Sau lưng tôi là cuộc sống duy nhất tôi từng biết, và trước mặt tôi trải ra một cuộc sống tôi chẳng thể nào tưởng tượng nổi. Vừa đi, tôi vừa ngoái lại nhìn hình bóng cha Sunder dần khuất trong màn đêm. Ông đã luôn hiện diện trong cuộc đời tôi từ những hồi ức đầu tiên, vậy mà giờ ông không còn bên tôi nữa. Chỉ khi đó tôi mới nhận ra là cả tôi lẫn anh đều không có chút ý tưởng nào về nơi chúng ta sẽ đến cả.

Anh dẫn đường, vờ như biết mình đang làm gì, đưa chúng ta ra xa khỏi Engelthal. Tôi ngờ rằng anh đang lo lắng không biết liệu có một toán nữ tu đang chạy theo truy lùng chúng ta không; có lẽ điều anh bận lòng hơn cả là tôi có thể nhụt chí mà quay trở lại. Thế nên anh cứ tiếp tục tiến về phía trước, dù thực tế anh vẫn phải chịu đau đớn vì những vết bỏng, và tôi đã phải hộc tốc để theo kịp anh. Chân tôi ngập trong bùn nhưng tôi quyết tâm cho anh thấy dù anh đi nhanh thế nào, tôi cũng bắt kịp được. Tôi nghĩ điều đó rất quan trọng với mình vì chính tôi cũng không biết đó có phải sự thật không.

Tôi có thể thấy chiến tranh đã dạy anh quên đi những đau đớn thể xác và tiến bước chỉ bằng ý chí bản thân. Tôi đã giúp đỡ quá trình hồi phục của anh, tôi biết những nỗ lực này còn vượt xa tất cả những gì anh đã làm khi được đưa đến Engelthal, và tôi rất ngưỡng mộ sức chịu đựng của anh - cho tới khi, sức chịu đựng ấy bất thình lình suy kiệt.

Anh trượt chân xuống bùn và loạng choạng ngã. Anh cố đứng ngay dậy nhưng không được: ngay khi đứng lên được, anh lại mất thăng bằng một lần nữa. Lần này, khi ngã xuống, anh lấy tay chống, nhưng vùng da co rúm trên ngực đã làm anh rên lên đau đớn. Theo bản năng, anh thu tay lại và chúi mặt xuống bùn.

Tôi cúi xuống đỡ anh và hành động tức thì của anh là đẩy tôi ra. Rồi, có lẽ nhận ra để tiếp tục tiến bước thì chúng ta phải phối hợp cùng nhau, anh để tôi giúp anh đứng dậy. Anh nói, cố ra vẻ đùa cợt, "Tôi nghĩ một con quỷ đã cố kéo tôi xuống đấy."

Một lúc sau, anh đã hồi phục nên chúng ta có thể rời tới trú dưới một gốc cây. Rồi chúng ta ngồi đó, thân lấm đầy bùn, chờ mưa tạnh. Chúng ta rúc vào nhau để lấy hơi ấm và đây là lần đầu tiên tôi ở gần một cơ thể khác, nói gì đến cơ thể một người đàn ông, nhưng nó lại chẳng giống với những gì tôi từng tưởng tượng. Tôi biết giây phút này thế nào cũng đến và từng nghĩ nó sẽ hồi hộp khủng khiếp, nhưng tôi chỉ cảm thấy một nỗi sợ mơ hồ rằng mình đã sai lầm khi quyết định rời khỏi Engelthal.

Đây là điểm khởi đầu của cuộc sống chung giữa hai chúng ta: trong làn mưa lạnh giá, không thể tiến lên phía trước, đợi buổi sáng đến và có lẽ - có lẽ - mặt trời sẽ mang tới chút nắng ấm. Có lẽ, tôi nghĩ, đây là dấu hiệu để tôi quay lại. Tôi sẽ trở lại trước khi bất cứ ai biết là tôi đã biến mất, và tôi sẽ giả ốm trong phòng. Một hay hai ngày gì đấy, tôi sẽ trở lại làm việc, và đời cứ thế trôi đi như trước.

Nhưng không. Agletrudis còn lâu mới ỉm hành động của tôi đi, và tôi cũng không thể để mặc một người đàn ông đang đau yếu bên vệ đường được, đặc biệt lại là một người tôi cảm thấy thực sự phải có trách nhiệm. Tuy nhiên, tôi vẫn không thể không nghĩ tới sự bình lặng của tu viện và vị trí của tôi ở đó. Nhà tôi là ở phòng viết, giữa những cuốn sách. Nhưng dưới một cái cây, trong cơn bão, với một người đàn ông tôi hầu như không biết nhưng cũng là người tôi đã đặt cả tương lai vào: sao đó có thể là kim chỉ nam của đời tôi cơ chứ?

