Một buổi chiều thứ Sáu nọ, trời tháng Mười hai ngập nắng không quá lạnh, Anne đi xuống Lowvale để dự buổi tiệc tối gà tây. Nhà Wilfred Bryce ở Lowvale, nơi cậu sống với một người chú, cậu rụt rè hỏi cô rằng liệu cô có muốn đi về cùng cậu sau giờ học, đến dự bữa tiệc gà tây ở nhà thờ và nhân tiện đến chơi nhà cậu hôm thứ Bảy. Anne đồng ý ngay, hy vọng cô có thể thuyết phục ông chú cho phép Wilfred tiếp tục học trung học. Wilfred sợ rằng năm tới cậu không được phép quay lại trường nữa. Cậu là một cậu bé thông minh, đầy khát vọng và Anne đặc biệt quan tâm đến cậu.

Khó có thể nói là cô thích thú chuyến viếng thăm này, ngọai trừ niềm vui mà nó mang đến cho Wilfred. Chú thím của cậu bé là một đôi kỳ quặc và có phần thô lỗ. Sáng thứ Bảy trời nổi gió và âm u, tuyết rơi rào rào, và Anne tự hỏi mình biết phải làm gì suốt cả ngày trời đây. Cô cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ sau khi thức khuya dự buổi tiệc gà tây; Wilfred phải giúp đập lúa; và chung quanh thậm chí chẳng có bóng dáng quyển sách nào. Sau đó, cô nhớ đến chiếc rương thủy thủ cũ kỹ tả tơi cuối hành lang trên lầu và nhớ lại việc bà Stanton nhờ vả. Bà Stanton đang viết một quyển sách về lịch sử của hạt Hoàng Tử và hỏi Anne xem cô có biết, hay có tìm thấy bất cứ quyển nhật ký cũ hoặc tài liệu cũ hữu ích nào không.

“Nhà Pringle đương nhiên là có nhiều thứ tôi cần rồi,” bà bảo Anne như thế. “Nhưng tôi không thể nhờ họ. Cô biết đấy, hai nhà Pringle và Stanton chẳng bao giờ chơi với nhau.”

“Thật không may là tôi cũng không thể hỏi họ được,” Anne đáp.

“Ồ, tôi không định nhờ cô làm chuyện đó. Tôi chỉ muốn nhờ cô chịu khó ngó nghiêng mỗi khi đến thăm nhà ai đó, và nếu cô nhìn thấy hay nghe nói đến bất cứ quyển nhật ký cũ, bản đồ cũ hay những thứ tương tự thì xin mượn giùm tôi. Cô không tưởng nổi là tôi đã tìm ra những điều thú vị đến nhường nào trong những quyển nhật ký cũ đâu… những mẩu chuyện đời thường khiến cho những người tiên phong thuở xưa trở nên sống động như thật. Tôi muốn tìm được những thứ như thế cho quyển sách của mình, bên cạnh những số liệu thống kê và bảng phả hệ.”

Anne hỏi bà Bryce xem họ có những tài liệu cổ như vậy hay không. Bà Bryce lắc đầu.

“Tôi chả biết thứ nào như thế. Nhưng mà…” Mắt bà sáng lên... “trên kia có cái rương của ông chú Andy. Không chừng trong đó sẽ có gì đó hay hay. Chú ấy từng đi biển với cố thuyền trưởng Abraham Pringle mà. Tôi sẽ ra ngoài hỏi Duncan xem cô có thể lục lọi trong đó được không.”

Duncan nhắn lại rằng cô có thể “lục lọi” tùy thích và nếu cô tìm thấy bất cứ “tài liệu” gì thì cô cứ đi mà giữ lấy. Dù gì thì ông ta cũng định đốt sạch hết những thứ bên trong và dùng cái rương để đựng dụng cụ. Thế là Anne bắt đầu lục lọi, nhưng cô chỉ tìm thấy mỗi một cuốn nhật ký hay “nhật ký hàng hải” úa vàng mà Andy Bryce sử dụng trong suốt bao năm đi biển. Anne say sưa đọc quyển nhật ký đầy hứng khởi cho khuây buổi sáng bão bùng. Andy là một thủy thủ dày dạn từng tham gia nhiều chuyến đi biển với thuyền trưởng Abraham Pringle, người mà ông ta rõ ràng là hết sức ngưỡng mộ. Quyển nhật ký có nhiều lỗi chính tả và câu cú sai ngữ pháp, nhưng cũng chứa đầy những lời khâm phục lòng dũng cảm và tài tháo vát của thuyền trưởng, nhất là trong chuyến đi biển điên rồ vòng quanh mũi Sừng[1]. Nhưng có vẻ như lòng ngưỡng mộ của ông ta không hề mở rộng đến Myrom”, em trai Abraham, ông này cũng là thuyền trưởng, nhưng của một chiếc tàu khác.

