, mặt Sính Đình bỗng biến sắc, than thầm trong lòng.

Nếu đúng nàng đã hôn mê hai ngày rưỡi, thì chắc chắn truy binh của Đại vương đang lùng sục khắp thành đô. Đám người thiếu gia hẳn không thể ở lại nơi ngọn đồi đã hẹn. Nàng cảm thấy trong lòng như có lửa đốt, hỏi tiếp: “Ngươi định bán ta đi đâu?”.

“Đi…” Liên tục trả lời mấy câu hỏi, nam nhân bỗng cảm thấy có gì đó không ổn, liền sực tỉnh, “Rõ ràng ta đang hỏi ngươi, sao lại thành ngươi hỏi ta thế hả?”, rồi lộ vẻ hung dữ, gằn giọng: “Ta hỏi ngươi, ngươi là thê tử nhà hào phú nào bỏ trốn? Nhà ở đâu?”.

Thê tử bỏ trốn?

Sính Đình ngẩn người, cúi xuống nhìn mình, ngay lập tức tỉnh ngộ.

Tuy là nha đầu trong vương phủ, nhưng từ nhỏ nàng đã được chủ nhân yêu thương, đồ dùng thường ngày cũng hơn hẳn những tiểu thư con nhà bình thường. Khắp người tơ lụa xúng xính, một thân một mình ra khỏi thành vào lúc bình minh, chẳng trách bọn buôn người lầm tưởng là thê tử nhà hào phú nào bỏ trốn.

Hèn gì đám buôn người còn tốt bụng để nàng ngủ hai ngày rưỡi trên xe, mà không vứt ngang giữa đường, hóa ra định dùng nàng để kiếm chút tiền tài.

Sính Đình cười tươi như hoa, lắc đầu bảo: “Ta chỉ là một a hoàn, có phải thê tử của hào phú gì đâu”.

“A hoàn mà được mặc tơ lụa đẹp thế này sao?”

Sính Đình thầm tính: E rằng Đại vương đã hạ lệnh truy bắt người của vương phủ Kính An khắp nơi, nên nàng không thể để lộ thân phận của mình. Ánh mắt nàng nhìn quanh: “Ta chỉ định bụng trốn ra khỏi thành hẹn gặp tình lang, vì muốn ăn diện nên trộm y phục của tiểu thư để mặc”. Quy Lạc phong tục phóng khoáng, không hiếm chuyện nữ nhân ra ngoài hẹn gặp tình lang.

Nam nhân nghe vậy bèn cau mày, vén rèm xe, hét lên một tiếng: “Lão Trương, lại đây ngay!”.

Một lúc sau, khuôn mặt béo tròn từ bên ngoài nhòm vào: “Phúc nhị ca có gì dặn dò?”.

Thì ra nam nhân trước mặt là Phúc nhị ca.

“Dặn dò cái đầu ngươi ấy! Ngươi nói với lão tử, nữ nhân này trông giống thê tử nhà phú hào nào bỏ trốn, rất đáng tiền?”, Phúc nhị ca trợn mắt, chỉ vào Sính Đình, “Nó là con a hoàn! Nuôi không mất hai ngày!”.

Lão Trương rụt đầu, ngó qua Sính Đình đang ngồi im thin thít, cười nịnh: “Phúc nhị ca đừng giận. Đằng nào cũng bắt rồi, dù không phải, nhưng ít nhất cũng bán được vài đồng”.

“Hàng này thì bán được đồng nào?”, ngón tay to bè không hề khách khí chỉ thẳng vào mũi Sính Đình.

Kỳ thực, tướng mạo của Sính Đình không được coi là đẹp. Trong vương phủ Kính An, nàng chỉ miễn cưỡng được xếp vào hàng nhan sắc bậc trung, tạm gọi là thanh tú mà thôi.

Nhưng cả vương phủ Kính An, không ai không biết đến tầm quan trọng của Sính Đình.

