Vào một buổi chiều tối vào cuối tháng Mười một, Anne ngồi trước ô cửa sổ tháp, miệng ngậm bút, mắt mơ màng nhìn ra thế giới chìm đắm trong ánh chiều tà và chợt nghĩ bụng có lẽ mình nên đi dạo một chuyến ở nghĩa địa cũ. Cô chưa ghé qua đó lần nào, cô thích đi lang thang dọc đường cảng hay xuyên qua khu rừng bu lô và phong mỗi chiều hơn. Tuy nhiên, luôn có một khoảng thời gian vào tháng Mười một, sau khi lá cây đã rụng hết, ấy cũng là lúc cô cảm thấy thật khiếm nhã khi tự tiện làm phiền khu rừng… bởi mọi vẻ đẹp thế tục của chúng đã rời đi, và hào quang thần tiên trắng trong thuần khuyết vẫn còn chưa buông xuống. Thế là Anne buộc mình ghé qua nghĩa trang. Hiện giờ cô cảm thấy quá ngã lòng và tuyệt vọng đến mức nghĩa trang cũng là một nơi khá vui vẻ đối với cô. Hơn nữa, người nhà Pringle được chôn đầy ở đó, Rebecca Dew bảo thế. Họ an nghỉ ở đây qua nhiều thế hệ, ưa thích nó hơn hẳn nghĩa trang mới cho đến khi ‘chẳng còn chỗ nào để chen chân’. Anne cảm thấy mình sẽ được khích lệ một cách tích cực khi tận mắt chứng kiến cảnh vô số người họ Pringle tụ tập ở nơi họ chẳng thể làm phiền được bất cứ ai nữa.

Về vấn đề với gia tộc Pringle, Anne cảm thấy mình đã phải bó tay rồi. Càng lúc tình hình càng trở nên tồi tệ cứ như một cơn ác mộng. Kế hoạch phản kháng và hỗn hào một cách tinh vi mà Jen Pringle tổ chức cuối cùng cũng tiến đến thời khắc quyết định. Vào một ngày tuần trước, cô đã yêu cầu lớp cuối cấp viết một bài luận với đề tài ‘Chuyện quan trọng nhất xảy ra trong tuần”. Jen Pringle đã viết một bài văn tuyệt vời… con bé quỷ sứ ấy vốn rất thông minh… và đã chèn vào đó một lời xúc phạm láu cá đến cô giáo… một lời xúc phạm quá rõ ràng đến mức không thể nào lờ đi được. Anne đuổi con bé về nhà, bảo rằng phải xin lỗi mới cho phép vào học tiếp. Tình hình cực kỳ gay cấn. Giờ đây cuộc chiến giữa cô và gia tộc Pringle đã chính thức bắt đầu. Và Anne đáng thương biết rõ rằng cờ chiến thắng bên nào sẽ được treo lên. Hội đồng nhà trường sẽ ủng hộ gia tộc Pringle và cô sẽ bị buộc phải lựa chọn giữa cho phép Jen trở lại học hoặc bị yêu cầu từ chức.

Cô cảm thấy rất cay đắng. Cô đã làm hết sức mình và cô biết mình có thể thành công nếu được cho dù chỉ một cơ hội.

“Đó không phải là lỗi của mình,” cô đau khổ nghĩ bụng. “Ai có thể thành công chống lại một đội quân khắng khít và chiến lược cao siêu như thế chứ?”

Nhưng cứ nghĩ đến việc thất bại trở về Chái Nhà Xanh! Chịu đựng sự căm phẫn của bà Lynde và niềm vui sướng của họ nhà Pye! Ngay cả niềm cảm thông của bạn bè cũng sẽ là một nỗi day dứt. Và khi tin về thất bại ở Summerside lan truyền ra ngoài, cô sẽ không bao giờ được giao một trường học nào nữa.

Nhưng ít nhất bọn họ đã không thắng được cô trong buổi biểu diễn kịch nói. Anne cười phá lên có phần tinh quái và đôi mắt của cô có phần lấp lánh đầy tinh nghịch khi nhớ lại mọi chuyện.

