Pháp sư Chơn Huệ rước Bửu về chùa cũng có nguyên nhơn dựa vào con mộnggiữa canh ba của sư. Trong cơn chiêm bao đó, sự thấy mình đi sâu vào xóm Bánh Phồng giữa vùng lau sậy bát ngát, đến một ngôi mộ đắp đất nằm giữa hai mương nước loáng thoáng những cánh béo tai lá tròn tròn. Một ngườiđàn bà mặc áo bà ba trắng, quần vài xiêm đen ngồi bên mộ dưới cây phùdung trổ bôn trắng. Nười đàn bà bảo:

- Bạch thầy, chắc thầy chưa quên tui. Tui là cô Hai Kim quê ở xómBánh Phồng nầy. Bởi tui bạc phước, mới lớn đã bị anh của thầy là ôngBang biện Hưỡn cưỡng bức cho tới mang thai. Sau đó bà Bang biện cho tuivề ở chung với bà ngoài Cầu Đào. Thời gian đó thầy đi vân du miệt Namnon Bảy núi, tầm sư học đạo nên thầy chưa gặp mặt tui lần nào. Trong bốn năm trời, tui bị bà lớn đối xử hà khắc thái thậm, chịu chửa mắng, đánhđập như cơm bửa. Sau đó, ông Bang biện còn mua sở ruộng mười mẫu ở HòaMỹ. tui được bà lớn cho phép đến đó cất nhà trông coi trâu lúa cùng cáctá thổ tá điền. Ai dè năm năm sau tui bị chứng huyết trắng. Không đượcthuốc thang điều trị châu đáo nên tôi chịu ốm o mòn mỏi nhắm mắt lìađời, bỏ thằng con dại cút côi cho bà má lớn nó hành hạ. Ngày mai thầytới nhà ông Bang biện xin cho con trai tui theo hầu thầy, bởi giữa thầyvà nó có mối túc duyên trải qua bốn kiếp. Cả hai nếu không làm cha conthì cũng làm chú cháu, thầy trò. Thầy an lòng, đừng sợ bà Bang biện tứchối vì đã tới lúc giữa bà Bang biện và con trai tui trả hết ác nghiệpoan oan tương báo, con tui sẽ theo thầy thoát vòng tục lụy.

Đúng như lời cô Hai Kim dặn, pháp sư đến nhà anh chị mình gặp lúcBửu đang lên cơn bịnh mê man và đang lúc bà Bang biện Hưỡn muốn trút của nợ cho sư.

Tối hôm đó, pháp sư Chơn Huệ tụng cho cháu chầu kinh Dược sư rồi mới ngồi tọa thiền. Sáng hôm sau, Bửu đã tỉnh táo, đòi ăn cháo. Pháp sưChơn Huệ mừng lắm, sai chú tiểu Như Pháp nấu cháo thiệt lỏng trộn vớisữa hộp cho cháu ăn.

Xong xuôi, đợi khi Bửu ngủ, pháp sư Chơn Huệ cuốc bộ vào nhà ông Năm Tảo. Ông đang phơi khô cá tra, khô cá sặt trong sân nắng. Bên thềm nhà, con mèo mun nằm sưởi nắng, cặp mắt trong veo màu ve chai chong về phíasư.

Thấy có khách đến viếng, mà lại là một bực cao tăng, ông Năm Tảođứng dậy chắp tay xá xá, miệng niệm hồng danh "Nam mô a di đà Phật" rồimời pháp sư vào nhà. Bà Năm Tảo từ bếp lên, rối rít:

- Bạch thầy tới chơi. Chiều nay xin thầy ở đây dùng bữa cơm chay với tụi con.

Phÿp sư Chơn Huệ bảo:

- Mô Phật, mỗi ngày tôi chỉ dùng một bữa ngọ traii mà thôi. Hôm naytui đến dùng trà với ông Nhăm và có việc cần tham vấn cùng ông đây.

Ông Năm Tảo mời pháp sư ngồi ở ghế trường kỳ, Bà Năm niêm nở:

- Trá thì lúc nào nhà cũng có, nhưng hôm qua có một bà ở miết An Hữu lặn lội tới đây biếu cho tía sắp nhỏ bốn lượng trà ngon gọi là thưởngtái đoán bịnh, trị bịnh của ổng.

Bà quày quả xuống bếp sai cô Hai súc bình và chén, cô Ba nhúm lữanấu nước, mà phải là nước mưa trong chiếc mái đầm tích trữ từ hối nămngoái.

Trong khi chờ trà, pháp sư hỏi ông Năm Tảo:

- Ông nhắm coi thằng Bửu có thể hết bịnh không?

