Ngoại truyện 2: Sông băng – P2

Ánh lửa hắt lên khuôn mặt của Côn Ni Mã, cậu bé nghi hoặc quan sát người đàn ông trung niên bên cạnh mình.

Người đàn ông trung niên có dáng vẻ trải đời, rắn rỏi.

Chân mày của ông tựa như đôi cánh của loài chim ưng, kiêu hùng mà oai dũng; môi giống như vách đá của núi thần Trác Mã Lạp Thố(còn gọi là Pearl Lake), hai mắt sâu thẳm như nước hồ Nạp Mộc Thố(hồ Namtso, nghĩa là Thiên Đường), chiếc mũi cao thẳng như dãy núi Cống Bố hùng vĩ (núi Gongga).

Vóc người ông cường tráng, cánh tay chắc nịch, vai rộng lưng dài, cao to lực lưỡng. Toàn thân ông khoác bộ quân phục rằn ri màu trắng, cách đây mấy tiếng đồng hồ, chính bộ rằn ri này đã đánh lừa thị giác nhiều người dưới trời tuyết mịt mờ.

Gia tộc của Ni Mã rất có danh tiếng ở địa phương, mang họ “Côn”. Dòng họ là tượng trưng cho địa vị, là danh hiệu của gia tộc.

Bé Côn mới lên năm tuổi, thậm chí chẳng biết ông ta từ đâu xuất hiện. Khi cậu bé đang ngồi trên một chiếc xe bò Tây Tạng đến Đạo Thành đưa quần áo cho cha, nửa đường bất chợt nổi gió tuyết lớn, có kẻ địch thình lình nhào ra đuổi bắt họ.

Lũ bò Tây Tạng bị dọa giật mình, thế là đoàn xe cũng rối loạn theo, con bò kinh hoảng kéo bé Côn lao thẳng về phía vách núi đằng xa, chẳng biết chạy được bao lâu, Ni Mã núp trong thùng xe chẳng dám ló đầu, sợ đến run bần bật.

Sau cùng có một tiếng súng nổ vang, con bò té ập trong vũng máu, thùng xe lật ngã khiến bé Côn bị hất văng ra ngoài.

Trên vách núi tuyết có một người nhảy xuống, chính là người đàn ông trung niên này. Ông chạy đến ôm lấy bé Côn, vội vàng trấn an: “Không sao rồi, cháu đừng sợ. May mà còn kịp.”

Hiện giờ, người đàn ông kia đang ngồi trên tảng đá trong hang núi, bắt đầu nhóm lửa, ba lô ném vào một góc, mới nãy bé Côn thấy ông móc ra một đống đồ vật kỳ quái từ trong cái túi đó.

Ông đưa tới một miếng chocolate, nhưng bé Côn chẳng chịu nhận.

“Không ăn à?” – Thanh âm của người đàn ông trầm thấp vững vàng – “Ngay cả chocolate mà cũng không thích, trẻ con kén ăn quá không tốt đâu đó.”

Bé Côn dè chừng ngó ông.

Người đàn ông trung niên lại nói: “Không có độc mà, để bác ăn cho cháu xem ha.”

Người đàn ông chỉ gặm một miếng nhỏ, rồi đưa chocolate cho Ni Mã, bảo rằng: “Bọc lớp giấy để cầm ăn, cho cháu hết đó.”

Bé Côn cầm miếng chocolate, chần chừ chốc lát, đoạn nếm thử một miếng ngay chỗ người đàn ông vừa cắn.

Người đàn ông trung niên trầm ngâm nhai kẹo cao su, hỏi: “Cháu tên gì?”

Bé Côn nghe không hiểu tiếng Hoa, người đàn ông vươn ngón tay chọc chọc vào ngực bé, hỏi lại: “Tên ấy, cháu tên là gì?”

Bé Côn lúc này đã hiểu, bèn lớn tiếng đáp: “Ni Mã!”

Người đàn ông trung niên: “…”

Người đàn ông trưng ra vẻ mặt không biết nói gì hơn, lát sau ông chỉ vào mình, giới thiệu: “Mông Kiến Quốc.”

Bé Côn gật đầu, cũng chỉ tay vào ngực mình, nói với Mông Kiến Quốc: “Ni Mã.”

Mông Kiến Quốc gật đầu, bé Côn lại vẽ một hình tròn trên mặt đất, chỉ chỉ vào hình tròn kia: “Ni Mã.” (Phần trước đã chú thích, Ni Mã tiếng Tây Tạng có nghĩa là vầng Thái Dương, cậu bé đang vẽ Mặt Trời đó. Còn ‘ni mã’ tiếng Hoa là ý chửi súc vật.)

Mông Kiến Quốc chẳng hiểu bé Côn đang muốn nói gì, chỉ đành gật đầu đáp: “Ni Mã, sáng mai bác dẫn cháu đi tìm ba nhé.”

Mông Kiến Quốc thản nhiên cầm khẩu súng lục đùa nghịch, xoay một vòng quanh ngón tay.

Bé Côn ăn hết nửa miếng chocolate, phần còn lại cẩn thận cất kỹ. Mông Kiến Quốc lấy chiếc áo khoác lính đắp lên người cậu bé, rồi ôm bé đến bên cạnh đống lửa để ngủ ngon hơn.

Bé Côn vùi mình trong áo khoác, cảm thấy thoải mái vô cùng, mùi của chiếc áo này rất dễ chịu, cũng rất ấm áp. Cậu bé bị quấn kín mít như kén sâu, bé len lén nhìn người đàn ông kia, thấy ông đang ngồi bên đống lửa ngắm một tấm hình trong bóp tiền.