Cô đã thành lập một câu lạc bộ sân khấu trường trung học và hướng dẫn các thành viên tập nhanh một vở kịch để biểu diễn quyên góp cho một trong những kế hoạch tâm huyết nhất của mình… mua một số bảng kẽm chất lượng tốt cho các lớp học. Cô tự mình nhờ Katherine Brooke giúp đỡ vì dường như Katherine luôn bị đứng ra rìa trong mọi việc. Rất nhiều lần cô không khỏi hối hận về hành động này, bởi Katherine cay độc và thích mỉa mai đay nghiến hơn hẳn thường ngày. Cô ta đưa ra những nhận xét độc địa trong mọi buổi tập và lông mày lúc nào cũng nhướng lên. Tệ hơn nữa, chính Katherine nằng nặc đòi phải cho Jen Pringle đóng vai nữ hoàng Mary xứ Scotland.

“Không có ai khác trong trường học có thể diễn vai này,” cô ta giải thích vẻ nóng nảy. “Không ai có tính cách được như thế.”

Anne không chắc mấy về điều này. Cô cho rằng Sophy Sinclair, cô gái cao với đôi mắt nâu và mái tóc dày màu hạt dẻ, sẽ tạo nên một phiên bản nữ hoàng Mary hay hơn Jen nhiều. Nhưng Sophy thậm chí không phải là thành viên của câu lạc bộ và chưa bao giờ đóng kịch .

“Chúng ta không cần dân tay mơ đóng vở kịch này . Tôi không muốn dính dáng đến bất cứ kế hoạch nào không thành công vang dội,” Katherine cáu kỉnh bác bỏ, và Anne đành chiều theo. Cô không thể phủ nhận rằng Jen diễn vai này rất tốt. Cô nàng có năng khiếu diễn xuất tự nhiên và có vẻ toàn tâm toàn ý cắm đầu tập luyện. họ tập kịch bốn buổi chiều một tuần và bề ngoài thì mọi việc diễn ra rất suôn sẻ. Jen dường như rất hứng thú với vai diễn của mình nên cư xử đàng hoàng hết mức mỗi khi có chuyện liên quan đến vở kịch. Anne không xen vào mà chỉ để mặc cho Katherine huấn luyện cô nàng. Tuy nhiên, có một hai lần cô bắt gặp vẻ đắc thắng ranh mãnh trên mặt Jen khiến cô chẳng hiểu vì sao. Cô không thể đoán ra lý do của nó.

Một buổi chiều nọ, ngay sau khi các buổi tập bắt đầu, Anne bắt gặp Sophy Sinclair òa khóc trong góc phòng thay quần áo nữ. Lúc đầu cô gái chớp mạnh đôi mắt nâu sẫm và chối đây đẩy… rồi òa ra thú thật.

“Em rất muốn tham gia vở kịch… trở thành nữ hoàng Mary,” cô gái nức nở. “Em chẳng có cơ hội nào… cha không cho phép em tham gia câu lạc bộ vì phải nộp phí mà tiền ở nhà phải đong đếm từng xu. Và đương nhiên em chẳng có chút kinh nghiệm nào. Em lúc nào cũng ngưỡng mộ nữ hoàng Mary… chỉ nghe thấy tên của bà thôi là em đã kích động đến run rẩy rồi. Em không tin… em sẽ không bao giờ tin rằng bà ấy nhúng tay vào hành động ám sát Darnley. Sẽ thật tuyệt vời khi tưởng tượng rằng em có thể trở thành bà ấy dù chỉ trong một thoáng!”

Về sau, Anne kết luận rằng thiên thần giám hộ của mình đã thúc đẩy cô giúp đỡ cô học trò nhỏ này.

“Cô sẽ chép lại lời thoại riêng cho em, Sophy ạ, và hướng dẫn em diễn vai nữ hoàng Mary. Đó là cơ hội tốt cho em luyện tập. Hơn nữa, nếu vở kịch được đón nhận tốt, bọn cô định sẽ diễn nó ở nhiều nơi khác nữa, có thêm người diễn thế cũng tốt, nhất là trong trường hợp Jen không có thời gian tham dự. Nhưng cô trò mình chưa cần kể với bất kỳ ai về chuyện này.”

