Sáng hôm đó, thư viện gần như náo loạn, cả tòa nhà Jefferson rung động với cái tin Norman Janklow bị ám hại chỉ sau cái chết của DeHaven không lâu. Khi Caleb đến nơi làm việc thì cảnh sát và FBI đang chất vấn mọi người. Caleb cố gắng trả lời thật ngắn gọn, thậm chí ông cảm thấy căng thẳng khi hai gã thám tử đưa lại chìa khóa vào nhà DeHaven lần trước cũng có mặt ở đó. Hai gã có vẻ giám sát ông thật chặt. Liệu có ai thấy ông mò vào nhà bà Jewell? Vả lại còn chuyện Reuben đã được thả ra ngay lúc này. Liệu họ có nghi ngờ luôn cả anh ấy? Cũng không biết được.

Kế đến, ông nghĩ về quyển sách của Beadle mà Annabelle đã lấy trộm. Ông mang nó theo ngày hôm nay, dù việc đó không quá khó nhưng Caleb cảm thấy căng thẳng. Bảo vệ không kiểm tra túi xách mang vào, chỉ kiểm tra túi mang ra, và chỉ có khách viếng thăm mới phải qua hệ thống tia X-quang. Nhưng sự xuất hiện của đám cảnh sát làm ông thấy e ngại, ông thở phào nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng hoàn thành xong việc chất vấn và cất quyển sách tại bàn làm việc của mình.

Khi một người bảo quản sách xuất hiện cùng vài quyển sách đã được sữa chữa để mang vào phòng sách, ông xung phong làm điều đó vì đây là cơ hội tuyệt vời giúp ông đặt quyển Beadle lên giá sách. Ông gộp tất cả sách lại thành một chồng, rồi đi vào phòng sách. Ông cất những quyển được bảo quản trước rồi sau đó đến khu Sách Quý Hiếm nơi cất giữ quyển của Beadle. Tuy vậy, khi ông nhét quyển sách lên kệ, ông để ý thấy vết băng dính Annabelle dùng để quấn quanh chân đã làm rách một góc nhỏ bìa khi cô ta tháo ra.

“Hay đấy, mày cứ nghĩ cô ta sẽ cẩn thận hơn, cho dù cô ta trộm quyển sách trước tiên”, ông lẩm bẩm. Rốt cuộc rồi ông cũng phải mang quyển Beadle vào khu bảo quản. Sau đó ông rời khỏi phòng đọc, điền vào mẫu cần thiết và nhập dữ liệu yêu cầu bảo quản sách vào máy tính rồi đi theo đường hầm đến tòa nhà Madison, không dám nhìn lại căn phòng nơi có những xilanh khí đã giết hại Jonathan DeHaven. Khi đến nơi, ông đưa quyển sách cho Rachel Jeffries, một nhân viên bảo quản tận tâm và nghiêm túc.

Sau khi nói vài câu với cô ta về những tin tức nóng hổi vừa xảy ra, ông quay lại phòng đọc và ngồi xuống bàn. Ông nhìn khung cảnh xung quanh, rộng rãi, sạch đẹp, nơi thích hợp để suy tư, và bây giờ thật vắng vẻ vì đã có hai vụ án mạng xảy ra.

Ông giật nảy mình khi cửa phòng bật mở và Kevin Philips bước vào, vẻ hốc hác, mệt mỏi. Hai người nói chuyện một lát với nhau rồi Philips kể cho Caleb nghe về ý định xin từ chức của mình, “Tôi cảm thấy căng thẳng quá, tôi đã mất mười pound1 từ hồi Jonathan chết, rồi sau đó xảy ra vụ giết hại hàng xóm của ông ta, và giờ là cái chết của Janklow nữa, chắc chắn cảnh sát phải nghi ngờ rồi”.

“Có lẽ họ đúng”.

“Anh nghĩ chuyện gì đang xảy ra thế này, Caleb? Ý tôi, đây là thư viện, những chuyện đại loại như vậy không nên xảy ra ở đây tí nào”.

“Tôi ước mình biết để mà nói cho anh nghe”.

Sau đó Caleb gọi cho Milton, ông ta lúc nào cũng bám chặt vào các phương tiện thông tin đại chúng. Ông ta kể lại rằng vẫn còn nhiều nghi vấn về cái chết của Janklow, nhưng không có tường thuật gì thêm. Căn nhà mà Jewell English đang ở do bà ta thuê hai năm trước, còn mối liên hệ giữa họ chỉ là thông qua những lần đến phòng đọc sách mà thôi. Bà English cũng đang mất tích, chẳng tìm ra được thông tin gì về lý lịch của bà ta cả. Rõ ràng bà ta không đơn giản tí nào, và cả Janklow cũng vậy.

Đúng là đáng ngạc nhiên ghê, Caleb nghĩ bụng khi ông gác máy điện thoại. Mỗi lần cửa phòng đọc mở, Caleb lại cứng người. Căn phòng, trước đó là một nơi yên bình, tĩnh lặng thì giờ giống như cơn ác mộng đang hoành hành. Ông chỉ muốn ra khỏi chốn nghẹt thở này. Nghẹt thở! Lạy Chúa, đó là một từ không may mắn. Ông vẫn phải ở lại để làm đúng trách nhiệm của ông, cho dù ông có là người yếu ớt và thiếu cương quyết trong mọi vấn đề cuộc sống, nhưng ông lại đam mê công việc. Tuy vậy, hôm nay trong phòng đọc không có ai cả. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên, vì vậy, cũng tạo cho Caleb có cơ hội hoàn thành vài nhiệm vụ. Ông cảm thấy đói bụng và quyết định đi ra ngoài ăn một cái bánh xăng-đuých.