Tinh mơ hôm sau, Mông Kiến Quốc bước vào hang núi, đánh thức bé Côn dậy: “Ta đi nào, mau dậy thôi.”

Bé Côn hẵng còn mơ màng buồn ngủ, Mông Kiến Quốc đành cõng bé lên, ra hiệu cho bé vòng tay ôm cổ mình, sau đó ông trở tay mặc áo khoác lính, gói chặt bé Côn và mình trong chiếc áo, rồi dặn dò: “Nếu cháu thấy lạnh thì ăn một chút chocolate nha.”

Bé Côn nằm sấp trên lưng Mông Kiến Quốc, ông xách ba lô lên, cõng bé tiến về phía trước.

Gió tuyết lại kéo tới, nhưng rất nhỏ vụn, hạt tuyết lất phất nhẹ bay giữa đất trời cao nguyên. Bé Côn ăn hết chocolate, xong thì vuốt phẳng lớp giấy gói, úp sát vào người Mông Kiến Quốc gấp đồ chơi.

Bé Côn nói câu gì đó, vươn tay chỉ về hướng xa.

Mông Kiến Quốc đứng nhìn tấm bia ven đường một hồi, đoạn xoay người nhắm thẳng hướng Đông. Để bé Côn ngồi chờ sau tảng đá, ông đi tìm chiếc xe máy giấu trong khe núi, chạy về đổ xăng đầy bình rồi ngoắt bé Côn leo lên xe, nổ máy, lao vút đi như điện xẹt.

Trước đó khoảng nửa tiếng.

Một khi gió tuyết kéo đến thì chẳng hay biết lúc nào là ngày, thời điểm nào là đêm. Khắp trời đất chìm trong âm u xám xịt, Mặt Trời khuất sau tầng mây. Mông Phong thoáng cảm giác có một bàn tay lạnh buốt áp lên trán mình, hắn mở mắt, bừng tỉnh.

“Có người đang tới.” – Quyết Minh ra tiếng.

Mông Phong hỏi: “Ba nhóc về rồi hả?”

Quyết Minh lấy ra một chiếc máy cảm ứng điện tử, lắc qua lắc lại trước mặt Mông Phong, nói rằng: “Có bốn chiếc xe cách chúng ta khoảng ba cây số, sẽ đến đây nhanh thôi.”

Mông Phong đánh ngáp một cái: “Chắc Lưu Nghiễn đã tìm được tình nguyện viên về đây.”

Đầu của hắn vẫn nhức bưng bưng, cảm cúm phát sốt sổ mũi đủ cả, ngồi ngây người một hồi mới tỉnh táo, vớ cái nón chụp lên quả đầu rối như tổ quạ. Hắn bước đến bên cửa sổ xe nhìn ra đằng trước.

Quyết Minh cũng ghé sát vào cửa sổ, Mông Phong bày trò: “Giờ chú đứng sau lưng nhóc, nhóc giả bộ làm bản mặt kỳ cục một chút, giống như cái đợt nhóc ở sau rèm cửa, vừa ‘chơi đùa’ với ba nhóc vừa tán chuyện với Lưu Nghiễn ấy…”

Quyết Minh: “Chú Mông à, chẳng bằng chú áp vào cửa sổ, tôi cầm ‘máy nả pháo’ nhắm thẳng vào chú mà đâm rút…”

Mông Phong: “Thôi đi vậy, chớ có nhắc tới thứ sếch toi kia nữa.”

Chiếc Jeep dừng bánh, người bên trong đều bước xuống xe, Mông Phong nhíu mày vẻ cảnh giác, hắn không thấy Lưu Nghiễn đâu cả.

“Nhóc mở lưới rào điện ra đi.” – Mông Phong bảo – “Chú xuống đó xem tình hình một lát.”

Quyết Minh hỏi: “Ai vậy?”

Mông Phong đáp: “Có thể là đội tình nguyện viên… Cũng chưa rõ nữa.”

Bốn chiếc xe, tổng cộng hai chục người, mỗi người cầm súng lục chậm rãi tới gần. Mông Phong đút súng sau túi quần, ngẫm nghĩ một hồi, hắn lại lấy thêm khẩu súng trường.

“Người trên xe là ai!” – Bên dưới có người quát hỏi, thanh âm bị ngăn cách bởi lớp kính cửa sổ nên nghe thấy rất nhỏ.

Mông Phong bắt lấy đầu mic của loa phóng thanh trên xe, hỏi vặn lại: “Các người là ai?”

“Chúng tôi đến từ chùa Trùng Cổ!” – Người bên dưới hô – “Là người Hoa đúng không? Xuống xe nói chuyện đi!”

Mông Phong đưa mắt ra hiệu, Quyết Minh gật đầu, hắn bèn đi xuống tựa người lên cửa xe. Bên kia nhìn thấy Mông Phong thì cất súng đi, Mông Phong cũng hạ súng.

“Không phải là lũ chó Tạng.” – Một kẻ thầm nói với đồng bọn của mình.

Mông Phong như phát giác được điều gì, một người đứng đầu lại ra tiếng: “Đi với chúng tôi nào, sao lại mò đến Cam Tư giữa tiết trời Đông rét mướt như thế? Là dân chạy nạn à?”