Ông Năm trầm ngâm:

- Thưa thầy, tui chẳng biết có phải phước chủ may thầy hay không!Hồi sáng hôm qua, tui bắt mạch cậu Bửu thì thấy mạch đi sắc tế, tướngchết hiện ra. Vậy mà sáng nay thì mạch lại đi vi sác, có cơ may sốngđược. Nhưng cậu dứt được bịnh lao hay không thì tui không dám nói trước.

Khi bà Năm bưng khay trà lên, ông Năm Tảo lộ vẻ suy nghĩ lung lắm. Ông e dè nói:

- Căn bịnh của cậu Bửu thì lạ lắm thầy ôi! Tui nói ra đây không phải là muốn gieo hoang mang cho thầy, chớ bịnh của cậu lúc quỉ lúc ma, lúcchường lúc ẩn, tui không biết sao mà đoán! Lúc mới vô buồng cẩu, tuithấy quanh giường cẩu có nhiều kẻ mặt xanh nanh bạc, có cả một mụ giàmặt đầy vết rỗ vết thẹo gớm ghiếc. Tụi nó chập chờn ẩn hiện. Khi thấytui bước vô thì biến mất. Lúc đó cậu Bửu nằm mê man. Tui bắt mạch thìthấy trong sáu bộ mạch của cẩu, không mạch nào phát hiện. Tui biết cẩubị ma dựa nên đọc kinh trừ tà. Chừng giáp bã trầu, mạch bắt đầu máy động ở quan bộ nhưng không hiện rõ phù, trầm, trì, sác. Tui bèn đọc tiếp 105 biến Tiêu tai cát tường và 105 biến Phật mẫu chuẩn đề thần chú. Đó rồimạch lao sái hiện ra, nhưng đó là mạch của kẻ sắp chết. Vậy mà từ khi về chùa, mạch cẩu lại thay đổi. Thuốc thang do tui hốt đâu có hể hiệunghiệm mau như vậy được! Vậy xin thầy gắng chờ năm mười bữa hoặc nửatháng coi bịnh cẩu sẽ xoay chiều đổi hướng tốt đẹp hơn chăng!

Pháp sư Chơn Huệ nói:

- Những điều ông thấy, tui không lấy làm lạ đâu! Những bóng quỉ mặtxanh nang bạc cùng mụ quỉ mẫu mặt thẹo kia chỉ là những vong hồn baokiếp trước về báo oán cháu tui. Giớ đây, cháu tui đực vong linh má nóphù trợ, lũ ma quỉ kia khuấy phá lần chót cho sạch oan nghiệp để sau nầy nó hưởng phước quả tròn trận. Tui tin rằng khi nó theo tui lên tu trênnúi Cô Tô thì nó sẽ dứt bịnh.

Bà Năm Tảo ngó về phía bếp nói vọng xuống:

- Tụi bây mau đem bánh trái ra đây. Tụi bây làm gì lúc thúc ở trỏng mà không ra chào hầy?

Hai cô Túy từ bếp bưng mâm mận, xoài, đu đủ lẫn khóm xét miếng, mộtdĩa bánh phục linh, ba chén sương sa hột lựu. Hai cô chấp tay cúi chàopháp sư rồi xuống bếp nấu thêm nước châm trà.

Bà Năm Tảo lấy ba lượng bột huỳnh tinh, một lượng đường phèn, trao cho sư, ân cần bảo:

- Gọi là chút phẩm vật cho cậu Bửu. Thầy dặn chú Như Pháp khuấy bộttrong hoặc bột trứng cá cho cẩu ăn. Khuấy bọt trứng cá thì đẹp mắt nhưng ăn lâu tiêu hơn khuấy trong. Bột huỳnh tinh Mỹ Khê xứ Quảng phải khuấyđường cát trắng, đừng khuấy với đường thẻ hoặc đường cát mỡ gà mà kémmàu gương vẻ ngọc.

Ông Năm Tảo trách vợ:

- Má hai con Túy lôi thôi quá! Sao không tặng thầy một ít quế Trà Bồng xứ Quảng để thầy mài ra uống lỡ khi đau bụng.

Bà Năm Tảo liền vào trong mở thùng kẽm lấy quế ở ngăn trên. Thùngkẽm có hai ngăn, ngăn nầy cách ngăn dưới bằng một phên tre, bên dưới đổđầy mật ong. Chỉ có hương mật ong mới có thể xua tan ẩm mốc và giữ quếlâu dài.

Trước khi từ giã ra về, pháp sư Chơn Huệ tặng ông bà Năm Tảo bốn đạo bùa trừ tà chép Lăng Nghiệm thần chú bằng chữ Bắc Phạn trên giấy mỏng.Giấy chép được xếp thành một miếng hình vuông, bề dài một tấc, bề ngangba phân, bề dày một phân. Cô Hai Túy Ngọc đã may sẵn bốn đãy gấm để đựng bùa, mỗi người trong nhà giữ một đãy. Ông Năm Tảo dặn:

- Tuy là mỗi người giữ một đạo thần chú, nhưng mẹ nó và các conkhông nên cất giữ trong chốn buồng the là chỗ uế trược. Nên đặt bốn túigấm ở chỗ bàn Phật thì hơn.