Không ngờ hôm nay nàng lại bị một tên buôn người chỉ thẳng vào mũi mà nói không đáng tiền. Sính Đình không chịu nổi, liếc xéo hắn một cái.

Nạt nộ lão Trương vài tiếng, Phúc nhị ca đành mang vẻ mặt tự nhận mình xui xẻo: “Thôi vậy, ít nhiều cũng bán được năm mươi đồng. Con a hoàn ăn trộm y phục của chủ nhân này, hại lão tử tưởng là cái mỏ tiền, còn cho ngồi trong xe riêng của ta hai ngày trời. Đi đi, đưa nó ra phía sau ngồi chung với những người khác”.

Vừa vào xe ngựa phía sau, mùi hôi thối đã xộc thẳng lên mũi, ngay lập tức Sính Đình hiểu ra tại sao Phúc nhị ca lại nói đã ưu đãi mình hai ngày qua. So với chiếc xe ngựa lúc nãy, chiếc xe này rất đỗi tồi tàn, chật chội, vừa bẩn vừa nóng.

Trên xe, bảy tám nữ nhân đang chen chúc nhau. Giống như Sính Đình, hai tay họ bị trói quặt ra sau lưng, ai cũng nhìn nàng với ánh mắt vô cùng đồng cảm.

“Ngồi lui vào trong, thêm đứa nữa này.” Lão Trương đẩy Sính Đình vào xe ngựa, tiện tay lôi mấy cái giẻ nhét trong miệng các nữ nhân kia ra, “Đoạn này đồng không mông quạnh, chẳng cần bịt miệng các ngươi nữa. Nếu không, trời nóng thế này chết vài đứa thì phí công. Cứ ngoan ngoãn ở đấy cho ta, nghe rõ chưa!”. Quát tháo vài câu, lão Trương ra khỏi xe ngựa, chắc còn đi đánh xe.

Bị lão Trương đẩy ngã dúi dụi, khó khăn lắm Sính Đình mới tìm được một chỗ trong góc để ngồi.

“Lọc cọc… Lọc cọc…”

Xe ngựa lắc lư dữ dội, Sính Đình bỗng cảm thấy ngứa cổ, nàng ho mạnh vài tiếng.

Cảm giác khó chịu vô cùng.

Lần này, theo thiếu gia xuất chinh bị nhiễm bệnh, nàng vẫn chưa khỏi hẳn sao? Sính Đình chau mày, nhắm mắt dựa đầu vào thành gỗ cứng.

Cảm thấy dễ chịu hơn, nàng lại bắt đầu suy nghĩ.

Vương phủ Kính An, nơi nàng lớn lên, chắc giờ chỉ còn là một đám tro tàn?

Túc vương tử, không, phải gọi là Đại vương mới lên ngôi, nỗi nghi ngờ của Đại vương với việc vương phủ Kính An nắm giữ trọng binh ngày càng tích tụ. Thiếu gia vừa lập chiến công, Đại vương không thể nhẫn nhịn thêm, đã hạ độc kế, vu cáo thiếu gia mưu phản ngay trong đêm khải hoàn.

May mà vương phủ Kính An có đề phòng từ trước, nếu không đã trở tay chẳng kịp rồi.

Bây giờ, chắc thiếu gia đã có kế sách bỏ trốn an toàn.

Không biết họ sẽ trốn đi đâu. Không đoán được cũng tốt, tốt nhất là trốn đến một nơi không ai có thể đoán ra, như vậy, truy binh mới không tìm được.

Xung quanh nàng bắt đầu vang tiếng khóc thút thít, đám nữ nhân vừa được rút giẻ ra khỏi miệng bắt đầu khóc lóc cho sự bất hạnh của mình. Sính Đình mở to mắt, chậm rãi nhìn xung quanh.

Đúng vậy, người nào cũng rất xinh đẹp, chắc nàng là người xấu nhất ở đây.