Mông Phong đáp: “Đại dịch zombie chấm dứt rồi, quân đội đã quay về đất liền, các anh đến đây tị nạn hả? Bây giờ có thể trở lại vùng Trung Nguyên được rồi đấy. Tôi là Mông Phong, anh tên gì?”

Người kia tiếp lời: “Vương Nghị Quân. Đây là Tôn Lỗi, còn đây là…”

Vương Nghị Quân lần lượt giới thiệu cho Mông Phong, nghe tên nhiều người cùng một lúc làm Mông Phong không kịp nhớ, chợt có người hỏi: “Ngoài kia đã hết nguy hiểm rồi sao?”

Mông Phong bảo: “Đúng vậy. Các anh tới đây lúc nào? Xe chúng tôi bị hư rồi! Hiện tại không đi được.”

Vương Nghị Quân nói: “Đến từ tháng Ba năm ngoái, anh chỉ có hai người thôi hả?”

Mông Phong giải thích: “Ngồi trên xe là thằng cháu tôi, còn có hai người bạn nữa, họ đã vào Đạo Thành tìm bộ ly hợp rồi.”

Vương Nghị Quân bảo: “Tiểu Hoàng, cậu xem giúp người ta đi.”

Bên cạnh lập tức có người đáp một tiếng, đi tới kiểm tra chiếc xe của Mông Phong.

Mông Phong lại trèo lên xe, ra dấu an toàn với Quyết Minh, đoạn cầm hộp thuốc lá xuống phân chia cho mọi người, bắt chuyện hỏi: “Trung tâm vật tư Quốc gia đã cử một đội tình nguyện viên đến đây, các anh gặp họ chưa?”

Vương Nghị Quân lắc đầu nói: “Lúc này Đạo Thành có lẽ không mấy ổn định.”

Mông Phong nhíu mày hỏi: “Sao thế?”

Vương Nghị Quân đáp: “Năm ngoái tôi dẫn các anh em lên Đạo Thành tị nạn, lục tục kéo theo cỡ bốn trăm người từ vùng Tứ Xuyên và Vân Nam, trốn tránh đám quái vật chết tiệt kia. Nhưng dân ở đây rặt một lũ mọi rợ, hồi mới đầu còn tốt, ngờ đâu về sau lại chê bọn tôi chiếm đất của chúng, nên thả chó Tây Tạng cắn xé ăn thịt người, còn vung đao đâm chết người…”

Mông Phong tiếp: “Vậy các anh không ở cùng họ nữa à?”

Vương Nghị Quân rít một hơi thuốc lá, gật đầu: “Có thể liên lạc với bạn của anh không? Bảo họ quay về nhanh lên, đừng để bọn chúng tóm được, không thì phiền to đấy.”

Mông Phong nói: “Còn phải chờ chút đã, hai người bạn đó của tôi không gặp nguy hiểm gì đâu.”

“Bộ ly hợp của các anh bị hư rồi.” – Một người cười bảo – “Chẳng biết rớt mất chỗ nào, mà con xe này cũng ngầu thật đấy, là của quân đội phải không?”

Quyết Minh ra tiếng: “Do tôi lắp ráp lại đấy.”

“Ấy chà, thiên tài.” – Tay thợ máy kia tiếp – “Xem nào, phải nghĩ cách mới được.”

“Tiểu Hoàng là thợ sửa máy của chúng tôi.” – Vương Nghị Quân cười rằng.

Tiểu Hoàng nói: “Lão Đại à, cần tìm ít linh kiện cho họ mới được, mà chúng ta cũng không có, chắc phải vào Đạo Thành tìm.”

Vương Nghị Quân nghe thế bảo: “Thôi, trong xe có con nít mà.”

Quyết Minh: “Tôi không phải con nít đâu nhé.”

Vương Nghị Quân cười: “Cháu cùng lắm mới lên cấp ba, vẫn là con nít đó thôi. Tháo bộ ly hợp trên xe tôi cho họ đi.”

Quyết Minh hỏi: “Kích cỡ có phù hợp không? Chỉ sợ không khớp.”

Vương Nghị Quân nói: “Thế thì cháu đi tìm thử xem? Nhóc thiên tài?”

Linh kiện trên xe Vương Nghị Quân tuy nhỏ, nhưng chỉ trong thời gian ngắn Quyết Minh đã chỉnh sửa và lắp xong. Lúc này Mông Phong mới hỏi: “Còn bạn của chúng tôi tính sao đây?”

Vương Nghị Quân viết một mẩu giấy nhắn kẹp chung với tấm bản đồ lên cần gạt nước của xe anh ta, sau đó nói: “Lên đường thôi, các anh cứ lái xe của mình, chúng tôi đi xe riêng, cẩn thận đường núi trơn trượt đó.”

Mọi người chia nhau lên xe, chạy về phía núi tuyết Tiên Nãi Nhật. (là một trong ba ngọn núi thần, theo tiếng Tạng có nghĩa là núi Quan Thế Âm Bồ Tát.)

Cùng lúc đó, tại phía Tây Bắc của Đạo Thành, gió tuyết chợt nổi lên.

Lưu Nghiễn đuổi theo sau Lạp Mỗ, nói với cô: “Chúng tôi phải tìm bạn của mình trước, đã đi hơn một ngày rồi, máy bộ đàm không thể liên lạc được.”

Lạp Mỗ xoay người nhún vai rằng: “Tôi cũng đành chịu, phải hỏi ý kiến Na Tang ấy, họ nói bây giờ chưa thể cho các anh đi vì sợ để lộ tin tức. Trừ khi tìm được Ni Mã, mới có thể chứng minh các anh chẳng can hệ gì với bọn người kia.”