Nhìn bóng nắng rút khỏi nửa giàn mướp trên vạt đất giáp sân trước, bà Năm giục hai con:

- Mau nấu cơm đi. Ba bây ăn cơm sớm để còn đi Cái Sơn Lớn cho kịp con nước.

Cô Hai xách nồi đồng đi đong gạo. Nhà nầy phải nấu ba lon một nhúm,cơm ăn không hết thì sẽ rang váo lúc sáng mai cho ông Năm Tảo ăn chắcbụng. Cô Ba xách rổ ra vườn hái một trái mướp hương, một mớ rau bồ ngót, rau giên gai, đọt mồng tơi để nấu canh tép bạc giã nhuyễn. Cô cũng đãướp sẵn mớ cá chạch với tiêu, tỏi, nước mắm trong cái tộ sành thô nặng.Ông Năm rất ưa món cá chạch kho nghệ, mà phải do tay cô Ba kho ông mớibằng bụng. Kho loại cá nầy là phải giữ nguyên mùi sông rạch thấm vào sớcá. Đó là mùi bùn, mùi cỏ năng, cỏ lác, cỏ song chằng. Mà ai nói cáchạch ăn độc? Xôi ơi, cá chạch ăn bọt nước để sống thì độc sao được! Màthịt cá dẫu có độc, cô chỉ dằn vào tộ cá một chút đọt gừng xát chỉ làbao nhiêu độc khí cũng bay ráo trọi, bao nhiêu độc chất cũng bị hóa giải tuốt luốt!

Đang lúc hai chị em làm bếp thì bên cửa hông vườn có tiếng gọi giựt ngược:

- Con Hai, con Ba đâu mở cổng ráo cho chị Út bây qua ngoạn cảnh một chút coi nào!

Cô Hai Túy Ngọc nhìn qua cô Ba Túy Nguyệt cười chúm chím. Rồi! Tạihọa đùng đùng tới rồi! Đúng như bà Năm Tảo hay phàn nàn: Nhắc vàng nhắcbạc thì khó thấy, chớ nhắc cô gái già Út Ngan kia là có ngay! Út Nganchê cái tên Ngan không êm tai, không văn huê đài các nên tự xưng là ÚtNgọc An. Út Ngọc An không xấu. Cái hại của cô ta là tưởng mình đẹp nênõng ẹo quá trớn, làm dáng làm điệu thả giàn. Cô ta lại có cái lưỡi đôichiều thiệt nguy hiểm. Hễ gặp hai đàng thù nghịch nhau, cô đâm bị thócchọc bị gạo, khen đàng nầy chê đàng kia, dùng lời khích bác cho mối thùhai bên càng thêm sâu đậm. Tuy nhiên, bà Năm Tảo lẫn hai chị em cô Túyđều thích cách nói chuyện pha lửng của cô ta dù họ công kích cái miệngđộc địa và cái lưỡi đêu xảo của cô. Thực tâm, cô Út Ngọc An không hiểmđộc, cô ta nói xấu chỉ vỉ nhu cầu mua vui một cách bịnh hoạn mà thôi.

Cô Hai cời đống than đỏ rực trong chiếc cà ràng đỏ để có cơm cháydưới đáy nồi. Xong xả, cô qua hông vườn, mở cửa cho cô Út Ngọc An bướcvào. Cô thấy cặp mắt cô Hai ướt sũng nước mắt vì khói bếp, liền cấtgiọng eo éo:

Hai tay nưng vạt áo dài,

Chặm lên con mắt, chặm hoài không khô.

Cô Hai Túy Ngọc hỏi:

- Chị nấu cơm xong chưa mà coi bộ rảnh rang quá vậy?

Cô Út liếc xéo cô bạn hàng xóm:

- Ông già tao với anh Ba đi ăn giỗ ở Lộc Hòa. Vợ chồng anh Hai thixuống Cá Mau làm mắm từ hai tháng nay. Nhà chỉ còn hai má con. Hôm quatao mua được mớ cá mục chở từ biển Ba Động về kho chan bún. Nấu cơm làmchi cho mắc công!

Hôm nay Út Ngọc An mặc quần cẩm quất trắng, áo bà ba bằng hàngbombay màu cà phê sữa. Về nữ trang, cô đeo chiếc cẩm thạch huyết ở taymặt, cẩm thạch xanh hoa lý ở tay trái. Tai cô đeo bông chạm tỉ mỉ, ngóntay đeo chiếc cà rá nhận cẩm thạch hột vuông.