Và chẳng có cách nào khác ngoài việc đợi cho đêm tối qua đi.

Rồi mặt trời cũng mọc nhưng vẫn chưa thể xuyên qua những đám mây xám xịt, cơn mưa thưa dần nhưng vẫn chưa chịu tạnh hẳn. Chúng ta bắt đầu đi tiếp, nhưng vẻ mạnh mẽ của anh đã tan biến. Mọi nỗ lực bước đi đều là sự thách thức, và mọi bước đi thành công đều là một niềm hân hoan lớn. Tôi luôn ở cạnh anh với mỗi thắng lợi nhỏ bé này, tôi quàng tay qua người anh, lo ngại rằng nếu lại ngã xuống thì anh sẽ không đứng dậy được nữa.

Rồi may mắn cũng đến với chúng ta, dưới hình dạng một chiếc xe bò. Tiếng chân bò gõ lọc cọc trước mặt chúng ta, anh bèn vẫy tay ra hiệu cho người đàn ông dừng lại. Anh hỏi người đó đang đi về đâu - câu trả lời là Nürnberg, tới chợ - nhưng khi anh xin được đi nhờ, người nông dân đã thẳng thừng từ chối. Có chỗ nào để ngồi giữa một đống lợn thế này cơ chứ, ông ta nói, chỉ vào chỗ hàng đang chở.

"Hai con giá bao nhiêu?" anh hỏi.

Người nông dân ra giá và anh lấy số tiền tương ứng trao cho ông ta, rồi chậm rãi trèo lên chiếc xe bò. Anh cố nâng một con lợn lên nhưng không đủ sức bèn gọi tôi và cả hai ta hợp lại đủ để làm việc đó. Ngay khi con lợn chạm chân xuống đất, nó vội rú lên eng éc và chạy biến vào rừng, và chúng ta lại cho con thứ hai một kết cục tương tự. Anh quay về phía người lái xe đang há hốc mồm và nói, "Giờ đã có chỗ cho chúng tôi rồi đấy."

Người nông dân càu nhàu thừa nhận rằng ông ta nên làm thế. Tôi có thể thấy ông ta chẳng vui vẻ gì khi có bạn đồng hành là người, nhưng ông ta cũng thừa biết anh sẽ không cho ông ta cứ thế lái đi mà bỏ chúng ta lại đâu. Vì ông ta đã nhận tiền rồi, tặc lưỡi đồng ý có vẻ dễ dàng hơn là tiếp tục tranh cãi.

Những con lợn chen lấn nhau trong suốt chuyến đi, đâm bổ vào chúng ta với vẻ tò mò, dò la chúng ta với mấy cái mũi khụt khịt của chúng. Lúc đầu tôi còn cố xua chúng đi, nhưng những nỗ lực cuối cùng cũng nguội đi vì tôi nhận ra chúng chẳng còn chỗ nào để đi cả. Nếu tôi đẩy được một con ra, ngay lập tức một con khác sẽ nhảy vào thế chỗ. Chúng kêu eng éc liên tục nhưng tiếng ồn cũng chẳng là gì so với mùi hôi, và khi cuối cùng chúng ta cũng tới được ngoại ô Nürnberg, tôi tin chắc Chúa đã viện đến phân lợn để gửi thông điệp của Người.

Người nông dân thả chúng ta xuống một nhà trọ, tôi đoán có lẽ ông ta có thâm thù gì đó với người chủ. Chúng ta hiển nhiên là hai người lạ, lại bốc mùi, đang cố xin thuê một phòng. Chủ nhà trọ có vẻ do dự, chẳng biết xử trí thế nào với một người đàn ông bị bỏng và một nữ tu đi cùng một bầy gia súc, lại còn định thuê chung một phòng nữa chứ. Nhưng anh đã dúi cho ông ta thêm một ít tiền và tôi đề nghị sẽ cầu Chúa chúc phúc cho ông ta, đảm bảo với ông ta rằng dù trông tôi có thế nào thì Chúa cũng vẫn cứ nghe lời cầu nguyện của tôi như bình thường. Ông ta cuối cùng cũng dè dặt kiếm cho tôi và anh một phòng cuối dãy, biệt lập khỏi những phòng trọ khác, và chúng ta chỉ được phép vào ở nếu chịu tắm rửa giặt giũ tại một con suối gần đó trước.

