To: Anna Oliphant

From: Bridgette Saunderwick

Tiêu đề: Đừng có nhìn đấy…

... nhưng mà góc phải cuối giường cậu bị tuột ra rồi kìa. Ha! Nhìn rồi nha. Bây giờ đừng tiếp tục vuốt thẳng các nếp nhăn vô hình nữa. Nghiêm túc đấy. Le Academe du Fraunch thế nào? Có tin gì nóng sốt tớ nên biết không? À mà, đoán thử ai chung lớp Toán với tớ đi?? Drew đấy! Thằng đó nhuộm tóc đen và gắn nhẫn lên môi. Nó còn là đồ callipygian nữa (tra từ điển đi đồ lười). Tớ vẫn ngồi ăn trưa như cũ, nhưng không có cậu nên cứ thấy khang khác thế nào ấy. Chưa kể con bé Cherrie lại xuất hiện. Nó cứ đi hất tóc tán loạn và tớ thề đã nghe thấy cậu đang ngân nga đoạn quảng cáo TRESemmé. Tớ sẽ lấy con hình nộm Darth Maul của thằng Sean mà tự móc mắt ra nếu con bé đó ngồi với tụi tớ mỗi ngày. Nhân tiện, mẹ cậu đã thuê tớ trông chừng thằng bé sau giờ học nên tớ phải đi đây. Không muốn thằng bé chết trong ca trực của tớ đâu.

Cậu xấu xa lắm. Về nhà đi.

Bridge

Tb: Ngày mai họ sẽ công bố vị trí trưởng nhóm. Chúc tớ may mắn đi. Nếu họ giao vai trò của tớ cho Kevin Quiggley, thì tớ sẽ lấy Darth Maul móc mắt HẮN.

Callipygian. Có cặp mông nẩy nở. Hay đấy, Bridge.

Bạn thân nhất của tôi là một kẻ nghiện chơi chữ. Một trong những tài sản đáng giá nhất của nó là cuốn OED[1] mua ở chợ gia đình hai năm trước. Đó là một bộ sưu tập hai mươi quyển không chỉ cung cấp nghĩa từ ngữ mà còn lịch sử của chúng. Bridge luôn sử dụng những từ khó nuốt lúc nói chuyện vì nó muốn nhìn thấy mọi người phải chật vật giả vờ là mình thông hiểu. Đã từ lâu tôi học được rằng đừng giả vờ hiểu nó đang nói gì. Nó sẽ phát hiện ra trò giả tạo của tôi ngay.

[1] Oxford English Dictionary: từ điển Anh ngữ Oxford.

Tôi không thể tin mẹ lại thuê bạn tôi trông chừng thằng Sean. Tôi biết nó là sự lựa chọn sáng suốt nhất vì chúng tôi luôn cùng nhau giám sát thằng nhóc, nhưng nó ở đó mà không có tôi thì thật kỳ quặc. Nó nói chuyện với mẹ tôi trong lúc tôi mắc kẹt ở bên kia thế giới. Kỳ quặc quá thể. Lần tới, nó sẽ bảo vừa nhận công việc thứ hai ở rạp chiếu phim cho xem.

Hai ngày rồi Toph không gửi thư cho tôi. Không phải tôi mong cậu ta viết thư mỗi ngày hay mỗi tuần nhưng… đã có một cái gì đó không thể chối bỏ giữa hai đứa tôi. Ý tôi là chúng tôi đã hôn. Chuyện đó – dù là chuyện gì – sẽ kết thúc vì tôi ở đây ư?

Tên thật của cậu ta là Christopher, nhưng cậu ta ghét bị gọi là Chris nên chọn tên Toph. Mắt cậu ta xanh ngắt và tóc mai dài thượt. Chúng tôi cùng thuận tay trái, cùng yêu khoai tây chiên phô mai ở quầy thức ăn vặt và cùng ghét Cuba Gooding Jr[2]. Tôi “đổ” Toph từ ngày đầu đi làm khi cậu ta kề đầu vào dưới máy ICEE và tu ừng ực từ vòi để làm tôi cười. Cậu ta có cái miệng Mâm Xôi Xanh suốt buổi làm việc hôm đó.