Út Ngọc An nói:

- Cha chả, hôm nay trời nổi gió, nắng thì trong mà gió thì lồnglộng. Thời tiết kỳ cục! Tụi mình vô bếp đi. Hễ thời tiết tráo trở thìgió máy độc địa lắm, bịnh như chơi!

Cô Hai thừa biết cô Út muốn vô bếp để dòm hành coi chiều nay cả nhàăn cơm với những món gì. Tuy ghét cái tật tò mò tọc mạch của cô Út nhưng cô vẫn đưa cô Út vào bếp. Cô gái già đảo mắt qua những nồi, những soong thức ăn đang nấu trên mẻ than đỏ rực, phê bình:

- Cá chạch xứ nầy tuy mập nhưng không ngon bằng cá chạch ở sông VàmCỏ. Năm ngoái tao đi thăm dì Tám tao ở kinh Bà Bèo ăn cá chạch đã đời.Kinh Bà Bèo chảy qua quận Cai Lậy cũng là nhánh của sông Vàm Cỏ Tây đóđa! À, sao tụi bây kho cá đối mà không chiên? Con nầy quê quá. Nhà taothích ăn cá nục, cá thu kho hơn.

Cô Hai nhìn em. Cô Ba Túy Nguyệt có vẻ bực mình, sắc mặt lợt lạt, nguýt cô Út một cái bén ngót. Cô Hai êm ái giải thích:

- Cá thu, cá nục lâu lâu nới có bán ở chợ cá tỉnh mình. Bởi vì xứnầy xa biển, phương tiện giao thông từ biển Ba Động tới tỉnh mình chưađược dồi dào, cho nên muốn có cá biển kho nấu thiệt là khó. Mấy ai đượcnhư nhà chị!

Cô Út Ngọc An hãnh diện:

- Vậy mà nhà tao có cá biển ăn hoài hoài. Đời nào tao thèm ăn chả cá thác lác chiên. Tao làm chả bằng cá thu.

Cô Ba cự nự:

- Sao chị dại quá vậy? Thịt cá thác lác dẻo hơn, ngọt béo thần sầu.Cá thu mà đem làm chả thì thua cá thác lác một trăm cây số. Đành rằng cá thác lác nhiều xương, nhưng nếu mình khéo lóc thịt đem quết chả thì sẽngon gấp mười lần thịt lý ngư trong ao Dao Trì trên thương giới.

Thấy tình thế giữa cô Út và em mình có mòi găng, cô Hai kéo cô Út ra ngoài, bảo:

- Trong bếp hơi than nóng bức, chi bằng chị em mình ra bến sông ngồi chơi cho thảnh thơi tâm trí.

Cô Út đành bước theo cô Hai ra bến sông. Nơi đó, bên mé nước cónhững cây gừa buông rễ lồng thòng xuống mặt nước. Giờ nầy, nước dòn lênh láng đầy sông, xẻo. Màu nước nâu đục in vòm trời xanh trong, lơ thơ vài cụm mây trắng. Cả hai ngồi xuống chiếc băng cây đặt dưới tàn cây mãngcầu xiêm, sát bên mé nước. Cô Út chợt thấy một sợi óc vướng trên cổ áobà ba của cô Hai, bảo:

- Con nhỏ nầy chưa chi đã rụng tóc rồi. Mầy mà tới tuổi ba mươi coi chừng cái đầu sói sọi như đầu mấy con quạ tháng bảy cho coi!

Cô nhặt sợi tóc thổi vèo ra phía sông. Cô Hai Túy Ngọc hoảng hốt:

- Í, đừng chị ơi! Không nên đâu!

Cô Út Ngọc An tròn mắt:

- Sao không nên?

Sợi tóc bay ra khỏi đám lục bình hoa tím, rớt trên những lớp sóng lăn tăn rồi trôi ngược phía vàm sông. Cô Hai bảo:

- Bác Chín gái nói với má em rằng, ở dưới đáy biển, đáy sông có loài thũy tộc nhiều phép thần thông. Loài nầy ưa tìm cách lên cõi trần đểgian dâm với phụ nữ. Hễ cô nào bị tụi nó tư thông thì mang bịnh ốm o gầy mòn cho tới chết.

Cô Út cắt lời:

- Ai lại không biết đó là bịnh mắc đàng dưới!

- Bởi vậy con gái bắt đầu trổ mã thì đừng nên tắm ở sông rạch, cũngđùng giặt quần áo của mình ở khe rạch, sông ngòi, ao bàu, hay vũng...Nếu có giặt thì giặt trong thau chậu rồi đổ nước trên đất. Cũng khôngnên vứt tóc, móng tay, đờm, máu kinh nguyệt dưới nước. Có vậy mới khỏimắc bịnh đằng dưới.

Út Ngọc An ngơ ngẩn:

- Hại không! Tao lại quên cái chuyện mầy vừa nói chớ. Thiệt tao bậy quá chừng chừng!