Ngay ngày hôm sau Sophy đã thuộc làu làu lời thoại. Mỗi chiều sau khi tan học cô gái cùng Anne lại về Bạch Dương Lộng Gió và diễn tập trong gian phòng tháp. Hai cô trò đã có một khoảng thời gian hết sức vui nhộn, bởi Sophy là một cô gái tinh nghịch ngầm. Vở kịch định sẽ công diễn vào ngày thứ Sáu cuối cùng của tháng Mười một ở tòa thị chính; nó được quảng cáo rộng rãi và vé bán hết sạch sành sanh. Anne và Katherine mất hai buổi chiều trang trí hội trường, thuê ban nhạc và mời một ca sĩ soprano nổi tiếng ở Charlottetown đến hát giữa các màn. Buổi tổng duyệt với trang phục đã thành công mỹ mãn. Jen thật sự xuất sắc và cả dàn diễn viên còn lại cũng không thua kém. Buổi sáng thứ Sáu Jen không đến trường; và chiều hôm đó mẹ cô nàng nhắn lại rằng Jen bị ốm và cổ họng rất đau… họ e là cô nàng đã bị viêm amiđan. Mọi người liên quan cảm thấy hết sức thương cô nàng, nhưng chắc chắn cô nàng không thể tham gia biểu diễn vở kịch tối đó rồi.

Katherine và Anne thẫn thờ nhìn nhau, cảm thấy gần gũi dù chỉ là một lần trước nỗi tuyệt vọng chung.

“Chúng ta phải hoãn buổi công diễn lại thôi,” Katherine chậm rãi nói. “Và thế có nghĩ là thất bại. Sang tháng Mười hai chúng ta sẽ phải lo lắng rất nhiều chuyện khác. Ôi dào, tôi luôn luôn nghĩ là thật ngốc nghếch khi cố dựng một vở kịch vào thời gian này trong năm mà.”

“Chúng ta sẽ không hoãn lại buổi công diễn,” Anne tuyên bố, đôi mắt cô long lên xanh biếc chẳng kém gì Jen. Cô không nói rõ với Katherine Brooke, nhưng cô biết rõ mồn một như mọi chuyện khác trong đời rằng khả năng Jen Pringle bị viêm amiđan cũng bằng với khả năng cô lăn đùng ra bệnh trong lúc này vậy. Đây là một cái bẫy ác ý, chẳng biết có thêm tay Pringle nào khác tham gia hay không, mục đích của họ là muốn hủy hoại vở kịch vì cô, Anne Shirley, là người đứng đằng sau.

“Ôi dào, nếu cô muốn thì cô cứ đi mà làm!” Katherine nhún vai khinh khỉnh. “Nhưng cô định sẽ làm gì nào? Nhờ ai đó cầm sách đọc lời thoại ư? Như thế sẽ làm hỏng hết cả vở kịch... Mary là linh hồn của vở kịch mà.”

“Sophy Sinclair có thể diễn vai đấy hay chẳng kém gì Jen. Bộ trang phục coi bộ cũng vừa với con bé, và tạ ơn Chúa, chị là người may và vẫn đang giữ nó, chứ không phải là Jen.”

Đêm hôm đó vở kịch được trình diễn đúng hẹn với khán giả ngồi chật ních. Cô bé Sophy tài hoa diễn vai Mary... trở thành Mary, điều mà Jen Pringle không bao giờ làm nổi... trông như Mary với bộ váy nhung, đăng ten và trang sức. Các học sinh trường trung học Summerside ngỡ ngàng dõi theo Sophy đầy thán phục, họ chưa bao giờ thấy cô gái mặc thứ gì khác ngoại trừ những chiếc váy vải séc tối om đơn điệu lỗi mốt, áo choàng lùm thùm và chiếc mũ nhăn nhúm. Thế là cô gái nằng nặc bị thuyết phục trở thành thành viên thường trực của câu lạc bộ kịch – Anne đích thân trả hội phí cho cô – và kể từ đó trở đi, cô gái trở thành một trong những học sinh “nổi tiếng” ở trung học Summerside. Nhưng không ai ngờ được hoặc tưởng tượng được, kể cả chính Sophy, rằng đêm hôm đó, cô đã đặt bước đầu tiên trên con đường dẫn tới hào quang danh vọng. Hai mươi năm sau Sophy Sinclair là một trong những nữ diễn viên hàng đầu ở Mỹ. Nhưng đối với cô có lẽ không tràng pháo tay nào ngọt ngào tuyệt vời bằng những tiếng hò reo náo nhiệt khi màn buông xuống kết thúc vở kịch ở tòa thị chính Summerside.