Chỉ có một chiếc giường duy nhất trong phòng và điều này đã nhấn mạnh chuyện tôi đang cố gắng hết sức để không nghĩ tới. Hiển nhiên là có tính nhục dục trong những cuộc trò chuyện giữa chúng ta tại Engelthal. Tôi biết tôi không bỏ đi chỉ để sống như em gái anh, nhưng tôi chẳng biết chút gì về quan hệ nam nữ cả. Những gì tôi nghĩ hẳn đã lộ hết trên mặt. Anh đi ra giữa phòng và trải vài mảnh vải ra, nói rằng anh đã quen nằm đất từ những ngày ở trong đội lính đánh thuê rồi. Anh chẳng nhìn tôi lấy một lần khi tôi cởi bộ đồ ướt nhoẹt của mình ra và trèo lên giường, và tôi vẫn luôn luôn ghi tâm sự tốt bụng đó của anh.

Dù thực sự rất mệt mỏi, tôi vẫn không tài nào ngủ được. Có lẽ anh nghe thấy tiếng chân tôi cứ cọ vào giường bồn chồn lo lắng, hoặc có thể là do hơi thở của tôi không được thoải mái. Dù vì lý do gì đi nữa, sau vài phút anh gọi, "Marianne?"

Tôi gần như hoảng sợ đến nỗi không dám trả lời nhưng cuối cùng cũng đáp lại. "Vâng."

"Không phải một khởi đầu thực sự tốt đẹp, nhưng dù gì đi nữa nó vẫn là một khởi đầu," anh nói. "Tôi hứa nó sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Còn tối nay thì cứ ngủ đi và biết rằng em đã an toàn rồi."

Anh không thể tưởng tượng được những lời đó đã làm tôi trấn tĩnh đến mức nào đâu, và để đáp lại, tôi đã làm điều tôi có thể. Tôi đưa cho anh sợi dây có mặt là đầu mũi tên - không đủ can đảm để tự tay đeo nó vào cổ anh - và nói rằng cha Sunder đã ban phúc để nó luôn bảo vệ anh.

"Thế thì tôi sẽ đeo nó mãi mãi, và sẽ đeo nó đầy kiêu hãnh," anh nói, "và tôi cám ơn em."

Chúng ta ngủ cho tới tận tảng sáng hôm sau và quyết định ở lại thêm một đêm nữa để hồi phục trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng ta phải tự quyết định tương lai của mình và thậm chí cả điều này cũng làm tôi lo sợ, vì chúng ta đã có thể tự do chọn lựa điều gì sẽ xảy ra tiếp theo trong cuộc đời mình. Tự do lựa chọn là việc anh không thể làm từ khi gia nhập đội quân condotta, và là điều tôi chưa từng biết tới.

Người chủ nhà trọ chuẩn bị bữa tối cho chúng ta và tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy thức ăn có thể ngon đến thế. Hãy nhớ, các nữ tu luôn được dạy rằng sự khiêm tốn của họ được đo đếm bởi sự đạm bạc trong việc nấu nướng. Anh và tôi nói chuyện luôn miệng khi ăn. Chúng ta đều muốn tới một nơi nào đó rộng lớn một chút, để hòa vào đám đông càng nhiều càng tốt, vì những lý do rất hiển nhiên. Hai thành phố lớn nhất vùng là Nürnberg, nhà trọ của chúng ta nằm ven nơi này, và Mainz. Có rất nhiều công trình đang được xây dựng tại Mainz, phần lớn là các nhà thờ mới, vì thế đó là một điểm lợi cho chúng ta. Ngoài nghề cung thủ ra thì nghề duy nhất anh được đào tạo bài bản là thợ xây, thế nên đó là việc anh định làm để kiếm sống. Sẽ chẳng dễ dàng gì, vì anh đã bỏ nghề hơn chục năm rồi và vẫn còn chưa hồi phục khỏi những vết bỏng, nhưng chúng ta chẳng còn lựa chọn nào tốt hơn cả. Anh để dành được chút tiền từ hồi còn làm lính và huynh trưởng Heinrich cũng đã dúi vào tay tôi ít tiền trước khi chúng ta rời đi, vì thế chúng ta cũng có thể chống chọi được một thời gian.