[2] Nam diễn viên người Mỹ từng đoạt giải Oscar.

Không nhiều người có thể làm cho răng mình trở nên xanh lè. Nhưng tin tôi đi, Toph có thể đấy.

Tôi cẩn thận tải lại hộp thư đến nhưng không có thư mới. Tôi đã cắm cọc trước máy tính nhiều giờ liền đợi Bridge tan trường. Thật mừng khi nó gửi thư cho tôi. Vì một vài lý do tôi muốn nó viết thư trước. Có lẽ vì tôi muốn nó nghĩ tôi hạnh phúc và bận rộn đến nỗi không có thời gian tán gẫu. Dù trong thực tế tôi đang rất buồn bã, cô đơn.

Và đói ngấu. Cái tủ lạnh bé xíu của tôi trống rỗng.

Tôi dùng bữa tối ở nhà ăn nhưng lại tránh dãy món chính và nhồi thêm bánh mì để cầm cự. Có thể sáng mai St. Clair sẽ lại gọi bữa sáng cho tôi. Hoặc Meredith, tôi cá nó sẽ làm thế.

Tôi hồi âm cho Bridge, kể về những người bạn mới, về cái nhà ăn điên rồ mang đẳng cấp nhà hàng và điện Pantheon khổng lồ nơi cuối phố. Dù không muốn nhưng tôi vẫn mô tả St. Clair và đề cập chuyện cậu ta trườn qua Meredith để mượn bút của tôi ngay lúc Giáo sư Wakefield chỉ định các cặp thực hành phòng thí nghiệm. Thầy đã nghĩ cậu ta ngồi cạnh tôi, nên từ giờ St. Clair với tôi là một cặp thực hành trong SUỐT NĂM NAY.

Đó là điều hay ho nhất đã xảy ra trong ngày.

Tôi cũng kể Bridge nghe về lớp học bí ẩn mang tên Cuộc Sống, La Vie, vì hai đứa chúng tôi đã dành trọn mùa hè để phỏng đoán linh tinh. (Tôi: “Tớ cá là bọn tớ sẽ tranh luận về Big Bang và ý nghĩa của sự sống.” Bridge: “Hâm ơi, bọn họ sẽ dạy hâm kỹ thuật hít thở và chuyển đổi thức ăn thành năng lượng cơ.”) Cả buổi hôm nay bọn tôi chỉ ngồi im và làm bài tập.

Thật đáng tiếc.

Tôi dành thời gian đó để đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên được chỉ định trong môn Ngữ văn. Ố là la. Nếu tôi không nhận ra mình đang ở Pháp thì giờ tôi đã biết. Vì cuốn Như nước cho sô-cô-la[3] này có sex hẳn hoi. ĐẬM ĐẶC sex. Dục vọng của một phụ nữ đã khiến cho cả tòa nhà bốc cháy, rồi một người lính ném cơ thể trần trụi của cô ta lên ngựa và họ tình tự trong lúc chạy đi. Không đời nào họ cho tôi đọc quyển sách này ở Bible Belt[4]. Cuốn truyện nóng bỏng nhất mà chúng tôi có là cuốn Chữ A màu đỏ[5].

[3] Tên tiếng Anh: Like water for Chocolate, tác giả Laura Esquivel, xuất bản lần đầu tại Mexico năm 1995.

[4] Vành đai Thánh Kinh: Nằm ở miền Nam và Trung – Tây nước Mỹ. Nhiều người theo đạo Tin Lành sống ở đây.

[5] Tên tiếng Anh: The Scarlet Letter, là một cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1850 của nhà văn Nathaniel Hawthorne. Lấy bối cảnh thành phố Boston thế kỷ 17, tiểu thuyết kể về Hester Prynne, một phụ nữ trẻ đẹp bị buộc phải mang mẫu tự “A” (viết tắt của Adultery nghĩa là ngoại tình) màu đỏ thắm thêu trên ngực áo suốt đời vì bị khép vào tội ngoại tình – một tội mà bấy giờ sẽ bị tử hình nếu không có yếu tố khoan dung.

Tôi phải kể Bridge nghe về cuốn sách này mới được.