Câu chuyện mà bà James Pringle đem về nhà kể cho cô con gái Jen hẳn sẽ khiến cho cô nàng mắt xanh lè vì ganh tị nếu như nó vốn không xanh sẵn rồi. Ít nhất cũng có một lần Jen gặp phải quả báo, như Rebecca Dew thốt lên đầy cảm xúc. Và hệ quả của nó là lời xúc phạm trong bài luận “Chuyện quan trọng nhất xảy ra trong tuần.”

Anne đi đến nghĩa địa cũ theo lối mòn giữa hai bờ kè đá phủ rêu cao xen lẫn những cành dương xỉ phủ đầy sương giá. Những cây dương nhọn Lombardy mảnh dẻ chưa bị ngọn gió tháng Mười một tước sạch lá mọc cách quãng hai bên đường, in bóng sẫm màu lên những ngọn đồi tím biếc xa tít tắp; nhưng nghĩa trang cũ với nửa số bia mộ đã siêu vẹo được bao quanh bởi hàng linh sam tăm tắp cao ngất ủ ê. Anne không nghĩ là sẽ gặp ai ở đó nên có chút bất ngờ khi thấy cô Valentine Courtaloe với chiếc mũi dài thanh tú, đôi môi mỏng mong manh, bờ vai gầy nghiêng nghiêng và phong cách quý phái kiên cường ở đằng sau cánh cổng nghĩa địa . Cô đương nhiên là có quen cô Valentine rồi, cũng như tất cả mọi người khác ở Summerside. Cô ấy là thợ may địa phương “duy nhất” và biết tỏng tòng tong mọi chuyện đáng để biết về mọi người, dẫu còn sống hay đã chết. Anne muốn đi lang thang trong nỗi cô độc, đọc những dòng văn bia xưa cũ đầy đặc sắc, đoán ra tên của những người thương yêu khuất bóng bị lớp địa y che phủ. Nhưng cô không thể tránh đi khi cô Valentine chuồi tay khoác lấy tay cô và cùng đi thưởng thức khu nghĩa trang, nơi mà số người nhà Courtaloe an nghỉ cũng đông chẳng kém gì nhà Pringle. Cô Valentine không có một giọt máu Pringle nào và một trong những học trò cưng của Anne là cháu trai của cô. Do vậy, không cần phải quá sức nỗ lực để cư xử lịch thiệp với cô ấy, ngoại trừ chuyện phải để ý không bao giờ được bóng gió rằng cô ấy ‘khâu vá để kiếm sống’. Nghe đồn cô Valentine rất nhạy cảm về chuyện này.

“ Tôi mừng vì đã tình cờ ghé qua đây chiều nay,” cô Valentine nói. “Tôi có thể kể cho cô nghe mọi chuyện về tất cả mọi người được chôn cất ở đây. Theo ý tôi, cô phải biết hết cả trong lẫn ngoài của từng xác chết thì mới cảm thấy thú vị ở nghĩa trang. Tôi thích đi dạo ở đây hơn là ở nghĩa trang mới. Chỉ có những gia đình lâu đời mới được chôn cất ở đây, còn nghĩa địa mới thì chỉ toàn những tay mơ Tom, Dick, Harry. Gia tộc Courtaloe được chôn cất ở góc này. Ôi chao, phải nói là gia đình chúng tôi có số đám tang nhiều khủng khiếp.”

“Cháu tưởng gia đình lâu đời nào cũng vậy chứ,” Anne nhận xét, bởi vì rõ ràng cô Valentine đang mong chờ cô nói gì đó đáp lại.

“Đừng có nghĩ là bất kỳ gia đình nào cũng được như gia đình tôi,” cô Valentine kêu lên ganh tị. “Chúng tôi rất yếu ớt. Hầu hết chết chỉ vì một cơn ho. Đây là ngôi mộ của dì Bessie của tôi. Dì ấy là một vị thánh sống nếu thánh sống có tồn tại. Nhưng không nghi ngờ gì, bà chị của dì, dì Cecilia, là đề tài trò chuyện thú vị hơn hẳn. Lần cuối cùng gặp dì, dì bảo tôi, ‘Ngồi xuống nào, bé cưng, ngồi xuống nào. Dì sẽ chết vào tối nay lúc mười một giờ mười phút, nhưng không lý gì mà chúng ta không thể tận dụng những giây phút cuối cùng để tám cho thỏa thuê, ‘Điều kỳ lạ là, cô Shirley ạ, dì ấy quả thật qua đời lúc mười một giờ mười phút. Cô có thể cho tôi biết làm sao mà dì biết trước được như thế không?”

