Mấy ngày nay, tính tình của Lâu đại soái luôn trong tình trạng không được tốt cho lắm. Vì thế, hạ nhân trong phủ đại soái ngay cả đi bộ cũng phải nhón chân lên mà đi, chỉ sợ lửa giận của đại soái lan đến khiến bọn họ khó giữ được cái mạng nhỏ.

Lâu phu nhân cầm tờ khai sính lễ đã được dự tính đầy đủ, vừa mới bước lên lầu đã thấy mấy vị sĩ quan dưới trướng Lâu đại soái lần lượt bước ra khỏi thư phòng, sắc mặt không được tốt lắm.

“Phu nhân.”

Mấy người này từ trước khi triều Thanh tan rã đã đi theo Lâu đại soái, liên tục chiến đấu ở các chiến trường nam bắc, lai lịch rất đơn giản, cũng đã làm việc dưới trướng đại soái nhiều năm, Lâu phu nhân mỗi lần nhìn thấy bọn họ đều khách khách khí khí.

So với chính phủ phía Nam, chính phủ phía Bắc có thể coi như khá ổn định nhưng cũng không được coi là vững chắc thống nhất.

Hai năm này, trong chính phủ phương Bắc chung quy lúc nào cũng có kẻ gièm pha bên tai tổng thống, nói Lâu đại soái nắm giữ trọng binh, ắt có tâm tư khác. Tổng thống Tư Mã nghe mấy lời như vậy nhiều cũng bắt đầu sinh nghi. Mặc dù bề ngoài so với trước kia thoạt nhìn cũng không có gì khác biệt, nhưng trên thực tế thì sao? Khất nợ quân phí hàng năm, mãi mới chịu phát xuống, lại còn đòi giảm giá.

Thế đạo hiện tại không yên ổn, Lâu đại soái vừa phải đề phòng người bên mình, lại còn phải đề phòng cả mấy lão người Tây ở phương Bắc. Binh lính dưới trướng thì còn phải ăn lương hưởng lộc, đâu thể nào bấm bụng mà đánh giặc? Không còn cách nào khác, Lâu đại soái chỉ có thể bỏ tiền của mình ra mà bù lại lỗ hổng.

May mà tổng thống Tư Mã suy cho cùng cũng còn được mấy phần kiêng nể, ngầm đồng ý cho Lâu đại soái giữ lại một phần thuế từ sáu tỉnh phía Bắc, Lâu đại soái lúc này mới tiếp tục ẩn nhẫn không bùng phát. Nếu thật sự làm ầm ĩ lên, phương Bắc nhất định rối loạn, vô duyên vô cớ lại nhường cho đám người phương Nam thừa cơ chui vào.

Lâu phu nhân nhìn theo mấy vị sĩ quan rời đi, gõ cửa, nghe phía bên kia cánh cửa truyền đến thanh âm của đại soái mới đẩy cửa bước vào.

“Đại soái.”

“Phu nhân, là bà sao?”

Lâu đại soái ngồi trên ghế bành làm từ gỗ tử đàn. Bên trong phòng một mảnh lộn xộn, chén trà vỡ nát, văn kiện nằm rải rác, cái bàn cũng bị lật tung, có thể thấy rõ cái đám người vừa mới ở trong căn phòng này chẳng có ai là không cáu kỉnh. Lâu phu nhân tiến lên nhặt lấy từng phần của văn kiện vừa bị xé thành hai nửa, đem ráp lại rồi quét mắt nhìn, nhất thời tức giận đến nhíu chặt chân mày.

“Hoang đường! Tổng thống đến tột cùng đang nghĩ cái gì vậy? Tại sao lại có thể tùy ý mặc cho lũ thủ hạ càn quấy như thế chứ!”

Lâu đại soái xoa mặt bằng hai bàn tay to như quạt hương bồ, thần tình mệt mỏi nói: “Tôi cũng càng ngày càng không hiểu ông ta đang nghĩ cái gì nữa. Ông ta nói cái gì mà kẻ không cùng chủng tộc với chúng ta, tất sẽ có dị tâm, kể cả đám người Thát Đát (*) bên Mông Cổ cũng không phải thứ tốt đẹp gì, ấy vậy mà lại đi dâng đất đai lên cho mấy lão già người Tây, vòng qua vòng lại ba dưa hai táo làm cái rắm gì!”