“Anh Foxworth phải không ạ?”, Caleb lên tiếng chào khi thấy người đàn ông cao lớn, điển trai đi về phía ông bên ngoài tòa nhà Jefferson.

Seagraves gật đầu, mỉm cười. “Vui lòng gọi tôi là Bill. Tôi đến gặp anh ngày hôm nay đấy”. Thật ra Seagraves đã đợi Caleb bước ra ngoài.

“Tôi tính đi mua một cái bánh xăng-đuých, anh cứ vào phòng đọc, thế nào cũng có người tiếp đón anh thôi”.

“Thật tình tôi tự hỏi liệu anh có muốn xem qua mấy quyển sách của tôi không?”

“Sao cơ ạ?”

“Bộ sưu tập của tôi, hiện trong văn phòng, cách đây vài dãy nhà. Tôi là nhà vận động hành lang, chuyên ngành công nghiệp dầu khí. Do tính chất công việc, tôi đặt văn phòng tại điện Capitol này”.

“Tất nhiên rồi”.

“Anh có thời gian rảnh chứ? Tôi cũng có vài câu muốn hỏi anh”.

“Sẵn sàng thôi, nhưng chắc tôi phải ghé ngang mua đồ ăn vì tôi vẫn chưa ăn trưa”.

“Được rồi, nhân tiện tôi cũng có thể kể cho anh nghe về việc kiểm định sách trong năm ngày của hai tác giả Ann Radcliffe và Henry Fielding”.

“Hay quá, sách nào vậy?”

“Quyển Tình Sử Rừng Già của nhà văn Radcliffe và quyển Những cuộc phiêu lưu của Joseph Andrews”.

“Những tác phẩm hay đấy, Bill ạ. Radcliffe là bậc thầy về huyền thoại Gô-tích. Nhiều người cứ cho rằng những tác giả viết truyện kinh dị dễ cáu gắt ư, có lẽ vì họ chưa đọc truyện của Radcliffe đấy. Truyện của bà ta vẫn có thể làm anh sợ xanh mặt. Quyển Joseph Andrews là một tiểu thuyết nhại lại tác phẩm Pamela của nhà văn Richardson. Fielding đã mỉa mai rằng ông vẫn luôn là một nhà thơ thực thụ, cho dù danh tiếng nổi như cồn trong các tác phẩm văn chương và kịch nghệ. Người ta kể lại rằng vở kịch Tom - ngón tay cái là một tác phẩm nổi tiếng của ông, nó đã giúp cho nhà văn Jonathan Swift cười lần thứ hai trong đời đấy”. Caleb bật cười rồi tiếp, “Tôi chẳng biết lần thứ nhất thế nào, nhưng cũng có vài giả thuyết”.

“Hay quá”, Seagraves nhận xét trong lúc họ đi dọc trên đường. “Vấn đề là tay đầu nậu sách tôi gặp ở thành phố Philadelphia ca cẩm đây là quyển xuất bản đầu tiên, giấy tờ cũng có ghi rõ ràng và hướng dẫn cụ thể nhưng tôi vẫn cần ý kiến của chuyên gia thêm. Mấy quyển này đâu có rẻ gì”.

“Tôi hiểu mà, tôi sẽ xem xét chúng và nếu tôi cũng không có câu trả lời tôi có thể giới thiệu cho anh vài người khác có chuyên môn hơn”.

“Anh Shaw này, tôi thật biết ơn anh về điều đó”.

“Cứ gọi tôi là Caleb”.

Caleb dừng lại mua một bánh xăng-đuých ở cửa hàng bán thức ăn nhanh trên đại lộ Độc lập cách tòa nhà Madison một dãy nhà, rồi cùng Seagraves hướng về khu văn phòng của hắn. Nó nằm ở khu sầm uất, nhưng họ phải đi từ phía hẻm sau. “Họ đang làm lại dãy hành lang, nhưng chúng ta có thể đi thang máy từ tầng hầm lên văn phòng của tôi”, Seagraves nói.

Trong lúc đi, Seagraves liến thoắng về kế hoạch mua sách cũ và tạo ra một bộ sưu tập cho riêng mình.

“Cần phải có thời gian”, Caleb trấn an. “Tôi có cổ phần trong một hiệu sách hiếm tại khu phố cổ Alexandria, bang Virginia. Nếu rảnh, mời anh đến nhé”.

“Tôi sẽ đến”.

Seagraves dừng lại trước một cánh cửa tại đường hẻm, mở khóa và mời Caleb bước vào trong. Hắn đóng sập cửa lại và lên tiếng, “Thang máy ngay tại góc kia”.

“Vâng. Tôi nghĩ...”

Caleb chẳng kịp nói lên điều ông đang suy nghĩ, vì ông đã gục xuống sàn, bất tỉnh. Seagraves đứng phía sau ông, tay cầm dùi cui mà hắn đã dấu sau cánh cửa, hắn không nói dối, đúng là hành lang của tòa nhà đang được tu sửa, và tòa nhà thật ra đã được đóng cửa để chuẩn bị cho việc xây dựng trong một tuần nữa.

Seagraves trói gô Caleb rồi khiêng ông để vào thùng đang mở nắp phía góc phòng trước khi tháo chiếc nhẫn đeo ở ngón giữa của Caleb. Hắn đóng sập thùng lại rồi gọi điện thoại. Năm phút sau, một chiếc xe tải trờ đến, cùng với sự giúp đỡ của tên tài xế, cả hai nhấc bổng thùng để vào thân xe. Chúng leo lên xe và chạy đi.