Anne không thể trả lời.

“Cụ cố Courtaloe được chôn cất ở đây. Năm 1760 cụ đến đây và sống bằng nghề đóng xa quay sợi. Tôi nghe nói trong suốt cuộc đời cụ đóng tới một ngàn bốn trăm chiếc xa. Khi cụ mất, mục sư giảng đoạn Kinh Thánh ‘Công việc bám theo sau’, và lão Myrom Pringle bảo rằng trong trường hợp đó thì con đường đến thiên đường đằng sau ông cố nhà tôi sẽ tắc nghẽn bởi những chiếc xa quay sợi. Cô có cho rằng nhận xét như thế thì chẳng có gu gì cả không, cô Shirley?”

Nếu người nói không phải là một tay Pringle, Anne có lẽ đã không đáp một cách quả quyết như vậy, “Đương nhiên rồi!” Vừa đáp, cô vừa ngắm một bia mộ được trang trí hình sọ người và xương bắt tréo, cứ như cô đang nghi ngờ về gu thẩm mỹ của cả người nằm dưới đó nữa.

“Bà chị họ Dora của tôi được chôn cất ở đây. Chị ấy có tới ba đời chồng nhưng ai cũng qua đời rất sớm. Dora đáng thương dường như không gặp may trong việc chọn một người đàn ông khỏe mạnh. Người chồng cuối của chị ấy là Benjamin Banning... không được chôn cất ở đây... ông ta đòi được chôn ở Lowvale bên cạnh người vợ đầu tiên... ông ta hấp hối mà vẫn chưa giảng hòa với bà ta. Dora khuyên nhủ rằng ông ta sẽ đi tới một thế giới tốt đẹp hơn. ‘Ờ hớ, ờ hớ,’ Ben đáng thương đáp trả, ‘nhưng tôi đã khá quen với những gì kém hoàn hảo ở thế giới này rồi.’ Ông ta uống sáu mươi mốt loại thuốc khác nhau, mặc dù thế, ông ta cũng sống lai nhai được thêm một khoảng thời gian đáng kể. Cả gia đình của ông chú David Courtaloe nằm ở đây. Trước mỗi ngôi mộ đều có trồng một cây hoa hồng bắp cải, và ôi chao, chúng nở đẹp hết sảy! Hè nào tôi cũng đến đây hái chúng cho vào lọ hoa khô. Để chúng nở không thì thật là phí, cô có nghĩ vậy không?”

“Cháu... chắc là thế.”

“Cô em gái đáng thương Harriet của tôi nằm ở đây,” cô Valentine thở dài. “Nó có mái tóc tuyệt vời... giống màu đỏ của cô... nhưng có lẽ không đỏ như thế. Mái tóc dài đến tận đầu gối. Khi mất thì nó đã đính hôn rồi. Tôi không ham lấy chồng cho lắm, nhưng tôi nghĩ đính hôn cũng khá là hay đó. Ôi, đương nhiên tôi cũng có vài ba cơ hội... có lẽ tôi đã quá khó tính... nhưng một người họ Courtaloe không thể kết hôn với bất kỳ ai, phải thế không?”

Rõ là cô ấy không thể làm thế rồi.

“Frank Digby... ở góc đằng kia dưới bóng cây sơn... muốn lấy tôi. Tôi có cảm thấy chút ân hận khi từ chối anh ta... nhưng một tay họ Digby, ôi trời đất ơi! Anh ta sau đó cưới Georgina Troop. Cô nàng lúc nào cũng đi nhà thờ muộn một chút để khoe váy áo. Ôi chao, cô nàng ham ăn diện lắm. Cô nàng được chôn trong một chiếc váy xanh lơ tuyệt đẹp... tôi may cho cô nàng mặc đi dự đám cưới nhưng cuối cùng cô nàng lại mặc nó trong tang lễ của chính mình. Cô nàng bỏ lại ba đứa bé con rất đáng yêu. Chúng thường ngồi phía trước tôi trong nhà thờ và tôi hay cho chúng kẹo. Cô có nghĩ rằng cho con nít kẹo trong nhà thờ là sai không, cô Shirley? Không phải là kẹo bạc hà... loại ấy thì không sao... dường như kẹo bạc hà có cái gì đó khá là thiêng liêng, cô có nghĩ vậy không? Nhưng những đứa bé đáng thương kia không thích món đó.”