* * *

Gần nửa đêm tôi mới viết xong email nhưng hành lang vẫn còn ồn ào. Học sinh lớp mười một và mười hai được tự do khá nhiều vì người lớn cho rằng chúng tôi đã đủ chín chắn để biết cách cư xử. Nhưng tôi lại có những nghi ngại với đám bạn cùng lớp. Cậu bạn đối diện hành lang đã sắp một kim tự tháp bia cao ngất ngoài cửa vì ở Paris mười sáu tuổi đã được phép uống bia. Và đến mười tám thì được đụng vào rượu mạnh.

Không biết khi đồng ý cho tôi đến đây, mẹ tôi có ý kiến gì về việc tôi được pháp luật cho phép say xỉn không nhỉ? Bà đã khá ngạc nhiên khi họ đề cập đến vấn đề bia bọt ở lớp Kỹ năng sống và tôi đã được nghe giảng một bài dài về tính trách nhiệm trong bữa ăn tối. Nhưng tôi không định say xỉn. Với tôi bia chẳng khác nào nước tiểu.

Có vài người làm bán thời gian ở bàn lễ tân nhưng chỉ một người sống ở khu Quản Lý. Anh ta tên Nate, sống ở tầng một, đang theo học lớp cao học ở một trường nào đó quanh khu này. Ắt hẳn TMOP đã trả một đống tiền để anh ta sống với chúng tôi.

Nate chỉ khoảng hai mươi, thấp bé, nhợt nhạt và đầu cạo trọc lốc. Nghe có vẻ lạ nhưng anh ta thật sự cuốn hút. Tuy nhỏ nhẹ và dường như là mẫu người biết lắng nghe, nhưng giọng anh ta tỏa ra mùi trách nhiệm và thái độ đừng-có-dở-trò-với-tôi. Bố mẹ tôi quý anh ta lắm. Anh ta cũng đặt một tô “áo mưa” ở sát cửa phòng mình.

Tôi tự hỏi liệu hai cụ nhà tôi có thấy cái tô đó không.

Học sinh hai năm đầu ở một ký túc xá khác. Chúng phải ở chung, các tầng được chia theo giới tính và chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt. Mấy bé đó cũng phải chịu lệnh giới nghiêm còn bọn tôi thì không. Chúng tôi chỉ phải ký vào một tờ giấy mỗi khi đi về vào buổi tối để Nate biết chúng tôi vẫn sống. Tôi tin chắc không ai từng lợi dụng sự canh gác “cẩn mật” này.

Tôi ì ạch đi ra hành lang để dùng nhà vệ sinh và phải xếp hàng – dù là nửa đêm vẫn luôn có một hàng ở đó – sau Amanda, đứa đã tấn công St. Clair ở bữa sáng. Nó nhếch mép trước cái quần bò bạc màu và áo thun Orange Crush cổ điển của tôi.

Tôi không biết nó sống cùng tầng với mình. Siêu chưa.

Chúng tôi không trò chuyện. Ngón tay tôi dò dẫm họa tiết hình hoa trên giấy dán tường. Tòa nhà Lambert là một sự pha trộn đặc biệt giữa nét tinh tế của Paris và tính thực dụng của thanh thiếu niên. Đèn thủy tinh giúp khuôn viên ký túc xá tỏa sáng rực rỡ nhưng bóng đèn huỳnh quang lại thấp thoáng bên trong phòng ngủ. Nền nhà lát gỗ bóng loáng nhưng lại trải thảm công nghiệp. Hoa tươi và đèn ngủ Tiffany làm hành lang thêm duyên dáng yêu kiều, nhưng ghế sô-pha lại cũ mèm còn mặt bàn bị khắc các chữ cái và lời lẽ tục tĩu.

“Mày là Brandon mới đấy à,” Amanda nói.

“Sao?”

“Brandon. Số hai mươi lăm. Năm ngoái cậu ta bị đuổi khỏi trường; một giáo viên đã tìm thấy coca trong ba-lô của cậu ta.” Nó nhìn tôi và cau mày. “Dù sao thì mày từ đâu đến?” Tôi biết nó muốn hỏi điều gì. Nó muốn biết vì sao họ chọn một người như tôi thế vào chỗ trống.