(*) Thát Ðát 韃靼: một bộ lạc ở phía bắc Trung Quốc, tức xứ Mông Cổ bây giờ.

Lâu phu nhân nhíu mày, kêu nha đầu phục dịch đến quét dọn sạch sẽ mấy mảnh sứ vỡ nát dưới đất, bản thân thì tự mình thu dọn văn kiện rơi trên mặt đất của Lâu đại soái, đợi đến khi cửa phòng đóng lại mới đi đến bên cạnh ông, nói: “Đại soái, việc này đã định rồi sao?”

“Định rồi, không thấy văn kiện đều đã phát xuống dưới sao? Đây là con dấu của tổng thống!” Lâu đại soái cởi quân trang ra, vẻ mặt đen sì: “Đây còn không phải là đang giúp mấy lão mũi lõ phương Tây sao! Năm Canh Tý (*1), tám nước liên kết với nhau cùng tiến vào Bắc Kinh. Bọn chúng nhân cơ hội phái quân đoàn hơn mười vạn người, muốn chiếm lấy mảnh đất phía Bắc này làm địa bàn. Cái con đường sắt kia đã được bọn chúng bắt đầu xây dựng từ mấy thập niên trước, Tâm cái gì mà An, có ai lại không rõ ràng? Vì mảnh ranh giới Đông Bắc này, chúng ta đã hi sinh biết bao nhiêu anh em? Kết quả ông anh tốt kia của tôi, thế nhưng lại… Đúng, phương Nam đúng là rất màu mỡ, ông ta muốn trước hết xuất thủ thu mảnh đất Giang Chiết (*2) về tay, nhưng ông ta làm vậy không sợ sẽ làm buốt tâm của anh em hay sao!”

(*1) Năm Canh Tý 1900, tướng quân Đức Seymour chỉ huy liên quân 8 nước tiến đánh Bắc Kinh.

(*2) Giang Chiết: vùng đất nằm ở phía Đông của Trung Quốc, hạ lưu sông Trường Giang, bao gồm hai tỉnh Giang Tô và Chiết Giang. Thời cổ đại, Giang Chiết theo nghĩa hẹp chỉ miền đất nằm giữa sông Trường Giang và sông Tiền Đường.

Lâu đại soái không nói nổi nữa, Lâu phu nhân cũng cắn chặt môi. Bà không phải là loại phụ nữ chỉ biết ru rú ở trong nhà, chuyện gì bên ngoài cũng không biết. Mông Cổ độc lập, đó là nói cho dễ nghe thôi, trên thực tế không phải là bị mấy lão già người Tây chiếm cứ hay sao?

Tại sao tổng thống Tư Mã lại đáp ứng? Cho dù đánh không thắng thì cũng không thể nhu nhược yếu đuối như vậy! Đến một người phụ nữ như bà còn biết đạo lí đó thì đám người trong chính phủ làm sao lại không hiểu cơ chứ? Nếu đám người phương Nam kia đi rêu rao chuyện này thì chẳng khác nào quét sạch uy nghiêm của chính phủ phía Bắc!

“Phương Nam? Đám người phương Nam kia cũng chẳng phải là thứ tốt đẹp gì!” Lâu đại soái hừ một tiếng, sờ sờ đỉnh đầu: “Trịnh đại pháo và tên mới nhậm chức Bộ trưởng Bộ Tài chính dưới quyền hắn kia ngầm kí hiệp ước với người Nhật Bản, hứa sẽ cho người Nhật Bản không ít lợi ích, cũng vì thế nên mới mượn được của người Nhật một khoản tiền. Ai lại không rõ, đây là loại chuyện năm Dần đã ăn lương năm Mão (*), tiền cứ quăng xuống, thế nhưng ngay cả một cái bọt nước con con cũng không bắn lên được. Mà tên Trịnh đại pháo chính là cái thùng rỗng kêu to, hiện tại chắc vẫn đang cười ngây ngô ấy chứ.”