Bỗng bên kia bờ rào, giọng bà Chín Thẹo rổn rảng vọng sang:

- Con Út đâu? Mau về nhà hâm cá. dọn bún cho tao ăn. Chèn đét ơi, ai coi nó bận quần trắng mà dám đứng gần mé nước chớ! Thánh thần ơi, congái người ta có ý có tứ, con gái tui thì u mê bạch tuột, không kiêngkhông cữ, chẳng biết dữ lành!

Cô Út Ngọc An đứng dậy phủi đít, bảo cô Hai Túy Ngọc:

- Bà già tao đang nổi máu sân rồi đó. Thôi, tao xin kiếu.

Bà Chín Thẹo mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen, tóc bới ba vòng mộtnọn. Khuôn mặt bà lúc giận coi thiệt đanh đá, Bà liếc xéo cô Hai TúyNgọc, làm như có ai rù quyến con bà ra chỗ trống trải vậy.

Khi cô Út về bên kia khuôn viên bà Chín thì cô Hai khép cổng hôngrồi lững thững vào nhà. Trời đả nhá nhem tối. Cô Ba thắp đèn rồi dọncơm. Trong bữa cơm cô Hai thuật lại cho mẹ nghe vận sự cô Út thổi tóc cô xuống sông, việc cô Út mặc quần trắng đứng bên mé nước.

Bà Năm Tảo bảo:

- Có kiêng có cữ thì việc dữ hóa lành. Đất nước mình mới khẩn huânglập ấp mấy trăn năm nay nên có đủ thứ yêu tinh, ma quỉ, tà quái. Làm gái xinh tốt càng phải giữ kỹ hơn. Bây mặc quần áo trắng đứng bên mé nướcthì bọn Giang long, Hà bá, Thủy quan, Thủy quái thấy đít, ngực, hông,nách bây ráo trọi, tránh sao "họ" khỏi động lòng dâm dục, phựt ngọn lửatình. Cho nên có đi xuồng, đi ghe, đi dạo trên bờ sông nhớ bận quần áomàu sậm, nhứt là nên bận đồ đen cho chắc ăn, vì màu đen có hể che mắt"họ".

Ong Năm Tảo thêm vô:

- Tụi con gái chớ nên soi kiếng chải đầu ban đêm. Bởi mặt kiếng lánh như mặc nước lúc lặng sóng nên "họ" thường ẩn trong mặt kiếng ban đêmvì ban đêm thuộc giờ âm, giờ của cõi âm, giờ của dưới nước lên trần tácoai tác quái.

Cô Ba ngứa miệng:

- Thưa tía, tía nói vậy sao phải! Bọn đào hát đêm nào mà chẳng soi kiếng để tô son trét phấn?

Bà Năm nguýt cô con gái ương ngạnh:

- Nói bậy nói bạ mà cũng ưa chó chét! Mầy quên rằng tổ nghiệp hát bội có oai lục thường che chở cho đào hÿt hay sao?

Trong bữa cơm dù có cá chạch kho nghệ, món canh rau mướp hương, móncà đối kho còn dư hôm qua, món chả cá phác lác chiên dầm nước mắm tỏi,nhưng ông Năm chỉ ăn có hai lưng chén cơm rồi gác đũa trên miệng chén,cháp tay xá xá tạ ơn người làm ra hột gạo. Bà Năm ân cần:

- Ông nên ăn thêm ba hột nữa kẻo đêm dài thức khuya đói bụng.

Ông Năm Tảo cười:

- Tối nay tui xuống Cái Sơn ngủ đêm, gia chủ thế nào cũng dọn ăn khuya, không vịt thì gà, bà sao khéo lo!

Ông sửa soạn hành lý chất trên chiếc tam bản để chéo ra sông. Cổchiên cho kịp con nước suôi. Mảnh trăng thượng tuần méo xẹo méo xọ đãhiện ra ở phương đông. Bà Năm Tảo hối hai cô con gái tắm rửa rồi đốtnhang cúng nước trên bàn thờ Phật. Bà bước ra nơi hàng rào ngăn khuônviên nhà bà và mảnh đất có cây da xà. Bà sẽ trồng cây xương rồng và câyđộc trụ ở vòng rào ngoài, cây dâu tằm ăn ở vòng rào trong. Bà tin rằngxương rồng và dâu tằm ăn có thể trừ ma tróc quỉ như ông bà mình thườngnói. Tuy cô Út Thoại Huê là vong cô của cô Ba Túy Nguyệt nhưng cây da xà là nơi trú ngụ của bao âm hồn thì nó thuộc về cõi âm. Bà không muốncuộc đất của mình thông thương giao tiếp với cõi huyền bí đầy hung hiểmdọa dẵm ấy. Hai vòng hàng rào sẽ dựng nên cái biên giới giữa hai cõi âmdương. Nếu vong hồn nào rắn mắt toan qua khuôn viên bà để quấy phá, sẽbị hai vòng hàng rào kia ngăn cản.