Có một lý do nữa cho việc chọn Mainz: nó có một sự cân bằng lạ lùng giữa đời sống tâm linh và thế tục. Những cư dân ở đó đã giành được quyền tự bầu chính quyền của mình và tự điều hành các vấn đề tài chính, thay vì để cho Nhà thờ gánh toàn bộ trách nhiệm. Dù vị trí của tôi ở Engelthal chẳng quan trọng cho lắm, tôi vẫn cảm thấy khá hơn nếu chúng ta tới sống ở một thành phố có chút tự trị. Nürnberg quá gần Engelthal cả về địa lý và lịch sử - xét cho cùng, chính từ Nürnberg mà Adelheit Rotter đã lãnh đạo những người Beguine thành lập tu viện đấy thôi.

Đã quyết định lựa chọn Mainz, giờ chúng ta sẽ phải tìm cách đến đó. Tôi không thể đi xa hơn trong bộ quần áo nữ tu của mình, vì tôi sẽ lại có cảm giác mình đang lừa dối mọi người. Dù vẫn chưa biết phải gọi mình là gì, nhưng tôi cũng hiểu mình không còn là nữ tu nữa. Chúng ta tìm được một cửa hàng bán loại quần áo thịnh hành thời đó, và đó cũng là nơi tôi học thêm được về trang phục. Tôi thử một chiếc áo choàng kiểu Pháp với ống tay áo rộng thùng thình, loại áo tôi đã được dạy là "cửa sổ dẫn tới Địa ngục" vì chúng cám dỗ đàn ông khám phá bên trong. Kiểu quần áo như thế không dành cho tôi. Cuối cùng tôi quyết định mặc quần bó và một chiếc áo thụng giản dị. Tôi gói mấy cái áo choàng nữ tu của mình rồi cất vào trong túi đeo vai thay vì ném chúng đi. Dù có muốn đi nữa, tôi cũng chẳng thể nào ném chúng đi như một đống rác được.

Chúng ta tiến vào Mainz từ hướng Đông, qua những cánh cổng mở ra phía sông Rhine. Anh không thể tưởng tượng nổi điều đó đã cuốn hút tôi đến thế nào đâu. Mọi người cứ hò hét ầm ĩ! Tôi biết cũng không hẳn là thế, nhưng hãy nhớ rằng tôi đã sống cả đời trong tu viện. Chúng ta luồn qua đám đông gần chỗ những sạp bán thức ăn, và đi qua đám người say xỉn loạng choạng bước ra khỏi mấy quán rượu. Chẳng một ai cúi chào tôi như cách họ luôn làm nếu tôi mặc áo choàng tu sĩ. Tôi chỉ là một công dân khác mà thôi.

Chúng ta tiến về phía khu dân nghèo của thành phố, tìm kiếm những chỗ trọ rẻ hết mức. Cuối cùng chúng ta cũng tìm được một nhà trọ nhỏ ở khu định cư cho người Do Thái đằng sau cửa hàng của một cặp vợ chồng đã có tuổi. Họ hơi bối rối vì không hiểu tại sao chúng ta lại muốn sống ở đó, vì người phụ nữ đã nhận ra ngay tôi là người theo Thiên Chúa giáo. Tôi đảm bảo với họ rằng tôi không bao giờ muốn cải đạo, và thế là quá đủ. Tôi nghĩ sự chân thành của chúng ta là rất rõ ràng và họ có thể thấy chúng ta chỉ là một đôi trẻ đang yêu. Chúng ta có thực sự như thế hay không thì lại là chuyện hoàn toàn khác - tôi vẫn chưa chắc chắn lắm - nhưng ít nhất đó cũng là những gì chúng ta cho bà chủ nhà thấy. Chúng ta trả trước vài tháng tiền thuê nhà và họ thậm chí còn cho chúng ta ít bánh mì làm quà nữa.

Chúng ta đi thám thính thành phố một lúc, vì anh vẫn chưa thực sự sẵn sàng bắt tay vào công cuộc tìm việc. Tôi đã luôn chắp tay cầu nguyện trong suốt tuần đầu tiên, cầu mong chúng ta sẽ có tình cảm với thành phố này, và quan trọng hơn, cầu mong chúng ta sẽ tiếp tục có tình cảm với nhau. Mainz chỉ rộng độ một đến hai kilomet, không quá lớn, nhưng cũng phải có đến hai mươi nghìn dân. Một mật độ khá lớn vào thời đó. Có một khu dân cư trung tâm với một cái chợ ở góc Đông Bắc thành phố, và khi đến đó lần đầu tiên chúng ta đã lạc vào một lễ hội sôi động chưa từng thấy. Tòa thị chính đặt ở đó, cùng với một bệnh viện được dựng lên để tôn vinh các thánh thần, tôi đã từng gợi ý chuyển anh đến đó khi anh mới bị bỏng. Có một vườn cây ăn quả ở góc phía Tây, và cả một trại nuôi lợn do các tăng lữ dòng Antonite điều hành nữa. Vì lý do nào đó, họ tin rằng chăn lợn là sự bổ sung hoàn hảo cho việc chăm lo người ốm của mình.