(*) Năm Dần đã ăn lương năm Mão: theo thứ địa chi, năm Dần qua đi thì đến năm Mão. Năm Dần đã ăn lương năm Mão chỉ việc chưa đến kì lương đã vay ăn trước, thu không đủ chi.

Trong phòng yên tĩnh một lúc lâu. Lâu phu nhân cũng không biết nên khuyên Lâu đại soái như thế nào, dứt khoát lấy danh sách đồ sính lễ đã chuẩn bị trước ra, dù sao bà đến tìm đại soái cũng là vì việc này. Cách làm việc của tổng thống thật khiến cho người ta chết nghẹn, nhưng bọn họ cũng không thể không chấp nhận.

“Đại soái, tôi đã mời người tính qua, hai mươi sáu tháng này và mùng tám tháng sau đều là ngày tốt.”

Lâu đại soái cầm danh sách mà Lâu phu nhân đưa qua, quét mắt nhìn, dứt khoát quyết định, nói: “Vậy hai mươi sáu sang đưa sính lễ, mùng tám đón người về.”

Lâu phu nhân kinh ngạc mở to hai mắt: “Như vậy không phải là quá nhanh rồi sao?” Tuy rằng đã là thời dân quốc, nhưng một gia đình bề thế như bọn họ vẫn cần phải chú ý đến tam môi lục sính, tam thư lục lễ (*), sao có thể cứ đơn giản như vậy mà đưa người về nhà?

(*) —Tam môi:” chỉ những văn thư qua lại giữa sính lễ:

+ “Sính thư:” thư trao đổi lúc nhà trai ngỏ ý muốn cầu hôn và xin phép được qua nhà gái bàn tính mọi chuyện.

+ “Lễ thư:” trong thư nhà trai chọn ngày lành tháng tốt, nhờ người mai mối sang nhà gái hỏi ngày sinh tháng đẻ của cô gái mà họ muốn cưới.

+ “Nghênh thư:” thư dự kiến ngày giờ rước dâu.

— “Lục sính:” là 6 lễ nhà trai phải lo toàn vẹn khi họ nhà gái đã chấp thuận kết tình thông gia:

+ Lễ Nạp Thái (Dạm ngõ sẽ kèm theo lá thư thứ nhất)

+ Lễ Vấn Danh kèm theo lá thư thứ hai

+ Lễ Nạp Cát

+ Lễ Nạp Tệ

+ Lễ Thỉnh Kỳ (kèm theo lá thư thứ ba)

+ Lễ Nghênh Thân (Vu Quy)

Lâu đại soái lại nói: “Mấy ngày nay toàn chuyện không đâu, khó lắm mới có được chuyện vui như thế này, để cho mọi người vui vui vẻ vẻ một chút cũng tốt mà.” Nói xong, ông giật ngăn kéo, lấy ra một khẩu súng lục Browning: “Con trai của tôi không phải đã đưa cho con dâu một khẩu súng sao? Tôi là cha chồng cũng không thể keo kiệt, hiện tại thêm cái này vào trong đống sính lễ, vừa vặn hợp thành một đôi đi.”

Nói đến một đôi, Lâu phu nhân liền nhớ tới trước đây Lâu đại soái cũng đưa cho bà một thanh chủy thủ, sau khi kết hôn mới biết đó là một đôi uyên ương chủy, Lâu đại soái đưa cho bà thanh nhỏ, còn thanh to được ông giữ bên mình.

“Già mà không nên nết!”

Lâu phu nhân mắng Lâu đại soái một tiếng. Mấy năm trước, Lâu đại soái vì muốn có con trai mà cưới vào cửa trái một người phải một người. Hai năm nay, Lâu đại soái đã lớn tuổi, băn khoăn phiền lòng xuất hiện nhiều hơn, tâm tư tuyết nguyệt phong hoa gì đó cũng vì thế mà dần dần phai nhạt, tình cảm của hai vợ chồng trái lại càng ngày càng mặn nồng.

“Tôi chưa từng nghe nhà ai lại đi lấy súng làm sính lễ cả.” Lâu phu nhân cả giận mắng: “Không phải là quá hồ đồ rồi sao?”