Sáng hôm qua, bà Năm Tảo đã chuộc cái bùa bát quái vẽ bằng sơn đỏtrên miếng kiếng hình bát giác để treo trên khung cửa chánh. Vẫn chưa an lòng, bà còn treo những khúc xương rồng. Bà sẽ trồng thêm cây khuynhdiệp bên cổng, đám ngũ trảo trong sân dù ông Năm đã trồng ngũ diệp ở vạt đất trồng dược thảo. Loại cây cỏ có lá thơm kia chẳng những làm thôngkhí quản mà còn ngăn cản loài phong tinh vào khuấy phá.

Tối hôm đó, mãi tới đầu canh hai, ánh trăng mói soi khắp thềm sân.Cô Ba Túy Nguyệt tắm bằng nước nấu với lá từ bi, lá ổi, lá ngải diệp.Còn cô Hai Túy Ngọc thì đã tắm bằng xà bông sả và gội đầu bằng nước bồkết từ hối chiều. Cô thắp nhang cúng nước trên bàn phật, lấy bùa trừ tàđeo và cổ. Vận sự cô Út Ngọc An thổi sợi tóc cô bay xuống sông cứ làmcho cô bào xào xao xuyến. Trời nực, cô ngồi bên cửa sổ ngó mông. Còn côBa thì vừa đặt lưng xuống giường là ngủ được ngay.

Đấu đêm, bóng nguyệt quới tỏa hương ngào ngạt. Những cụm lài ventường cũng thoảng hương. Phải đợi tới canh ba, bông dạ lý mới bắt đầudậy hương, trong khi nồng độ hương nguyệt quới loãng dần. Nguyệt quới và lài dẫu có thành tinh đi nữa cũng không đủ oai lực hiện lúc ban đêm.Duy mấy cây dạ lý từ bày năm sắp lên, đêm đêm hóa thành hình người đidạo dưới trăng. Đó là những gì bà Chín Thẹo cam doan rằng mình đã mắtthấy tai nghe. Nhưng thiệt tình, hai cô Túy nghe thì nghe chớ làm saotin nổi cái miệng ưa thêu dệt, đặt chuyện của bà. Vậy mà canh năm hômnọ, hai cô gánh mắm và dưa gang từ Cầu Dài về nhà. Vừa khi tới cổng ràothì đã hừng sáng. Cả hai chợt thấy một cô gái cỡ mười bảy mười tám tuổiđứng phía trong bờ rào của khuôn viên ông bà Năm Tảo. Vốn tánh mau mắn,cô Ba Tuy Nguyệt chào trước:

- Chào cô. Cô ở đâu tới dây? Cửa ngõ khóa mà sao cô vô được?

- Cô gái ú ớ:

- Tôi... tôi đi xem mạch hốt thuốc. Tôi mới từ trong nhà bước ra...

Anh sáng lờ mờ của thời khắc bóng đêm sắp lui làm hai chị em khôngnhìn rõ mặt cô gái lạ, nhưng dáng dấp cô thiệt mảnh mai yểu điệu, chiếcáo màu xanh cẩm thạch của cô sự nức mùi hương dạ lý. Cô ta đi vào vùngtối lờ mờ của khu vườn rồi biến mất.

Khi cả hai vào nhà, cô Hai Túy Ngọc hỏi tía má mình:

- Mới hừng sáng mả đã có người tới coi mạch hốt thuốc rồi sao, tía?

Ông Nam Tảo chừng hửng:

- Ủa, ai đâu? Hồi canh năm má bây thức dậy lo nấu xôi, còn tía thì ngủ nướng mãi tới khi bây về chớ có ai tới đâu?

Cô ba thuật lại vận sự hai chị em vừa chứng kiến. Bà Năm không biếtgiải thích cánh nào, liền chạy lại bờ rào ngóng về phía nhà bà ChínThẹo, gọi:

- Chị Chín! Chị qua tui ăn lót lòng. Tui có chuyện muốn thưa với chị.

Bà Chín Thẹo tại mân điểm tâm ờ nhà ông Năm Tảo sáng hôm đó, giải thích sự xuất hiện của cô gái bên bụi dạ lý như sau:

- Có phải con nhỏ đó xõa tóc không? Đờn bà con gái xứ mình hễ bận áo dài là bới tóc đàng hoàng chớ đâu để tóc ngang lưng như vậy! Cô gái đókhông phải là" người ta" đâu! Cổ là con tinh của cây dạ lý, cũng áo màucẩm thạch, cũng tóc xõa ngang lưng như vậy. Hàng rào nhà tao cũng có mấy khóm dạ lý già như hàng rào bên đây vậy.