Khi khu vực của nhà Courtaloe không còn sót một ai, những lời hồi tưởng của cô Valentine trở nên có phần cay độc hơn. Chẳng có gì đáng để ý nếu không phải là họ Courtaloe.

“Bà cụ Russell Pringle nằm ở đây. Tôi thường tự hỏi liệu bà ta có lên được thiên đường không.”

“Vì sao thế?” Anne kêu lên khá sốc.

“Ôi dào, bà ta luôn ghét bà chị, Mary Ann, người chết trước bà ta vài tháng. ‘Nếu Mary Ann ở thiên đường thì tôi sẽ không đến đó đâu,’ bà ta tuyên bố. Và cưng à, bà ta là loại phụ nữ nói gì làm đó... kiểu Pringle đấy mà. Họ thời con gái của bà ta là Pringle và bà ta kết hôn với ông anh họ Russell. Đây là bà Dan Pringle... Janetta Bird. Mất đúng một ngày trước khi tròn bảy mươi tuổi. Người ta đồn rằng bà ta không dám sống lâu hơn cái ngưỡng thất thập cổ lai hy dù chỉ một ngày, bởi vì đó là giới hạn trong Kinh Thánh. Lời đồn tức cười quá, phải không? Tôi nghe nói chết là điều duy nhất bà ta dám làm mà không cần xin phép chồng. Cưng à, cô có biết ông ta từng làm gì khi bà ta mua một chiếc mũ mà ông ta không thích không?”

“Cháu không thể tưởng tượng ra được.”

“Ông ta ăn nó,” cô Valentine nghiêm túc tuyên bố. “Đương nhiên đó chỉ là một chiếc mũ nhỏ… ren và hoa… không có lông. Tuy nhiên, phải nói là nó khá khó tiêu đấy. Tôi đoán là dạ dày ông ta sẽ đau quặn trong một thời gian dài cho coi. Đương nhiên là tôi không tận mắt thấy ông ta ăn nó, nhưng ai cũng bảo với tôi rằng chuyện thật xảy ra như thế. Cô nghĩ sao nào?”

“Cháu tin là một tay Pringle thì có thể làm được mọi trò,” Anne cay đắng đáp.

Cô Valentine siết chặt tay cô cảm thông.

“Tôi thông cảm với cô lắm… thật đấy. Bọn họ cư xử với cô thật là khủng khiếp. Nhưng không phải Summerside chỉ toàn là Pringle, cô Shirley ạ.”

“Đôi khi cháu nghĩ ở đây chỉ toàn là người họ Pringle thôi,” Anne nói với nụ cười phiền muộn.

“Không, không phải thế đâu. Vẫn còn rất nhiều người muốn thấy cảnh cô chiến thắng bọn họ. Cô đừng đầu hàng dù bọn họ có giở trò gì đi nữa. Chẳng qua là họ bị Satan nhập vào người đấy thôi. Nhưng bọn họ rất gắn bó với nhau, và bà Sarah rất muốn người họ hàng của họ làm hiệu trưởng.

“Nathan Pringle nằm ở đây. Nathan luôn tin rằng bà vợ cố đánh thuốc cho mình chết, nhưng ông ta không phiền gì. Ông ta tuyên bố rằng thế thì cuộc sống càng thêm thú vị. Có lần ông ta nghi ngờ bà vợ bỏ thuốc độc axen vào món cháo. Ông ta đem ra ngoài cho con lợn ăn thử. Ba tuần sau con lợn chết. Nhưng ông ta nói rằng đó có lẽ là trùng hợp ngẫu nhiên, dù sao thì ông ta cũng không chắc đó là con lợn mà ông ta cho ăn cháo. Cuối cùng thì bà vợ qua đời trước và ông ta bảo rằng bà ấy luôn là một người vợ tốt, ngoại trừ vấn đề kể trên. Tôi nghĩ nên khoan dung cho rằng ông ta đã nhầm lẫn về chuyện đó.”