“Này đã tính là cái gì?” Lâu đại soái nhớ tới chuyện con trai cuối cùng cũng cưới vợ, tuy vợ nó cưới về là nam nhưng cũng giúp ông bớt đi một khối tâm bệnh, mở miệng nói: “Theo tôi đừng phí phạm thời gian vào cái chuyện đó làm gì, cứ để con trai chúng ta mang theo trung đoàn của nó trực tiếp đến Lý gia đón người về, như vậy không phải là xong chuyện rồi sao?”

Lâu phu nhân thật sự có chút tức giận: “Đại soái, ông nghĩ Tiêu nhi là loại người nào? Thổ phỉ xưng vương trên núi sao?”

Lâu đại soái hắc hắc cười: “Cha của nó năm đó thiếu chút nữa đã đi chiếm núi làm vương rồi, thằng nhóc vương bát đản này nếu có thể đoạt về một áp trại phu nhân thì cũng coi như con nối nghiệp cha nha.”

Lâu phu nhân bị sự vô lại của Lâu đại soái làm cho hết cách, vung tay đánh xuống nhưng lại bị Lâu đại soái ôm lấy thắt lưng, giữ chặt không buông, cuối cùng cũng đành đổi sang bộ dạng vui cười.

Lý Cẩn Ngôn còn chưa biết bản thân mình suýt nữa bị Lâu thiếu soái đoạt lấy như một áp trại phu nhân. Hai ngày nay hắn bận rộn gặp chưởng quầy của xưởng nhuộm và tiệm vải, sau đó mới đến lượt tiệm trang sức, tiệm trà và tiệm cầm đồ. Người trong Lý phủ lắm miệng, nhiều người vụng trộm bàn tán rằng tam thiếu gia làm như vậy chính là ném dưa hấu nhặt hạt vừng. Tiệm vải hằng năm đều làm ăn thua lỗ, xưởng nhuộm cũng vất vả mà không đi đến đâu, chỉ có tiệm cầm đồ được lão thái thái tặng cho và tiệm trang sức mới là con gà đẻ trứng vàng, tam thiếu gia vì sao vẫn cứ khăng khăng cố chấp với mấy cái tiệm quanh năm làm ăn thua lỗ kia như vậy chứ?

Trái lại lần này Lý lão thái gia lại nhìn Lý Cẩn Ngôn với cặp mắt khác xưa. Làm người không thể mất đi cái gốc, mà khởi nghiệp của Lý gia là buôn bán tơ tằm, tiệm vải là gốc rễ của Lý gia. Sau khi mở cửa thông thương, vải dệt bằng máy móc dần dần thay thế, việc làm ăn càng ngày càng không tốt, Khánh Long kinh doanh mấy năm dù cũng có chút khởi sắc nhưng đến khi giao vào trong tay Khánh Xương thì lại không thể gượng dậy nổi. Nếu như Cẩn Ngôn có thể một lần nữa vực dậy tiệm vải và xưởng nhuộm, lão thái gia sẽ vui vẻ vô cùng.

Lý lão thái gia bất công, điều này không thể nghi ngờ, nhưng ông tự nhận mình bất công như vậy cũng là vì Lý gia. Nhìn vẻ mặt của lão thái gia mấy ngày nay, lão thái thái cũng chỉ cười lạnh một tiếng, phân phó đại a đầu bên người đưa đến cho chi thứ hai mấy quyển sách đã ố vàng mà mình tìm được.

Lý Cẩn Ngôn nhận được sổ sách, mở ra, phát hiện phía trên ghi chép thu chi chi tiết của tiệm vải và xưởng nhuộm mấy năm gần đây, so với sổ sách mà chưởng quầy đưa lên còn đầy đủ hơn nhiều, ngay cả quê quán của chưởng quầy, cả việc ông ta làm việc cho Lý gia bao nhiêu năm, trong nhà có bao nhiêu nhân khẩu, những người đó có làm việc tại Lý gia hay không, tất cả đều được ghi chép rành mạch rõ ràng.

Lý Cẩn Ngôn có chút kinh hãi. Lão thái thái không phải làm việc cho Cục tình báo đấy chứ? Lý lão thái gia có biết trong tay lão thái thái có thứ này hay không?