Hai cô con gái tái mặt. Bà Chín trấn an:

- Tinh cây dạ lý hiền lắm. Tụi nó sợ loài người, không dám hãm hạiphá phách gì đâu! Tinh loài ngải diệp thì ưa giả gái đẹp để chài bợm háo sắc. Còn loại cây lớn như cây da, cây mù u, cây sao, cây dầu, câydương... sống từ 50 năm sắp lên đều hành tinh cả. Tụi tinh đó không chọc ghẹo phá phách ai, nhưng loài người cũng đừng chọc tụi nó, đừng đẽothân hoặc tước vỏ, chặt nhánh, tỉa ngọn; đừng phóng uế dưới gốc nó màmang họa.

Cuộc đất miền đồng bằng sông Cửu khẩn hoang chưa đến 500 năm. Mật độ dân chúng ở miệt vườn còn thấp. Hễ người sống thưa thớt thì nhưng kẻcõi âm sẽ tác nghiệt lộng hành. Trời Phật ở xa, ma quỉ ở gần. Cố giữ cho khỏi đụng chạm tới chúng cũng đã mệt cầm canh rồi, có mấy ai đủ phépthần thông mà tróc quỉ, trừ ma, tấn công tà thần, áp đảo yêu quái?

Cô Hai Túy Ngọc có một nội lực vững vàng. Cô là một Phật tử thuầnthành, nắm vững hai vấn đề từ bi và trí tuệ. Đới với cô, bọn tà thần, ma quỉ, yêu quái dầu có thần thông thế mấy cũng vẫn là những chúng sinhkhông tìm được hạnh phúc nên phải tắc oai, lộng hành cho hả cơn tức củamình. Hễ người sống biết giữ tâm chí, giữ lòng thanh tịnh thì không cóâm binh, ma quỉ nào dám dựa, nhập, ốp vô mình được! Vẫn biết chúng tànác và rắn mắt, nhưng người sống phải mở lòng từ bi để đọc thần chú vãngsinh cho chúng, phải tụng kinh Phương đẳng Đại thừa chú nguyện cho chúng sớm giác ngộ, sớm siêu sanh. Với ý nguyện ấy, mỗi đêm cô thắp nhangtụng đọc bảy biến Đại bi thần chú trước khi ngủ. Nhưng từ bốn hôm rồi vì có kinh nguyệt nên cô không dám thắp nhang, cúng nước và tụng chú. Hômnay mình mẩy sạch sẽ, nhưng cô cảm thấy còn bải hoải ngầy ngật nên tạmgác đọc thần chú qua một bên. Ngài mai nhất định cô sẽ tụng kinh ĐịaTạng, hồi hướng cho những kẻ còn kẹt ở địa ngục và cầu cho dì Út ThoạiHuê của cô mở lượng từ bi, tha thứ tên sở khanh Hai Luyện kia. Cô muốnnhắc nhở với vong linh người dì u mê kia rằng, chắc kiếp trước dì đã gây oan trái cho cậu Hai Luyện nên kiếp nầy cậu đòi nợ. Thôi thì dì nênchấm dứt vòng vay trả ở kiếp nầy để kiếp sao khỏi sa vào vòng oan oantương báo.

Bỗng một cụm mây lớn vắt ngang qua mặt trăng làm cảnh vật tối sầm.Con trốt nổi lên. Cơn váng vất ùa tới làm cô Hai phải trở vào giường.Trống đã điểm canh ba. Khắp nơi lặng ngắt. Thỉnh thoảng có tiếng ếchnhái, tiếng nhóc nhen, tiếng vạt sành nổi lên ở bàu nước cuối vườn. CôHai Túy Ngọc chìm sâu vào cơn mê.

Cô thấy hai người đờn ông, một mặc loại vải dệt bông nổi như da sấu. Người mặc áo láng lẩy ẵm cô Út Ngọc An trên tay. Cô nằm mê man nhưnchết. Còn người mặc áo vải dệt bông nổi cầm sợi tóc trên tay ngắm nghíarồi nhìn cô Hai nheo mắt cười duyên. Người mặc áo láng lẩy nói:

- Thôi mầy, tụi mình nên về thủy phủ thì hơn.

Người mặc áo bông nổi chỉ cô Hai Túy Ngọc, bảo:

- Tao muốn bắt con nhỏ đó, nó xinh tốt như tiên nga. Lại nữa, taogiữ sợi tóc nó trong tay tức là tao đã cầm chắc cái bổn mạng nó rồi. Tao mà không bắt nó về làm vợ thì uổng lắm!

Người mặc áo láng lẩy can gián:

- Không được đâu! Con nầy có căn lành, có phước đức nên bổn mạngvững vàng. Lại nữa, tía má nó gây nhiều nhơn tốt, mầy không rớ tới nóđược đâu!