[1] Mũi đất được cho là ở cực Nam của châu Mỹ, nằm ở quần đảo Tierra del Fuego, miền nam Chile.

“Tối nay nên nhà Myrom Pringle. Vợ hắn nàm hắn phát dồ, thế nà hắn đứng dậy hắt cả ny lước vào mặt bà ta.”

“Myrom ở nhà. Tàu của hắn bị chái, mọi người nhảy xuống thuyền cứu xinh. Xuýt chết đói. Cuối cùng họ ăn Jonas Selkirk, thằng lày đã dùng súng tự tử chết. Họ xống bằng thịt thằng đó cho đến khi chiếc Mary G. vớt. Chính Myrom kể chuyện lày cho mình nghe. Hình như hắn nghĩ đây nà một trò hay.”

Anne rùng mình khi đọc mục nhật ký cuối cùng này, nó dường như càng thêm kinh hoàng bởi những lời kể vô cảm của Andy về sự thật nghiệt ngã ấy. Sau đó, cô chìm vào suy tư. Quyển nhật ký này không có gì giúp được bà Stanton, nhưng liệu bà Sarah và bà Ellen có muốn giữ nó không bởi nó đề cập rất nhiều đến người cha thân yêu đã quá cố của họ? Giả sử cô gửi nó cho họ thì sao nhỉ? Duncan Bryce bảo cô muốn làm gì với nó tùy thích mà.

Không, cô sẽ không làm vậy đâu. Vì sao cô lại phải cố làm vui lòng họ hay phục dịch lòng kiêu hãnh lố bịch của bọn họ, nó vốn đã đủ lớn mà không cần thêm tí dinh dưỡng nào rồi. Họ đã quyết tâm đuổi cô khỏi trường học và sắp thành công. Họ và gia tộc của họ đã đánh bại cô.

Chiều tối hôm đó Wilfred đưa cô về Bạch Dương Lộng Gió, cả hai người đều cảm thấy hạnh phúc. Anne đã thuyết phục được Duncan Bryce đồng ý cho Wilfred học nốt năm nay ở trường trung học .

“Sau đó em sẽ cố học một năm ở Queen, rồi đi dạy và tự học thêm,” Wilfred nói. “Em biết đền đáp cô sao đây, cô Shirley? Chú em vốn chẳng thèm nghe ai cả, nhưng chú ấy mến cô. Trong chuồng ngựa chú bảo em rằng. ‘Phụ nữ tóc đỏ muốn làm gì tôi cũng được sất.’ Nhưng em không nghĩ đó là nhờ mái tóc của cô đâu, cô Shirley ạ, mặc dù nó rất đẹp. Chỉ nhờ vào... chính cô mà thôi.”

Hai giờ sáng hôm đó, Anne tỉnh dậy và quyết định sẽ gửi quyển nhật ký của Andy Bryce đến Đồi Phong. Dù sao chăng nữa cô cũng mên mến hai quý bà lớn tuổi này. Và họ chẳng có bao nhiêu ấm áp trong cuộc đời... chỉ còn mỗi niềm tự hào về người cha mà thôi. Lúc ba giờ, cô tỉnh dậy một lần nữa và quyết định không gửi. Bà Sarah giả vờ lãng tai, quả thật vậy! Lúc bốn giờ, cô lại phân vân chẳng biết làm sao. Cuối cùng cô quyết tâm sẽ gửi nó cho bọn họ. Cô sẽ không sống nhỏ nhen. Anne sợ thói nhỏ nhen lắm... giống như họ nhà Pye.

Giải quyết xong vấn đề, Anne an tâm ngủ thẳng giấc, nghĩ bụng thật tuyệt vời khi tỉnh dậy giữa đêm, nghe tiếng ào ào của cơn bão tuyết đầu tiên của mùa đông lượn quanh tòa tháp, rồi lại rúc vào trong chăn ấm và chìm vào xứ mơ một lần nữa.

Vào sáng thứ Hai, cô gói kỹ cuốn nhật ký cũ và gửi nó cho bà Sarah kèm theo lời nhắn ngắn gọn.

“Bà PRINGLE THN MẾN:

“Tôi không biết liệu bà có chút hứng thú nào với quyển nhật ký cũ này không. Ông Bryce cho phép tôi chuyển nó cho bà Stanton, người đang viết một quyển sách về lịch sử của hạt, nhưng tôi nghĩ quyển nhật ký này sẽ chẳng giúp gì được cho bà ấy, và tôi nghĩ rằng chắc bà sẽ muốn giữ nó.

“Trân trọng,

“ANNE SHIRLEY.”