Có điều, Lý lão thái thái đưa tới vật này, quả thực đã cho Lý Cẩn Ngôn một đại ân.

Lý Cẩn Ngôn dùng thời gian vài ngày để đối chiếu lần lượt từng sổ sách của tiệm vải và xưởng nhuộm mà chưởng quầy đưa tới với sổ sách mà lão thái thái đã đưa cho cậu, phát hiện trên thực tế tiệm vải cũng không làm ăn thua lỗ như cậu đã nghĩ. Vải dệt thủ công so với vải dệt bằng máy móc quả thật đắt hơn một chút, nhưng những cửa tiệm lâu đời mà Lý gia đã buôn bán suốt mấy chục đến cả trăm năm, cũng có những khách hàng cố định, lại thêm danh hào thương nhân yêu nước của Lý gia, cho nên việc làm ăn vẫn còn có thể chấp nhận được. Nhị lão gia của Lý gia Lý Khánh Long lúc còn sống đã nghĩ ra biện pháp hạ thấp giá thành của vải dệt thủ công, tiệm vải vì thế mà có thêm được ít lợi nhuận, nhưng chỉ trị được ngọn không trị được gốc. Sau khi Lý Khánh Long chết, Lý Khánh Xương vừa tiếp nhận, việc làm ăn của tiệm vải liền lập tức chuyển biến đột ngột, thua lỗ hết năm này qua tháng khác. Việc làm ăn buôn bán trong tay Lý gia vẫn theo lề lối cũ mà tổ tiên truyền lại, quản lí và kinh doanh theo phương thức gia trưởng, cho dù không thua lỗ thì cũng rất khó có được sự phát triển lớn mạnh hơn. Lý Cẩn Ngôn tin tưởng, nếu cứ tiếp tục như này, không quá vài năm, ngay cả vốn ban đầu cũng sẽ hết sạch. Nhưng hắn mới vừa tiếp nhận, không thể cải cách quá mạnh mẽ, nếu bây giờ khiến cho một số người “được rời khỏi cương vị” thì nhất định sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn.

Lý Cẩn Ngôn khép lại sổ sách, đưa tay xoa xoa huyệt thái dương. Tuy đây là một miếng khoai lang nóng phỏng tay nhưng hắn lại muốn có nó. Phải nghĩ biện pháp để tiếp tục kinh doanh, hơn nữa còn phải kinh doanh thật tốt, chí ít cũng không thể để cho người ta nói Lý Khánh Long và hắn là hổ phụ sinh khuyển tử.

Trà trong chén đã lạnh, uống vào miệng là một vị đắng đắng chát chát. Tinh thần của Lý Cẩn Ngôn thế nhưng lại phấn chấn hẳn lên, cầm bút loạt xoạt viết xuống mặt giấy.

Khi bưng món canh bổ dưỡng đã đặc biệt dặn dò nhà bếp nấu nhừ bước vào phòng, thấy Lý Cẩn Ngôn đang múa bút thành văn, Chi Nhi liền nhẹ nhàng đi đến bên cạnh bàn, đặt khay xuống, mở nắp tô canh, múc ra một bát.

Lý Cẩn Ngôn hít hít mũi, ngẩng đầu, khoé miệng lộ ra nụ cười khổ: “Chi Nhi, có thể đừng đem canh cho tôi nữa được không? Còn bổ nữa, tôi sẽ bổ đến chảy máu mũi mất.”

Chi Nhi vội vàng xì ra một tiếng: “Thiếu gia, cậu nói bậy bạ gì đó. Canh là phu nhân dặn dò nhà bếp nấu, nếu cậu còn dám lén lút đổ đi, em sẽ đi mời phu nhân tới.”

Lý Cẩn Ngôn bất đắc dĩ đành phải đặt bút xuống, bưng bát, một hơi uống sạch. Cũng may bát canh không lớn, hương vị thuốc bắc trong canh bổ cũng không nồng nặc giống như lúc trước.