Người mặc áo bông nổi xốc tới tính ôm cô Hai. Nhưng tay hắn vừa chạm tới mình cô là hắn la hoảng lên như chạm phải gai nhọn lửa nóng:

- Con nầy có đeo đạo bùa ghi thàn chú kinh Lăng Nghiêm!

- Tao đã nói mà mầy không nghe. Dẫu nó không đeo đạo bùa thiêng đinữa, mầy cũng không rờ tới nó được đâu! Thôi, về thủy phủ với tao chorồi.

Cả hai bỏ đi. Cô Hai Túy Ngọc chạy theo la lớn:

- Mấy người bồng chị Út Ngọc An đi đâu? Sao mấy người làm ngang bắt con gái người ta đi vậy?

Cô xông tới, giành cô Út Ngọc An lại. Cả hai trì kéo nhau. Tên mặcquần áo dệt bông nổi nhào vào xô cô té một cái đụi để tên kia bồng cô Út chạy mất.

Tới đây cô Hai Túy Ngọc tỉnh dậy. Nhà ngoài có tiếng xôn xao. Cô Ba Túy Nguyệt từ ngoài chạy vào, gọi chị:

- Nguy rồi chị ơi! Chị Út con bác Chín bỗng dưng kếu đau bụng rồinăm mê man. Chị em mình mau theo má qua nhà bác Chín coi sao. liệu cógiúp được gì chăng!

Cô Hai Túy Ngọc liền chổi dậy rửa mặt xúc miệng, xức dầu cù là ởmàng tang, mặc thêm chiếc áo bà ba ngoài áo túi rồi cùng mẹ và em đóngkín cửa nẻo bước qua nhà bà Chín Thẹo.

Ở đây đèm đuốc sáng rực, chòm xóm tụ họp nhộn nhịp. Ba mẹ con bà Năm Tảo tức tốc vô buồng cô Út. Cô nằm trùm mềm tới cổ, sắc mặt lợt lạt,mắt nhắm nghiền. Thỉnh thoảng cô cong người ngồi dậy, mắt mở trao tráonhưng không nhìn ai. Cô rên: - Chu choa ơi! Đau bụng quá trời quá đất!Ai cứu tui với! Sao mấy người giữ tui ở đây, không để tui theo chồngtui!

Bà Chín Thẹo mếu máo kể với bà Năm Tảo:

- Con Út tui đang ngủ bỗng hét lên tỉnh dậy kêu đau bụng. Ông nhàtui cắt xương rồng, mài với nước mưa cho nó uống mà vẫn không bớt, cứnằm thiêm thiếp lúc tỉnh lúc mê.

Bà Năm Tảo chắc lưỡi:

- Hại quá! Ông nhà tui đi Cái Sơn Lớm chữa bịnh, tui biết liệu saođây! Nè Ba, con lẹ chơn chạy về nhà lấy khúc quế Trà Bồng để má mài vớinước mưa cho chị Út con uống. Đang lúc cấp bách như vầy, để tui trổ tàichâm cứu cho cháu, biết đâu phước chủ may thầy mà cháu khỏi bịnh chăng!

Cô Ba Túy Nguyệt trở về nhà lấy quế. Bà Năm Tảo hối gia chủ xắt chobà hai miếng gừng và đốt một cây nhang để bà đặt gừng lên huyệt và châmnhang vào huyệt. Khi cô Ba đem quế qua thì cô Hai mài quế để đổ vàomiệng bệnh nhơn. Mặt cô Út trở nên hồng hào, mồ hôi lạnh hết ra nhưng cô không tỉnh táo. Cô đảo mắt nhìn mọi người, cười ỏn ẻn rồi hát:

Con chim trả, ai vay ai trả?

Bụi cây sưng, ai vả mà sưng?

Đây người dưng, đó cũng người dưng.

Cớ sao giọt thảm rưng rưng ướt tròng?

Bà Chín Thẹo lay vai con gái, khóc tức tưởi:

- Út, má đây con, tỉnh lại đi con.

Cô Út nguýt mẹ:

- Ai là con của bà? Tui đây là con của bà Chúa khúc sông Bà Lại.Chồng tui ở phủ dưới đáy Cô Chiên, gần miệt vàm. Nhà chồng tui tường lót bằng kiếng soi mặt sáng trưng, mái lợp ngói lưu ly xanh biếc, trước nhà có hai cây bông đá một trắng một hường, cây nào cũng thiệt đẹp!

Bà Chín Thẹo khóc ngất, nhưng bà không hề xác nhận con gái mình mắc đàng dưới. Bà Năm Tảo an ủi:

- Chiều mai ông nhà tui về. Để rồi chị em bà con mình sẽ hiệp sức lo chạy chữa cho cháu. Chạy thuốc không hết thì chạy bùa, chạy ngải, cúngvái...