Tìm tìm cái khỉ khô(1)… Lưu Nghiễn như muốn nổi đóa, Trương Dân ở bên cạnh lên tiếng: “Các cô không thể làm vậy được.”

(1) Câu gốc là ‘tìm ni mã mấy người’, Lưu Nghiễn nói với ý đồng âm khác nghĩa, ni mã ở đây mang nghĩa súc vật.

Lạp Mỗ đanh mặt nhìn Trương Dân, anh lại tiếp: “Họ giết bao nhiêu người rồi? An ninh trật tự sẽ nhanh chóng được lập lại, hiện giờ cả nước đang cho phân tán dân cư, bắt đầu cuộc sống mới. Phía quân đội sớm muộn gì cũng tới đây tìm các cô, đến khi đó…”

Lạp Mỗ tức giận gắt: “Không cần anh lo.”

Lạp Mỗ xoay phắt người bỏ đi, Lưu Nghiễn vội tóm chặt tay cô ta, hỏi: “Đôi bên đã chết bao nhiêu người?”

Lạp Mỗ đáp trả: “Giết chết kẻ xấu xâm phạm vùng đất quê hương mình, như thế cũng đáng bị trừng phạt hay sao?”

Lưu Nghiễn nhẹ lời: “Đâu thể nói vậy, khi đường sinh tồn bế tắc, xung đột đổ máu là chuyện hiển nhiên, nhưng bây giờ mọi chuyện đang tốt đẹp hơn, tiếp tục tranh đấu chẳng có nghĩa lý gì hết. Nói tôi biết đi, bên cô đã hy sinh tổng cộng bao nhiêu người rồi, và bị giết hại dưới tình huống nào?”

Lạp Mỗ nói: “Chưa có người nào chết, nhưng sắp rồi.”

Lưu Nghiễn và Trương Dân cùng cảm thấy ngạc nhiên, Trương Dân hỏi lại: “Chưa có người chết à?”

Lạp Mỗ khẳng định: “Phải.”

Lưu Nghiễn thấy nhẹ cả người: “Ơn trời, thế thì dễ giải quyết hơn nhiều.”

Lạp Mỗ nhảy dựng: “Cái gì mà dễ giải quyết! Chẳng lẽ anh định giúp phe kia?! Chính bọn chúng bắt cóc Ni Mã đấy!!!”

Lưu Nghiễn tiếp: “Mọi việc đã qua cả rồi!”

Trương Dân ngắt lời: “Chờ chút, trước tiên hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao vẫn chưa có người chết?”

Lạp Mỗ quay đầu, ngưng mắt nhìn về ngọn núi thần tuyết trắng ở phương xa, mãi sau mới đáp: “Là nhờ có sư Trát Ba ở chùa Trùng Cổ, sau khi ngài thu nhận dân lưu vong đã ra lệnh, cấm đôi bên tàn sát lẫn nhau.”

“Cái gì?” – Lưu Nghiễn nhíu mày.

Lạp Mỗ tiếp: “Năm ngoái, khi bọn họ đến và phát sinh tranh chấp với chúng tôi, một con chó ngao Tạng của người dân đã cắn bọn họ, nên toàn bộ người Hoa bỏ chạy lên núi tuyết Tiên Nãi Nhật, vào mùa hè thì dựng trại quanh chùa Trùng Cổ…”

Ngay thời điểm ấy, tại chùa Trùng Cổ trên núi tuyết Tiên Nãi Nhật:

“Lúc ấy.” – Vương Nghị Quân nói – “Chúng tôi đã ở đó lâu quá rồi, mà tiền bạc cũng cạn túi, lại có người bắt đầu gây gổ với dân Tạng. Đôi bên nảy sinh ẩu đả với nhau, Tiểu An suýt nữa bị lũ chó ngao Tạng cắn chết…”

Mông Phong chầm chậm gật đầu, đón lấy lọ thuốc Hồng cảnh thiên(2) từ tay Vương Nghị Quân, anh ta lại tiếp: “Tôi chẳng thể tiếp tục hòa giải nữa, đành phải mang mọi người rời khỏi Đạo Thành đến tạm lánh ở núi tuyết. Sư Trát Ba đã đón nhận hơn ba trăm người chúng tôi, và dùng thảo dược chữa trị vết thương cho Tiểu An. Sau đó ngài còn viết một bức thư, giao cho thủ lĩnh Na Tang của dân Tạng, căn dặn bọn họ bất kể trong tình huống nào cũng không được giết người.”

12831161_1(2) Thuốc Hồng cảnh thiên: công dụng chống thiếu dưỡng khí, chống mệt nhọc và giảm đau. Chắc Mông Phong uống cái này để đỡ bị say độ cao ^^

Mông Phong bèn hỏi: “Thế vị sư Trát Ba nọ đâu rồi?”

Vương Nghị Quân đáp: “Ngài đã qua đời.”

Mông Phong nói: “Tại sao lại xích mích với người Tạng, có thể làm dịu xuống được không?”

Vương Nghị Quân lắc đầu: “Khó lắm.”

“Tiểu An là một nhiếp ảnh gia.” – Vương Nghị Quân cười bảo – “Vừa tốt nghiệp được một năm, dẫn theo bà xã đến Đạo Thành du lịch. Tiểu An, đây là anh Mông.”