“Lời nhắn khô khan khủng khiếp,” Anne nghĩ bụng, “nhưng mình chẳng thể viết thoải mái hơn cho họ. Và mình cũng chẳng ngạc nhiên chút nào nếu họ cao ngạo gửi trả nó lại cho mình.”

Trong ánh sáng xanh nhàn nhạt của buổi chiều đầu đông, Rebecca Dew phải đối diện với một cú sốc lớn trong đời. Chiếc xe ngựa của Đồi Phong chạy dọc theo đường Ma, lăn bánh trên lớp tuyết trắng mịn như bột và dừng lại tại cửa trước. Bà Ellen bước xuống xe và rồi... trước sự ngạc nhiên cực độ của mọi người... bà Sarah, người không hề rời Đồi Phong suốt mười năm qua, cũng bước xuống theo.

“Họ đang đi đến cửa trước đấy,” Rebecca Dew há hốc miệng hoảng sợ.

“Một người họ Pringle thì còn có thể đi đâu khác chứ?” dì Kate vặn lại.

“Đương nhiên... đương nhiên... nhưng nó bị kẹt,” Rebecca kêu lên bi thảm. “Nó thực sự bị kẹt... bà biết thế mà. Từ lần dọn nhà mùa xuân rồi, nó chưa hề được mở ra lần nào. Đây chính là giọt nước làm tràn ly mà.”

Cửa trước đúng là bị kẹt thật... nhưng Rebecca Dew đã giật mạnh nó ra trong cơn tuyệt vọng và đưa các quý bà Đồi Phong vào phòng khách.

“Cảm ơn Chúa, hôm nay mình đã thắp sẵn lò sưởi trong ấy,” chị nghĩ bụng, “và mình chỉ còn biết hy vọng con Mèo ấy không rụng lông trên ghế sofa. Nếu Sarah Pringle dính phải lông mèo trên váy ở ngay trong phòng khách nhà mình...”

Rebecca Dew không dám tưởng tượng những hậu quả tiếp theo. Chị gọi Anne đi xuống từ căn phòng tháp, vì bà Sarah hỏi thăm liệu cô Shirley có ở nhà không, rồi chị buộc mình đi vào bếp, suýt phát điên vì tò mò không biết chuyện gì trên đời này có thể bắt các bà cô già nhà Pringle đến gặp cô Shirley.

“Liệu có thêm trò hành hạ nào sắp tới nữa không...” Rebecca Dew lo âu lẩm nhẩm.

Anne đi xuống một mình, khá hồi hộp. Liệu có phải họ đến trả lại quyển nhật ký với vẻ khinh miệt băng giá hay không?

Đi thẳng vào vấn đề, bà Sarah nhỏ nhắn, nhăn nheo và cứng rắn nói ngay khi Anne bước vào phòng.

“Chúng tôi đến để xin đầu hàng,” bà chua chát nói. “Chúng tôi chẳng thể làm gì khác được... đương nhiên là cô biết ngay điều đó khi đọc câu chuyện đầy phỉ báng về chú Myrom đáng thương. Đó không phải là sự thật... đó không thể là sự thật. Chú Myrom chỉ định trêu Andy Bryce một phen thôi... Andy quá dễ tin mà. Nhưng mọi người bên ngoài gia tộc của chúng tôi sẽ rất sẵn lòng tin vào điều đó. Cô biết mà, nó khiến cả bọn chúng tôi trở thành trò cười... và còn tệ hơn thế nữa. Ôi, cô rất thông minh. Chúng tôi thừa nhận điều đó. Jen sẽ xin lỗi và cư xử đúng đắn trong tương lai... tôi, Sarah Pringle, đảm bảo với cô về điều đó. Chỉ cần cô hứa sẽ không kể chuyện này cho bà Stanton... không kể cho bất kỳ ai... chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì... bất cứ điều gì.”

Bà Sarah vò nát chiếc khăn tay bằng ren mỏng trong đôi tay nhỏ nhắn đầy gân xanh. Bà ấy run rẩy sợ hãi thực sự.

Anne trố mắt ngạc nhiên... và khiếp hãi. Ôi những cô gái già thân yêu tội nghiệp! Họ nghĩ rằng cô đang đe dọa họ!

“Ôi, các bà hiểu lầm tôi khủng khiếp quá,” cô kêu lên, cầm lấy đôi tay run rẩy đáng thương của bà Sarah. “Tôi... tôi không sao tưởng tượng được hai bà nghĩ tôi định... ôi, chẳng qua là tôi nghĩ các bà sẽ rất vui khi biết thêm những chi tiết thú vị về người cha tuyệt vời của mình. Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ phô bày hay kể lại câu chuyện vặt ấy cho bất kỳ ai. Tôi không cho rằng nó có gì đáng để kể. Và tôi sẽ không bao giờ kể.”