Trước nay, bọn buôn người chỉ ra tay với mỹ nhân, bán họ cho các quan lại quyền quý mua về làm thiếp, mới được giá. Nghĩ đến lúc Phúc nhị ca định giá nàng năm mươi đồng, Sính Đình khẽ mỉm cười. Những thứ khác không cần tính, chỉ riêng số tiền thiếu gia thưởng cho nàng hằng ngày cũng đủ để Phúc nhị ca chết chìm trong đống tiền rồi.

Nếu Phúc nhị ca biết mình đã may mắn bắt được ai, chẳng biết mặt mũi hắn sẽ thế nào nhỉ?

“Tỷ tỷ…”, một nữ nhi vẫn đang trong cơn khiếp đảm, khẽ chạm tay vào vai Sính Đình: “Tỷ tỷ cũng bị bọn chúng bắt, rồi đem bán à?”.

Thật là một cô nương khiến người ta yêu quý, chẳng trách lại lọt vào mắt bọn buôn người. Sính Đình gật đầu: “Ừm”.

“Tỷ tỷ có sợ không?”

“Không.”

Nữ nhi kinh ngạc nhìn nàng: “Không sợ?”.

Thấy nữ nhi kia vẫn muốn hỏi tiếp, vốn đang đau đầu, Sính Đình bèn chặn ngay: “Muội tên gì?”.

“Muội… muội tên tiểu Thanh. Thế tỷ tỷ tên gì?”

“Ta là tiểu Hồng”, Sính Đình nhanh chóng đặt cho mình một cái tên mới. Đằng nào cũng không thể để người ta bán đi với cái tên “Bạch Sính Đình” được, cái tên không phải mọi người đều biết nhưng cũng không hẳn là vô danh.

“Tỷ tỷ…”

“Muội có biết hiện giờ chúng ta đang đi đâu không?”, Sính Đình cắt ngang câu hỏi của tiểu Thanh. Nàng muốn tìm hiểu về tình thế hiện giờ ngay lập tức. Nàng không sợ, mà còn ít nhiều cảm thấy hứng thú, cũng giống như lúc theo thiếu gia xuất chinh, giúp thiếu gia nghĩ cách phá địch. Có khác chăng chỉ là hiện giờ còn độc mình nàng hăng hái chiến đấu mà thôi.

“Nghe lão béo và lão ác nói chuyện với nhau, hình như chúng đang định bán chúng ta sang Đông Lâm.”

Nước địch? Hai hàng lông mày của Sính Đình càng chau lại.

Quân địch lần này thiếu gia đánh bại ở biên cương chính là Đông Lâm. Kế sách dụ địch vào núi, mở sông ngăn đường của Sính Đình khiến quân Đông Lâm thảm bại, tan tác rút lui. Lúc đó, thiếu gia còn cười bảo: “Giờ toàn quân đều biết chúng ta có một nữ quân sư. Trở về thành đô, ta sẽ xin với phụ thân trọng thưởng muội. Lần này muội muốn gì?”.

Giả dụ đến Đông Lâm quốc, nàng bị bóc trần thân phận, hậu quả thật là…

Xem ra, nàng không thể dùng chiêu mượn xe ngựa của bọn buôn người để trốn chạy sự truy tìm của Đại vương nữa rồi. Giờ phải xem khi nào có cơ hội chạy thoát thân, phải nhanh chóng trốn khỏi đám người này, rồi dựa vào đôi chân mình mà đi tìm tung tích của thiếu gia thôi.

Sau khi suy nghĩ rõ ràng, huyệt thái dương nàng bỗng giật giật, đau tựa như có ai đang gõ mạnh vào đó. Toàn thân mệt mỏi, nàng không còn chút sức lực nào nữa, ho dữ dội.

“Tỷ tỷ…”, tiểu Thanh nhìn nàng quan tâm.