Chi Nhi không để ý đến ánh mắt ai oán của Lý Cẩn Ngôn. Vừa đưa cho hắn một bát, ló đầu nhìn thoáng qua chữ viết trên giấy của Lý Cẩn Ngôn, lại nhìn bút máy đặt trên bàn, Chi Nhi lấy làm kì lạ mà tấm tắc khen: “Thiếu gia, cậu tìm thấy cây bút của lão gia lúc nào mà em không biết vậy? Lúc trước phu nhân còn hỏi, nói rằng chữ viết của cậu bây giờ không giống với trước đây. Đây là bút mà người nước ngoài sử dụng sao? Chỉ là một cái cọc như vậy mà cũng có thể viết ra chữ sao?”

Lý Cẩn Ngôn đang ăn canh, nghe Chi nhi nói thì sặc một ngụm. Chi Nhi vội vàng vỗ vỗ lưng giúp cậu thuận khí. Lý Cẩn Ngôn khoát khoát tay, tỏ ý mình không sao cả. Chi Nhi vừa rồi cũng là thuận miệng hỏi, bị gián đoạn như vậy liền quên sạch mấy lời vừa nói.

Lý Cẩn Ngôn miết lòng bàn tay đang đổ mồ hôi lạnh một cái. May mà hắn tìm thấy cây bút máy này trong thư phòng, chuyện nét chữ vì thế có thể miễn cưỡng lừa gạt được, cũng may là nhị phu nhân tin tưởng hắn.

Thấy Lý Cẩn Ngôn uống hết canh, Chi Nhi vừa lòng rời khỏi thư phòng. Lý Cẩn Ngôn sờ sờ cái bụng thấy có chút trướng liền đứng lên đi vài bước, cảm giác không còn trướng nữa mới ngồi xuống, một lần nữa bắt đầu viết lên trang giấy.

Ngày hôm sau, toàn bộ chưởng quầy của xưởng nhuộm đều nhận được một mệnh lệnh có chút kì quái: thu gom toàn bộ thuốc nhuộm màu đỏ trên thị trường, nhất là thuốc nhuộm được nhập khẩu từ nước ngoài thì càng phải cố nghĩ cách mà mua.

Nhóm chưởng quầy ban đầu cảm thấy khó hiểu, về sau lại vỗ đùi, a ha, thì ra là như vậy!

“Không phải tam thiếu gia sắp thành hôn với Lâu thiếu soái sao? Nghe nói phủ đại soái đang chuẩn bị sính lễ. Lúc này tam thiếu gia tìm thuốc nhuộm màu đỏ, chẳng lẽ là muốn nhuộm ít vải có màu sắc tươi sáng để chuẩn bị cho hôn lễ?

Cái này nghe vào quả thực có chút gượng ép, nhưng suy cho cùng cũng chẳng có lời giải thích nào hợp lí hơn. Vì thế, phàm là xưởng nhuộm và tiệm vải của Lý gia nằm trong sáu tỉnh miền Bắc đều bắt đầu tiến hành thực hiện. Tiệm vải của Lý gia tuy không bán vải dệt bằng máy nhưng không nói không với thuốc nhuộm của người nước ngoài. Thành Quan Bắc là một trong những thành thị buôn bán phồn hoa nhất sáu tỉnh Bắc kì, trong thành có không ít cửa hàng của người nước ngoài, Lý gia vừa phát tán tin tức, ngay lập tức có không ít người môi giới của cửa hàng nước ngoài chủ động tìm tới cửa. Nhóm chưởng quầy úy gia suy cho cùng cũng là mấy tay già đời trong việc làm ăn buôn bán, mặc dù Lý Cẩn Ngôn chỉ yêu cầu bọn họ tìm thuốc nhuộm màu đỏ nhưng bọn họ cũng không chỉ chằm chằm tìm một loại, tránh cho những người môi giới của cửa hàng nước ngoài cố tình nâng giá. Không ngờ rằng hành động này lại che giấu cho Lý Cẩn Ngôn, thẳng đến tận khi Sulfonamide (*) ra mắt, người ta vẫn còn mơ hồ không hiểu, loại thuốc này vậy mà lại do một loại thuốc nhuộm màu đỏ cấu thành.

(*) Sulfonamide: Trước khi Penicilline được sản xuất, loại thuốc này được dùng để điều trị nhiễm trùng.