“Atlanta.”

“Ồ,” nó kêu lên như thể đã giải thích được sự quê mùa toàn tập của tôi. Khỉ thật. Atlanta là một trong những thành phố lớn nhất nước Mỹ.

“Mày và St. Clair có vẻ khá hòa đồng trong bữa sáng.”

“Ừm.” Nó bị tôi đe dọa?

“Tao sẽ chẳng nghĩ gì nếu tao là mày,” nó tiếp tục. “Ngay cả khi mày đủ xinh đẹp để cướp St. Clair khỏi tay bạn gái cậu ấy. Bọn họ chẳng bao giờ xa nhau đâu.”

Đó là một lời khen? Phải không vậy? Cái trò nhấn nhá của nó thực sự làm thần kinh tôi căng thẳng. (Thần kinh tôi.)

Amanda ra vẻ ngáp dài. “Tóc hay đấy.”

Tôi vô thức sờ tóc mình. “Cảm ơn. Bạn tao đã nhuộm nó đấy.” Mới tuần trước Bridge vừa thêm một lọn dày vào mái tóc nâu sẫm của tôi. Bình thường tôi vén lọn tóc ra sau tai phải nhưng tối nay tôi cột đuôi ngựa.

“Mày thích nó hả?” nó hỏi. Dịch ra là Tao trông nó thật gớm.

Tôi buông tay. “Ừ. Thích tao mới làm chứ.”

“Tao chẳng cột nó như thế đâu. Trông mày giống một con chồn hôi vậy.”

“Chí ít cậu ấy cũng không bốc mùi như một con chồn.” Rashmi xuất hiện sau lưng tôi. Nó đến thăm Meredith; tôi nghe lõm bõm tiếng của họ qua vách tường. “Nước hoa thơm lắm, Amanda. Lần sau dùng nhiều hơn nhé. Không biết liệu ở London người ta có ngửi thấy mày không nhỉ?”

Amanda hầm hè. “Mắt kính đẹp đấy.”

“Đồ xịn mà,” Rashmi dửng dưng nhưng tôi thấy nó vẫn sửa lại kính. Móng tay nó sơn cùng màu xanh với gọng kính. Nó quay sang tôi. “Nếu cậu cần gì thì mình sống trên cậu hai tầng, phòng 601 nhé. Gặp cậu ở bữa sáng.”

Vậy là nó không ghét tôi! Hoặc cũng có thể nó ghét Amanda hơn. Dù sao thì tôi cũng biết ơn và chào tạm biệt bóng dáng khuất dần của nó. Nó vẫy tay rồi đi lên cầu thang trong lúc Nate đi xuống. Anh ta lặng lẽ và nhẹ nhàng tiếp cận chúng tôi.

“Ngủ sớm hả các em?”

Amanda cười ngọt ngào. “Dĩ nhiên.”

“Tuyệt. Ngày đầu tốt đẹp phải không Anna?”

Cảm giác mọi người ở đây đều đã biết tên mình thật là kỳ lạ. “Ừm. Cảm ơn Nate.”

Anh ta gật đầu như thể câu tôi vừa nói đáng để suy ngẫm rồi chúc ngủ ngon và đi về phía đám con trai tụ tập ở cuối hành lang.

“Tao ghét cái trò của thằng cha đó.” Amanda nói.

“Trò gì?”

“Tăm tia chúng ta. Đúng là đồ khốn.” Cừa phòng tắm mở ra, một bộ tóc đỏ nhỏ bé vòng qua Amanda đang trong tư thế của một Nữ Hoàng Ngưỡng Cửa. Con bé này chắc hẳn là học sinh lớp mười một vì tôi không thấy nó ở lớp Ngữ văn nâng cao. “Chúa ơi, mày bị xỉu trong đó hả?” Amanda hỏi. Làn da nhợt nhạt của con bé liền ửng hồng.

“Em ấy vừa dùng nhà vệ sinh mà,” tôi nói.

Amanda bước lên nền gạch, đôi dép lê màu tím bì bạch vỗ vào gót chân. Nó sập cửa. “Trông tao có vẻ quan tâm thật hả? Chồn Hôi?”