“Không sao.” Khó khăn lắm mới ngắt được cơn ho, nàng lại phát hiện họng mình tanh nồng. Lòng nàng quặn thắt, không lẽ nàng lại ho ra máu? Nếu vậy, nàng làm sao trốn được khỏi đây?

Sức khỏe nàng khá tốt, chỉ là lần này xuất chinh bị nhiễm dịch mà thôi. Trong lúc đánh trận, vì không muốn thiếu gia lo lắng nên nàng cố chịu đựng, không nói gì. Trên chặng đường gập ghềnh trở về thành đô, ngay đêm đầu tiên nàng đã không thể chịu đựng thêm.

Lại xảy ra bao chuyện rút hết sức lực nàng, chẳng trách bệnh tình ngày một trầm trọng.

Suy tính hồi lâu, Sính Đình lặng lẽ thở dài: “Đông Lâm thì Đông Lâm”. Nàng quyết định tạm thời cứ theo bọn buôn người đến Đông Lâm đã.

Suy cho cùng, vương lệnh truy bắt người của vương phủ Kính An chỉ có hiệu lực trong Quy Lạc quốc.

Nước địch cũng có thể coi là một lựa chọn không tồi, chỉ cần thân phận nàng không bị lộ.

Mấy hôm sau, đoàn xe đã đến Đông Lâm.

Tất nhiên, đám buôn người sẽ chẳng bán họ ở cái đất quê mùa nghèo rớt mồng tơi nơi biên cương này. Đi thêm mấy ngày đường nữa, vào thẳng Mạc Ân, thành đô của Đông Lâm, bọn buôn người mới đuổi hết đám nữ nhi xuống xe, cho vào quán trọ tắm gội, thay quần áo sạch sẽ.

Chinh chiến liên miên, mua bán người cũng là chuyện thường, gần như thành đô nào cũng có chợ chuyên mua bán người. Sính Đình cùng những cô nương kia bị bọn buôn người dẫn ra chợ, đứng trên bục để các chủ mua soi mói món hàng.

Sính Đình là người không bắt mắt nhất trong đám, nên bị xếp ra sau, lại thành an nhàn. Bọn buôn người cướp bộ y phục tơ lụa nàng mặc hôm trước, mặc cho tiểu Thanh, nhằm nâng giá mỹ nhân.

“Mỹ nhân Quy Lạc quốc! Mỹ nhân Quy Lạc quốc đây!”

Nghĩ mình đường đường là đệ nhất thị nữ của vương phủ Kính An trong Quy Lạc quốc, giờ bị xếp ở đây rao bán thế này, Sính Đình không khỏi lắc đầu ngao ngán.

Chẳng trách người ta nói rằng, đời người biến đổi khôn lường.

Nàng nhìn những nữ nhi đứng trên bục, mấy cô gái bị bắt lên trên đó đều đã có chủ mua. Người mua tiểu Thanh dáng dấp nho nhã thư sinh, có vẻ hiền lành, rõ là công tử nhà giàu. Tiểu Thanh vẫn sợ chết khiếp, trước khi đi còn kêu lên thảm thiết: “Tỷ tỷ! Tỷ tỷ!”, rồi nắm chặt tay nàng.

Nhưng Sính Đình biết, nữ nhi xinh đẹp cùng khổ như tiểu Thanh, nếu được vào làm nha đầu ở những nhà giàu có, thì cũng coi như may mắn. Năm đó, nếu không được Vương gia mang về vương phủ, e rằng Sính Đình đã chết đói dọc đường rồi.

“Đi đi, đừng sợ”, Sính Đình khẽ vỗ vào tay tiểu Thanh, tiễn muội muội lên đường.

Người cuối cùng được bán đi là Sính Đình.

Xem ra kém sắc thật khó bán. Song, nói tốt nói xấu mãi, cuối cùng đám buôn người cũng tìm được vị quản gia đang cần một nha đầu khỏe mạnh làm những việc nặng nhọc, và đã bán Sính Đình với giá bốn mươi đồng.