Số lượng các hội thánh ở Mainz quả là đáng ngạc nhiên. Có các tu sĩ dòng Franciscan, dòng Augustinian. Dòng Teutonic, dòng Carthusian, dòng Magdalen, và... tôi không biết, nhiều đến nỗi không thể nhớ nổi. Nhưng tôi hứng thú nhất với dòng Beguine, những nữ tu thực thụ mà chẳng cần theo một hội thánh đặc thù nào. Cứ xem hoàn cảnh của tôi thì rõ, anh có thể thấy tôi cảm thấy có gì đó rất gần gũi với họ - họ không thực sự thuộc về Giáo hội nhưng cũng chẳng thuộc về giới trần tục. Họ dường như có mặt ở khắp nơi trên phố và điều đó làm tôi cảm thấy thoải mái hơn một chút. Dù đã rời bỏ Engelthal, tôi không hề có ý định rời bỏ Chúa.

Thánh đường của thánh Martin vượt trội hơn hẳn những nhà thờ khác trong thành phố. Nó được xây dựng dưới sự chỉ đạo của Tổng giám mục Willigis vào khoảng năm 1000, vì ông cần một nơi tôn nghiêm sau khi quyền được tấn phong tại Mainz của các vị vua Đức đã được củng cố. Nhưng ngay trước hôm chính thức khánh thành, nhà thờ thánh Martin bị cháy. Từ đó nó hình như trở nên khoái lửa, vì trên thực tế, đến khi chúng tôi tới thì nó đã bị lửa thiêu hai lần rồi. Tôi luôn nghĩ rằng chuyện ấy có gì đó rất hợp lý. Bị thiêu ba lần, hồi sinh ba lần.

Nhà thờ thánh Martin mang một vẻ đẹp diệu kỳ. Nó có những cánh cửa bằng đồng sáng loáng với một bức tượng đẹp mê hồn tạc cảnh Chúa bị đóng đinh, có cả những cánh cửa sổ trang trí họa tiết gân lá khiến cả gian giữa thánh đường ngập tràn những sắc màu kỳ ảo trong những ngày nắng rực rỡ. Bục chính cho dàn đồng ca được đặt sau cánh ngang còn bục phụ đặt ở hướng Đông. Mộ của một số vị Tổng giám mục như - Siegfreid von Epstein, tôi nghĩ thế, và Peter von Aspelt đặt tại đây. Trong thời gian chúng ta ở Mainz, nhà thờ còn được đặt thêm ngôi mộ của Tổng giám mục xứ Bucheck. Ta không thể nào bước chân vào nơi đây mà không cảm thấy sức nặng của lịch sử.

Sau khi chúng ta kết thúc cuộc hành trình khám phá thành phố, anh liền bắt tay vào tìm việc. Anh biết mình sẽ phải bắt đầu lại từ con số không, nhưng anh luôn tin chắc mình có thể xoay xở tất cả. Mỗi buổi sáng anh dậy thật sớm để đi đến những nhà thờ đang xây dựng, và mỗi ngày anh đều bị bọn họ từ chối. Rồi anh bắt đầu đi đến những ngôi nhà tư nhân đang xây dựng dở dang, nhưng những công trình này cũng từ chối anh nốt. Anh đã trở thành một con chó săn ngộ nghĩnh nổi tiếng quanh khu công trình xây dựng, nhưng dù anh có làm gì đi nữa, cũng chẳng ai chịu nhận anh cả.

Vấn đề đầu tiên là tại anh không chịu nói dối. Khi những người quản lý hỏi kinh nghiệm, anh luôn thật thà nói rằng mình đã không làm thợ xây một thời gian rồi. Khi họ hỏi anh làm gì trong khoảng thời gian đó. Anh trả lời rằng anh đi lính. Nếu bị vặn hỏi chính xác là kiểu lính nào, anh sẽ giữ im lặng. Nhưng lý do thật sự khiến anh bị từ chối, hết lần này đến lần khác, là vì những vết bỏng của anh. Chúng không nhiều như bây giờ đâu, nhưng cứ thử hình dung ra độ mê tín ở cái thời đó thì biết. Ai biết một người bị bỏng đã dính líu đến cái gì, đặc biệt là nếu anh ta không chịu nói rõ ra? Hẳn là anh ta đã làm một chuyện gì đó rất xấu xa, hiển nhiên rồi.