Vương Nghị Quân đưa Mông Phong và Quyết Minh đi dạo quanh chân núi chùa Trùng Cổ, nơi khuất gió có rất nhiều hang gạch của các vị Lạt ma thời cổ, tránh gió chắn tuyết, dân lưu vong dựng lều bạt trong các hang gạch, nhóm lửa nấu nước sưởi ấm qua mùa Đông.

Ở nơi này gần cả một năm, nhiều người đã bị phơi nắng ngăm đen, quần áo dơ bẩn, họ ngước ánh mắt hiếu kỳ xem xét Mông Phong và Quyết Minh.

Trên khuôn mặt tuấn tú lấm lem của Vương Nghị Quân hiện rõ nét cười, anh ta hô lên: “Ngoài kia đã an toàn! Không còn zombie nữa! Chúng ta có thể về nhà rồi!!!”

Khoảnh khắc đó mọi người đều cảm thấy kích động, tiến đến vây quanh ba người họ.

“Anh chưa biết đâu.” – Có một người đứng sau lưng giải thích cho Mông Phong – “Khi ấy, trong số người Hoa chúng ta có không ít người nhiễm virus đi cùng, lão Đại chẳng biết phải xử lý ra sao, cứu không được, cũng không thể trơ mắt nhìn họ chết đi. Anh ấy cử người đến đón nhận những đồng bào bị nhiễm bệnh, chúng tôi vòng qua Đạo Thành, tính xây dựng một khu cách ly dưới chùa Trùng Cổ. Nào ngờ khi qua vùng đồng hoang có một con chó ngao Tạng xông ra, cắn trúng người đã bị nhiễm virus…”

Mông Phong nghe mà không khỏi sợ run, chó ngao Tây Tạng vốn là giống chó hung dữ nhất thế giới, một khi biến thành chó zombie, người thường làm sao địch nổi sức chiến đấu của nó.

Vương Nghị Quân tiếp: “Con chó ngao Tạng đó sau khi trở về thì đột biến, chó cắn chó, chó cắn người, trong Đạo Thành bùng phát một đợt dịch bệnh quy mô nhỏ. Bọn họ cho rằng chính chúng tôi đã mang bệnh dịch và ma quỷ đến. Xét cho cùng thì, điều đó không sai.”

Vương Nghị Quân dẫn Mông Phong và Quyết Minh vào ngôi chùa Trùng Cổ tan hoang đổ nát, bên trong có bốn năm túp lều vải, còn có người đang nghe nhạc, Vương Nghị Quân vỗ tay một cái, cất tiếng: “Lão Tôn này, kêu mọi người đến tập hợp để họp. Với lại chuẩn bị ít thức ăn nước uống tiếp đãi khách.”

Có người bưng bếp lò đến, bắc ấm pha trà. Quyết Minh trước sau vẫn cảnh giác quan sát Vương Nghị Quân, anh ta cũng cảm giác được địch ý của nhóc, bèn cười hỏi: “Cậu nhóc không mấy tin tưởng người lạ nhỉ, nó là cháu của anh à?”

Mông Phong nhận lấy một chén nước sền sệt, hắn biết Quyết Minh cho rằng Vương Nghị Quân là loại người giống Lâm Mộc Sâm, nên nhóc vẫn còn chút đề phòng với anh ta. Hắn bèn xoa xoa đầu Quyết Minh, thuận miệng bảo: “Tính nhóc này là vậy đấy, nói tiếp đi, sau đó thế nào? Tại sao sư Trát Ba lại chết?”

“Sư Trát Ba là một vị Lạt ma trông coi chùa Trùng Cổ.” – Một cô gái đi tới ngồi xuống, vén mái tóc dài sang bên, cổ tay đeo chuỗi vòng bạc lóng lánh, trên người khoác tấm thảm dày của dân tộc Tạng, cô nghiêng đầu nhìn Quyết Minh, cười hỏi: “Sao em không uống?”

Quyết Minh nói: “Tôi không muốn uống cái này, mùi nó kỳ lắm.”

Cô gái kia tự giới thiệu: “Chị là Ninh Ninh, em tên gì?” – Cô ta để ý thấy Quyết Minh vẫn luôn nhìn xuyến vòng Tây Tạng của mình, bèn tháo một chiếc ra đưa cho nhóc, nói – “Em thích không? Chị tặng em đó.”

“Cảm ơn, tôi là Quyết Minh.” – Quyết Minh đáp.

Ninh Ninh lại móc một cái hộp nhỏ trong balo vải đặt trước lều, đổ ra ít lá trà Thiết Quan Âm(3), cười tiếp: “Đó là trà bơ(4), uống trà của dân mình vẫn hơn nhỉ.”

(3) Trà Thiết Quan Âm: là một trong mười loại trà thượng đẳng, thuộc nhóm trà Ô Long của trấn Tây Bình, huyện An khê, tỉnh Phúc kiến

(4) Trà bơ: Trà được nghiền nhuyễn và đun với nước trong 1 vài phút, sau đó lọc lấy nước trà, cho thêm sữa dê hoặc sữa bò Tây Tạng, một chút bơ yak, cho thêm chút muối và khuấy đều lên. Chén nước mà Mông Phong và Quyết Minh nhận được là trà bơ.

Lá trà Thiết Quan Âm được đổ vào tách, hương trà thơm ngát dậy khắp túp lều, Ninh Ninh vừa pha trà cho khách vừa giải thích: “Lúc đó ai nấy đều sợ ngây người, có hơn cả ngàn con quái vật, xác sống. Các anh biết không, lần đầu trông thấy lũ quái vật kia tôi đã liên tưởng ngay tới đám xác sống trong phim Resident Evil.”