Bốn mươi đồng? Nếu biết được giá nàng thấp thế, chắc thiếu gia sẽ cười ngất mất.

“Đây là cổng lớn, nhớ chưa?” Dẫn nàng đến trước một cổng lớn đẹp đẽ, Hoa quản gia chỉ vào tấm biển to bên trên, “Đám a hoàn các ngươi chỉ được ra vào lối cửa nhỏ, rõ chưa?”.

Sính Đình ngẩng lên, đọc hàng chữ trên tấm biển: “Hoa phủ”.

May mà không phải phủ của Trấn Bắc vương, nếu không, chắc Sính Đình phải co giò chạy ngay.

Trấn Bắc vương Sở Bắc Tiệp là đệ đệ ruột của Đại vương Đông Lâm danh tiếng lẫy lừng, là đệ nhất hổ tướng của Đông Lâm quốc, cũng là người dẫn binh xâm phạm Quy Lạc quốc rồi bị thiếu gia đánh cho tan tác.

“Khá lắm, cũng đọc được vài chữ đấy”, Hoa quản gia gật đầu, dẫn Sính Đình đến bên cổng nhỏ, “Từ nay, đây là nhà mới của ngươi, lão gia và tiểu thư nhà ta đều rất tốt, ngươi chịu khó làm việc, sẽ không ai bạc đãi ngươi đâu”.

Thế là, Hoa phủ có thêm một nha đầu.

Công việc của Sính Đình là giặt y phục. Thật không thể tin nổi, một ngày nàng phải giặt bao nhiêu y phục.

Trước đây khi còn ở vương phủ Kính An, tuy mang thân phận nha đầu, nhưng địa vị nàng chẳng khác gì muội muội của thiếu gia. Công việc thường ngày chỉ là bưng trà, thỉnh thoảng quạt mát cho thiếu gia, còn cùng thiếu gia đọc sách, vẽ tranh, đánh đàn, đâu phải giặt y phục như bây giờ. Thậm chí hồi đó, ngay cả y phục của nàng cũng giao cho nô tỳ giặt sạch sẽ.

“Cuối cùng cũng giặt xong.” Nàng mang chỗ y phục đã vất vả giặt sạch ra phơi nơi giếng trời. Bàn tay thường ngày vẫn được giữ gìn trắng trẻo, nay nổi đầy mọng nước, hàng lông mày thanh tú của Sính Đình khẽ chau lại, rồi giãn ra ngay. “Sính Đình ơi là Sính Đình, ai bảo trước đây ngươi không chịu làm việc? Giờ ngươi biết rõ thân phận nha đầu là thế nào rồi chứ? Ngươi phải trả cho hết một lần thôi.” Tự giễu bản thân đôi ba câu, đôi má Sính Đình hằn rõ hai lúm đồng tiền sâu hoắm.

Đôi mắt to tròn đen láy thể hiện rõ khí chất tiềm tàng trong nàng. Tuy ngũ quan không thật tuyệt sắc, song ở nàng vẫn toát lên vẻ đẹp khiến người khác không thể làm ngơ.

Lúc này nếu Phúc nhị ca nhìn thấy Sính Đình, chắc sẽ phải vò đầu bứt tai, tiếc hùi hụi vì đã bán nàng với giá chỉ bốn mươi đồng.

Đúng là Hoa phủ không bạc đãi người dưới. Biết Sính Đình ho lâu, Hoa quản gia còn đi bốc cho nàng ít thảo dược, tuy không phải loại quý hiếm, nhưng uống hết hai thang, hình như cũng thấy có hiệu quả.

Vốn thầm tính toán, đợi khỏe lên chút ít sẽ lặng lẽ trốn đi, song một việc nhỏ đã đảo lộn kế hoạch của nàng.