Một thoáng im lặng. Rồi bà Sarah dịu dàng rút tay mình ra, chấm chấm khăn tay lên mắt và ngồi xuống, khuôn mặt với những nếp nhăn li ti thoáng ửng hồng.

“Chúng tôi... chúng tôi đã hiểu lầm cháu, cháu thân mến. Và chúng tôi... chúng tôi đã cư xử với cháu thật tồi tệ. Cháu sẽ tha thứ cho chúng tôi chứ?”

Nửa giờ sau đó... nửa giờ suýt chút nữa đã khiến Rebecca Dew chết ngất... hai quý bà Pringle rời đi. Đó là nửa giờ trò chuyện thân mật và thảo luận về những vấn đề không nhạy cảm trong quyển nhật ký của Andy. Đứng ở cửa chính, bà Sarah... với thính giác không hề có chút suy yếu nào trong suốt cuộc nói chuyện... quay người lại một thoáng và rút từ túi xách tay ra một tờ giấy viết kín những dòng chữ đều đặn và sắc sảo.

“Suýt thì quên... chúng tôi từng hứa sẽ đưa cho bà MacLean công thức làm bánh ngọt từ lâu rồi. Cháu không phiền chuyển dùm nó cho bà ấy chứ? Và nhắn với bà ấy là quá trình lên men rất quan trọng... thực sự là không thể nào bỏ qua được đâu. Ellen, cái nón của em hơi lệch qua một bên tai đấy. Tốt nhất là em nên chỉnh lại nó trước khi ra về. Chúng tôi... chúng tôi có đôi chút xúc động trong khi thay đồ.”

Anne kể với hai bà góa phụ và Rebecca Dew rằng cô chuyển cuốn nhật ký cũ của Andy Bryce cho các quý bà ở Đồi Phong và họ đến để đích thân cảm ơn cô. Mọi người đành phải hài lòng với lời giải thích này, mặc dù Rebecca Dew luôn nghi ngờ rằng có lý do gì khác ở đằng sau... một lý do khá là quan trọng. Lòng biết ơn cho một quyển nhật ký cũ tả tơi, lem nhem dấu thuốc lá sẽ không bao giờ có thể đưa nổi Sarah Pringle đến cửa chính của Bạch Dương Lộng Gió đâu. Cô Shirley cao tay lắm... rất là cao tay!

“Tôi sẽ mở cửa chính mỗi ngày một lần sau vụ này,” Rebecca tuyên bố. “Để nó quen dần đi. Tôi suýt thì vấp té khi nó chịu mở ra. Ôi dào, dù gì thì chúng ta cũng lấy được công thức làm món bánh ngọt. Ba mươi sáu quả trứng! Nếu các bà vứt con Mèo ấy đi và cho tôi nuôi gà mái thì có thể chúng ta sẽ đủ sức làm món bánh này mỗi năm một lần.”

Và rồi Rebecca Dew xăm xăm đi vào bếp và sòng phẳng với số phận bằng cách cho con Mèo uống sữa khi chị biết rõ là nó muốn ăn gan.

Mối thù Shirley-Pringle đã chấm dứt. Không ai bên ngoài gia tộc Pringle biết được lý do tại sao, nhưng ai nấy ở Summerside đều thấy rõ cô Shirley, đơn thân độc mã, và bằng một cách bí ẩn nào đấy, đã đánh bại toàn bộ gia tộc Pringle. Và từ đó về sau, bọn họ đều răm rắp nghe theo lời cô. Jen trở lại trường học ngay ngày hôm sau và ngoan ngoãn xin lỗi Anne trước lớp học. Từ đó về sau, cô bé trở thành một học sinh gương mẫu và mọi học sinh nhà Pringle đều noi theo cô bé. Còn với những người trưởng thành của gia tộc Pringle thì sự phản kháng của họ tan biến như sương mù dưới ánh mặt trời. Không còn bất cứ lời khiếu nại nào về “kỹ luật” hay bài tập về nhà. Không còn những trò xúc phạm khéo léo tinh tế đặc trưng của cả bọn họ. Họ gần như tranh giành nhau để cố làm đẹp lòng Anne. Không có buổi khiêu vũ hoặc trượt băng nào tiến hành mà không có cô. Bởi vì, mặc dù quyển nhật ký chết người đó đã bị ngọn lửa nuốt sạch dưới tay của bà Sarah, ký ức vẫn là ký ức, và cô Shirley muốn bịa chuyện ra thế nào mà chẳng được. Để cho bà Stanton nhiều chuyện ấy biết việc thuyền trưởng Myrom Pringle từng ăn thịt người thì chẳng ổn chút nào!