Mông Phong đáp: “Phải rồi, còn gọi là zombie.”

Ninh Ninh mở to mắt, kinh ngạc không thôi: “Các anh làm sao sống sót tới bây giờ?”

Mông Phong chỉ nói: “Nói về chuyện của mọi người trước đi.”

Ninh Ninh tiếp: “Đám quái vật kia bao vây quanh chùa Trùng Cổ, tuy có súng trong tay nhưng mọi người rất sợ hãi. Thế rồi sư Trát Ba bước ra, để chúng tôi trốn vào đây ở…”

“Chùa Trùng Cổ được xây dựng từ mấy trăm năm trước.” – Vương Nghị Quân bổ sung – “Bây giờ đã mục nát gần hết rồi, khi ấy chỉ có mỗi sư Trát Ba ở nơi này.”

Ninh Ninh gật đầu: “Sư thầy vì cứu chúng tôi đã bước ra lập đàn làm phép, đúng ngay vào tháng Mười, ngài bảo đây là sự trừng phạt của ông Trời đối với con người, dù là người Tạng hay người Hoa đều phải đối xử bình đẳng như nhau. Ngài niệm kinh suốt đêm ngày, để chúng tôi trốn vào hang núi, không ai được phép ra ngoài.”

Quyết Minh hỏi: “Có tác dụng gì không?”

Ninh Ninh cười không đáp, Vương Nghị Quân hỏi ngược lại: “Thế nhóc nghĩ sao?”

Sau Ninh Ninh vẫn nói: “Có tác dụng chứ. Ngài đã cầu xin trời xanh hãy gieo mọi tai họa xuống người mình, đến cuối tháng Mười, một trận tuyết lớn đổ xuống Đạo Thành và khu vực xung quanh ba ngọn núi thần, toàn bộ đám quái vật bị đông cứng, không cách nào cục cựa nổi.”

Vương Nghị Quân tiếp lời: “Thế là chúng tôi buộc dây vào xác chết, kéo lê tới chân núi để chôn, lúc quay về thì sư Trát Ba cũng viên tịch rồi, sau đó chúng tôi vẫn ở lại nơi này sinh sống. Nhưng thức ăn không còn đủ nữa, lúc trước toàn sống nhờ vào lương thực dân Tạng đem đến cúng dường cho sư Trát Ba và số của cải còn dư lại trong chùa, nên bây giờ phần lớn thời gian tôi phải dẫn anh em vào Đạo Thành trộm đồ ăn.”

Mông Phong nói: “Vậy càng khiến dân Tạng căm ghét thêm.”

Vương Nghị Quân phá ra cười ha hả, đã có không ít người tụ tập đến, Mông Phong nhìn quanh một lượt, nghĩ bụng chắc họ là những người đầu não đưa ra mọi quyết định cho tập thể.

Mông Phong bắt đầu thuật lại những thay đổi của thế giới bên ngoài khi họ còn đang lẩn trốn trong Tây Tạng, hắn kể một cách ngắt quãng đại khái, người xung quanh đều lắng tai nghe chăm chú, cuối cùng Mông Phong nói: “Nếu là bà xã tôi sẽ kể hay hơn nhiều, nhưng em ấy đã đến Đạo Thành rồi. Tóm lại là vậy đó, mọi người có dự định gì không?”

Sau khi trầm mặc hồi lâu, Vương Nghị Quân chỉ biết thở dài, tiếng thở dài ấy sao mà nặng nề, phảng phất chứa đựng hết thảy nỗi nhọc nhằn và bùi ngùi suốt bao nhiêu ngày tháng qua, tựa như một lữ khách sắp đi đến cuối hành trình, rốt cuộc có thể trút bỏ gánh nặng trên vai.

“Phải lên kế hoạch trở về vùng đồng bằng ngay mới được.” – Vương Nghị Quân ra tiếng – “Mọi người đồng ý chứ?”

“Một phiếu.” – Ninh Ninh thống kê – “Hai phiếu, ba phiếu… Toàn bộ tán thành.”

Mông Phong quan sát những người này biểu quyết, chầm chậm gật đầu, cuối cùng mới thả lỏng cảnh giác.

Vương Nghị Quân nói với Mông Phong: “Chúng tôi đều là du khách, có người tự đi phượt, cũng có người đi tour cùng đoàn, Ninh Ninh là hướng dẫn viên du lịch ở Tứ Xuyên. Chúng tôi phân chia từng khu vực vùng miền, rồi để họ chọn ra một tổ người đại biểu dân ý, thực hiện thể chế trưng cầu biểu quyết.”

Mông Phong nhận xét: “Cách này hay lắm, người đồng hương sẽ dễ tạo thành tập thể nhỏ hơn. Lúc trước anh làm nghề gì thế?”

Vương Nghị Quân cười đáp: “Tôi cũng chỉ là một nhà nhiếp ảnh thôi.”

Có một người sau khi ngẫm nghĩ chốc lát, ra tiếng hỏi Mông Phong: “Anh Mông, bạn của anh đang ở trong tay đám người Tạng à?”

Mông Phong nói: “Ngoài trời đang đổ tuyết nên máy bộ đàm sóng ngắn mất tín hiệu, chờ trời quang mây tạnh rồi thử liên lạc mới biết được.”