“ ‘Tưởng nhớ đến cô Kinsey,’” Anne đọc to đầy kinh ngạc. “Đúng là một đoạn văn bia kỳ lạ! Cô ấy không có cái tên nào khác sao?”

“Nếu có thì cũng chẳng ai biết cả,” cô Valentine đáp. “Cô ấy đến từ Nova Scotia và làm việc cho nhà George Pringle suốt bốn mươi năm. Cô ấy bảo tên mình là Kinsey và tất cả mọi người đều gọi cô ấy như vậy. Cô ấy đột ngột qua đời và sau đó mới phát hiện ra là chẳng ai biết tên thánh của cô ấy là gì, cũng chẳng tìm được họ hàng gì của cô ấy. Thế là họ viết trên bia mộ như vậy đấy… nhà George Pringle chôn cất cô ấy rất đàng hoàng và trả tiền cho bia mộ. Cô ấy là một người hầu gái chăm chỉ và trung thành, nhưng nếu cô gặp cô ấy, có lẽ sẽ nghĩ rằng khi sinh ra, cô ấy đã là cô Kinsey rồi. Vợ chồng James Morley nằm ở đây. Tôi có tham dự đám cưới vàng của họ. linh đình lắm nhé… Quà tặng này, diễn văn này, hoa hòe này… và con cái của họ đều có mặt, họ mỉm cười cúi chào trong khi căm ghét nhau hết mức.”

“Ghét nhau ư?”

“Ghét cay ghét đắng, cưng ạ. Ai cũng biết điều đó. Họ căm ghét nhau nhiều năm lắm rồi… thực ra là gần suốt thời gian kết hôn. Họ cãi nhau trên đường từ nhà thờ về nhà sau đám cưới. Tôi thường tự hỏi làm thế nào mà họ có thể thu xếp nằm nghỉ yên bình bên cạnh nhau thế này.”

Một lần nữa Anne rùng mình. Khủng khiếp quá… ngồi đối diện với nhau trên bàn ăn… nằm bên cạnh nhau mỗi tối… đi đến nhà thờ làm lễ rửa tội cho con cái… và lúc nào cũng căm thù nhau! Nhưng lúc đầu thì họ phải cũng phải yêu nhau chứ. Liệu cô và Gilbert có bao giờ… nhảm nhí! Đám Pringle bắt đầu làm cô khùng rồi.

“Anh chàng John MacTabb đẹp trai được chôn cất ở đây. Mọi người luôn ngờ rằng anh ta là lý do khiến Annetta Kennedy đâm đầu xuống biển tự tử. Đám nhà MacTabb ai cũng đẹp trai, nhưng cô không thể tin bất cứ lời nào của họ. Ở đây từng có một bia mộ của ông chú Samuel của anh ta, ông này được đồn là chết đuối ngoài biển năm chục năm trước. Khi thấy ông ta hóa ra vẫn còn sống gia đình bèn dỡ bia mộ xuống. Người bán không chịu nhận lại bia mộ, thế là bà Samuel đành dùng nó để làm thớt cán bánh. Cứ nghĩ đến việc dùng một phiến cẩm thạch để trộn bột coi! Cái bia mộ cũ ấy dùng tốt chán, bà ta bảo thế. Món bánh quy mà đám trẻ nhà MacTabb hay đem đến trường lúc nào cũng có dấu chữ hay hình vẽ khắc lên… những mẩu văn bia ấy mà. Bọn họ chia bánh hào phóng lắm, nhưng tôi chẳng dám ăn miếng nào. Tôi nhạy cảm với thể loại ấy lắm. Ông Harley Pringle nằm ở đây. Ông ta từng phải đẩy Peter MacTabb dọc đại lộ chính trên một xe cút kít, đầu đội mũ bon nê, vì một lần cá cược bầu cử. Tất cả Summerside thò đầu ra chiêm ngưỡng… ngoại trừ đám Pringle, tất nhiên rồi. Họ suýt chết vì xấu hổ. Milly Pringle ở đây. Tôi rất mến Milly, dẫu cô ấy họ Pringle. Cô ấy rất xinh đẹp và thanh thoát như một nàng tiên. Cưng à, thỉnh thoảng tôi nghĩ, vào những buổi chiều thế này, cô ấy sẽ chuồi dậy khỏi mộ và nhảy nhót như thuở xưa. Nhưng tôi cho rằng một người theo đạo không nên dung túng những suy nghĩ như thế. Đây là mộ của Herb Pringle. Ông ta là một trong những tay Pringle vui tính. Ông ta luôn luôn làm mọi người phá lên cười ngay trong nhà thờ… khi một con chuột rơi ra từ cụm hoa trên mũ của Meta Pringle lúc cô ta cúi xuống cầu nguyện. Tôi không cảm thấy muốn cười tí ti nào. Tôi không biết con chuột đi đằng nào rồi. Tôi kéo váy áp sát vào mắt cá chân rồi túm chặt lấy nó cho đến khi xong lễ, nhưng nó khiến tôi chẳng thưởng thức được bài giảng chút nào. Herb ngồi ngay đằng sau tôi, và ông ta gào tướng lên. Những người không thể nhìn thấy con chuột nghĩ rằng ông ta đã phát điên. Đối với tôi, tràng cười của ông ta cứ mãi văng vẳng. Nếu ông ta còn sống ông ta sẽ bênh vực cô, dù Sarah có nói gì đi chăng nữa. Đương nhiên đây là đài tưởng niệm thuyền trưởng Abraham Pringle.”