Vương Nghị Quân bảo: “Trước mắt phải nghĩ cách gọi bạn của anh đến đây, ở Đạo Thành nguy hiểm lắm, tiếp theo là bàn tính việc rời khỏi vùng này.”

Cậu trai tên gọi Tiểu Hoàng, là người sửa xe giúp Mông Phong mới nãy, chợt lên tiếng: “Lão Đại, tụi mình chỉ có bốn chiếc xe thôi, mà một chiếc tháo bộ ly hợp ra thì hết xài được rồi, còn ba chiếc sợ không chở được nhiều người vậy đâu.”

“Ừm.” – Vương Nghị Quân nói – “Chắc phải chia một nhóm người đi xuống trước, đến Tứ Xuyên, nhóm còn lại ở lại đây. Tôi chỉ sợ lúc rời đi sẽ có dân bản địa tới đánh lén, cũng khó thật đấy… Cần rút lui bí mật, phải nghĩ cách đã. Mọi người quay về hỏi bạn bè của mình thử, xem ai đồng ý đi trước, còn ai tình nguyện ở lại bọc hậu. Người nào có ý kiến gì cứ việc đề xuất, tổng hợp xong thì về đây, hai tiếng sau chúng ta sẽ nghĩ ra một phương pháp chu toàn nhất.”

Những người dự cuộc họp bắt đầu tản đi, Vương Nghị Quân cũng rời khỏi, chỉ còn Quyết Minh và Mông Phong mắt to mắt nhỏ ngó nhau.

“Người đó sẽ là ‘anh Sâm’ thế hệ hai hả?” – Quyết Minh hỏi – “Hoặc là ‘anh Sâm’ chính hiệu?”

Mông Phong đáp: “Chú thấy không phải đâu… Nếu có Lưu Nghiễn ở đây thì tốt, mẹ kiếp, sao mãi mà không liên lạc được với em ấy.”

Chốc sau Vương Nghị Quân đã trở về, cầm theo một hộp đựng thịt bò khô và đồ ăn vặt, anh ta đưa cho Quyết Minh, cười bảo: “Cảm ơn hai người đã mang tin tức tốt đến cho chúng tôi. Ăn chút gì đi này.”

Mông Phong nói: “Trên xe tôi cũng có rồi.”

Vương Nghị Quân tiếp: “Chút thành ý thôi mà, mọi người đều đã hiểu ra, muốn cảm ơn hai người đó.”

Quyết Minh tùy tiện ăn đôi miếng, thấy không bị vấn đề gì, Mông Phong cũng ăn một ít, Vương Nghị Quân thì đi vòng ra sau chùa. Lát sau, Mông Phong đứng dậy, choàng tay lên vai Quyết Minh, một lớn một nhỏ đi dạo lòng vòng, khi ra sau ngôi chùa thì bắt gặp thi thể của lão Lạt ma.

Vương Nghị Quân đang đứng trước thi thể ấy, lẳng lặng nhìn ông.

Thi thể vẫn chưa bị phân hủy, lưu giữ nguyên vẹn khuôn mặt lúc sinh thời của vị Lạt ma, tuy vậy làn da vẫn hiện rõ sắc xám đen.

“Đây là sư Trát Ba sao?” – Mông Phong ra tiếng hỏi.

Vương Nghị Quân gật đầu.

Chứng say độ cao của Mông Phong giờ đã đỡ nhiều, và cũng hạ sốt, thỉnh thoảng chỉ ho khù khụ vài tiếng chẳng can hệ gì.

Mông Phong nói: “Mọi người ở đây được sinh sống rất ổn định, anh quả là một người tốt.”

Vương Nghị Quân cười: “Chẳng qua tôi chỉ mong muốn dốc hết sức bảo vệ sinh mạng của đồng bào, các anh có từng gặp dân lưu vong kiểu như chúng tôi chưa?”

Mông Phong đáp: “Rồi, tình trạng của họ còn tồi tệ hơn ở đây, có nhiều lắm.”

Quyết Minh chen lời: “Sao chú không… Ý tôi là cái đó… Ừm…”

Vương Nghị Quân hỏi: “Không cái gì cơ? Không cầm súng giết sạch dân Tạng đi à?”

Quyết Minh gật đầu: “Đa số người đều chọn cách đó mà.”

Vương Nghị Quân lại hỏi: “Cháu đã xem bộ phim điện ảnh Hồng Hà Cốc(5) chưa? Ninh Tịnh(6) đóng nữ chính ấy.”

(5) Một bộ phim của đạo diễn Phùng Tiểu Ninh, sản xuất năm 1997. Bối cảnh đầu thế kỷ 20, đế quốc Anh cử một đoàn thám hiểm tiến vào Tây Tạng hòng âm mưu xâm chiếm vùng đất này, song dân tộc Tạng đã đoàn kết nhất trí, liều mình chống giặc xâm lăng.

(6) Ninh Tịnh: là một trong những nghệ sĩ hạng A của màn ảnh Hoa ngữ vốn nổi tiếng với những bộ phim như Lã Bất Vy – Anh hùng thời loạn, Dương môn nữ tướng, Hán Vũ Đế 2, Hiếu trang bi sử…

Quyết Minh “ừ” một tiếng, Vương Nghị Quân tiếp lời: “Con gái của vua Tây Tạng cầm trong tay một quả đạn pháo, ném vào đống thuốc nổ, bất khuất liều chết cùng kẻ thù.”

Mông Phong ngờ nghệch hỏi: “Cái gì cơ?”

Quyết Minh gật đầu đáp: “Hồi nhỏ từng xem rồi.”