Nó ngạo nghễ chiếm lĩnh cả nghĩa trang. Bốn bục đá nhỏ dần đặt chồng lên nhau tạo thành một bệ vuông, một trụ cẩm thạch lớn nhô lên từ đó, đỉnh là một chiếc bình trên có phủ một diềm đá quái dị, bên dưới là một thiên sứ béo mập đang thổi tù và.

“Xấu quá đi mất!” Anne thẳng thắn nhận xét.

“Ôi, cô thấy vậy sao” cô Valentine có vẻ khá bất ngờ. “Khi mới dựng lên thì ai cũng thấy rất đẹp. Thiên sứ kia vốn là muốn ám chỉ Gabriel thổi kèn đồng. Tôi nghĩ rằng đó là một điểm nhấn thanh lịch cho cả nghĩa trang. Chi phí xây dựng đến chín trăm đô la đấy. Thuyền trưởng Abraham là một ông lão đáng trọng. Tiếc là ông đã mất rồi. Nếu ông ấy còn sống thì đám Pringle sẽ không chèn ép cô như thế này đâu. Tôi không ngạc nhiên khi thấy Sarah và Ellen rất tự hào vì cha, mặc dù tôi nghĩ họ có hơi tung hô quá đáng.”

Đến cổng nghĩa trang, Anne quay đầu nhìn lại. Một khoảng lặng thanh bình lạ kỳ đọng lại giữa vùng đất lặng gió. Ánh trăng đã bắt đầu vươn những ngón tay dài len qua những cụm linh sam sẫm tối, thỉnh thoảng lại lướt qua một tấm bia mộ nào đó, để lại những bóng nghiêng với hình thù quái dị. nhưng dù sao thì nghĩa trang cũng không phải là một nơi buồn thảm. Những người an nghỉ nơi đó dường như trở nên sống động hơn sau những câu chuyện của cô Valentine.

“Tôi nghe nói cô có sáng tác truyện,” cô Valentine lo âu thốt lên khi họ đã bước xuống đường. “Cô sẽ không viết lại những gì tôi vừa kể trong truyện của mình chứ?”

“Cô có thể an tâm, cháu sẽ không làm thế đâu,” Anne hứa.

“Thế cô có nghĩ rằng nói xấu người chết thực sự là… sai lầm… hay nguy hiểm không?” cô Valentine thì thầm, có chút lo lắng.

“Cháu không cho rằng thế,” Anne đáp. “Chỉ là.. có phần không công bằng… giống như đánh những người không có khả năng tự vệ vậy. Nhưng cô không hề nói điều gì quá đáng về bất kỳ ai, cô Courtaloe ạ”

“Tôi có kể với cô rằng Nathan Pringle nghĩ rằng vợ ông ta đã cố đầu độc mình…”

“Nhưng cô vẫn chỉ nghi ngờ chứ không buộc tội bà ấy…” và thế là cô Valentine an tâm quay về.