Vương Nghị Quân cười xoa xoa đầu Quyết Minh, đoạn nói: “Chú là một nhiếp ảnh gia của Hội bảo vệ động vật hoang dã Trung Quốc, đến Đạo Thành Á Đinh vì muốn vào ba ngọn núi thần tìm kiếm động vật hoang dã. Sao có thể giết người được chứ?”

Quyết Minh hỏi: “Thế còn những người khác? Họ đều nghe lời chú hay sao?”

Vương Nghị Quân đáp: “Không người nào nghe lời chú, mà ở đây cũng không có chuyện ai phải nghe theo ai. Người nào đưa ra ý kiến hay thì sẽ làm theo đề nghị của họ. Vốn dĩ chú cũng có chút lo lắng, e sợ trong số du khách sẽ có một vài phần tử tiêu cực. Nhưng khi sư Trát Ba diễn thuyết Kinh văn, và trận bão tuyết ập xuống trước mắt đã loại bỏ mọi ý định xấu trong lòng mỗi người. Có thể nói, chính sư Trát Ba là người đã cứu mạng bọn chú, bởi thế chẳng còn ai có ý định chém giết gì nữa.”

Ba người họ bước ra khỏi ngôi chùa, thấy Ninh Ninh đang ôm một cây ghita, ngồi trước đống lửa đàn lên một bản nhạc du dương trầm lắng, từng nốt trong veo dịu dàng:

“Em đã từng ngắm biết bao cảnh đẹp, em đã gặp rất nhiều cô gái xinh, em lạc mất giữa những ngã rẽ trên bản đồ… Mỗi một khoảng tháng năm ngắn ngủi…”

Mông Phong bảo: “Chúng ta có thể xin trợ giúp từ Tổng bộ, nghe đâu còn có một đội tình nguyện viên được cử tới đây, cũng chẳng biết họ đang ở chỗ nào.”

Vương Nghị Quân hỏi: “Cần chờ bao lâu nữa? Chỉ sợ phải mỏi mòn chờ suốt mấy tháng, lương thực của chúng tôi đã chẳng còn bao nhiêu…”

Ngay lúc họ đang nói chuyện, chợt bên ngoài có người hô lên: “Lão Đại! Có người tới gây sự đây này!!!”

Vương Nghị Quân giương giọng đáp: “Đừng náo loạn! Quay về lều của mình hết đi, tiểu đội Một theo tôi ra ngoài xem tình hình sao.”

Mông Phong thấy vậy bèn đặt tách trà xuống, nhưng Vương Nghị Quân ngăn lại: “Các anh không cần đi cùng đâu.”

Mông Phong nói: “Không sao, Quyết Minh này, nhóc ở đây với các dì nhé, chú ra đó xem thử.”

Nơi đồng hoang trước chân núi tuyết, nhóm du khách lưu lạc đã đắp tường đất đơn sơ dài gần trăm mét làm rào phòng ngự vòng ngoài, những người trực tuần tra đương run rẩy giữa gió tuyết lạnh buốt.

Nhóm người Tạng thì lăm lăm đao trong tay, vừa chậm rãi áp sát tường rào vừa lớn tiếng kêu gào.

“Hắn chính là thủ lĩnh của dân Tạng, tên gọi Na Tang.” – Vương Nghị Quân nói.

Mông Phong dứt khoát: “Vậy chúng ta đi gặp họ cái nào.”

Mông Phong và Vương Nghị Quân cùng chạy ra chỗ tường đất rồi đồng thời nhào người nhảy qua, người đằng sau vội bảo: “Lão Đại, hai người cẩn thận đấy!”

Vương Nghị Quân chỉ xua tay như không hề gì, sau đó tay phải đặt khẩu súng lục lên bờ tường đất còn tay trái giơ cao, tỏ vẻ bản thân không có địch ý với nhóm người đối diện.

“Cố gắng đàm phán một cách hòa bình.” – Vương Nghị Quân khẽ dặn dò – “Chẳng cần thiết phải động tay động chân làm gì, tiện thể hỏi thăm xem họ có gặp bạn của anh không.”

Mông Phong gật đầu: “Không có người phiên dịch hả?”

Vương Nghị Quân nói: “Vào đợt dịch bệnh năm ngoái, hầu hết phiên dịch viên đã chết rồi, còn người Hoa và người Tạng có học thức trong Đạo Thành đều bỏ chạy cả. Ninh Ninh là hướng dẫn viên du lịch, cũng biết vài câu tiếng Tạng, hay là gọi cô ấy ra đây?”

Mông Phong bảo: “Thôi thôi, vầy nguy hiểm lắm, còn phe bên kia thì sao?”

Vương Nghị Quân đáp: “Bên đó cũng có một cô gái hiểu tiếng Hoa, nhưng hiện tại không có mặt trong nhóm.”

Mông Phong quan sát Na Tang và đám người hung hăng bặm trợn nọ, đoạn nói: “Có vẻ khó đây, ngay cả phiên dịch viên cũng chẳng dẫn theo, rõ rành rành là họ nổi khùng muốn liều mạng tới nơi rồi kìa.”

Vương Nghị Quân cũng nhận ra điều ấy, bèn ra tiếng: “Vậy đi, các cậu chuẩn bị bom cay, nếu thấy tình huống bất thường thì lập tức rút ngay.”

Mông Phong bắt chước Vương Nghị Quân, đặt khẩu súng trong tay xuống rồi một mình bước lên phía trước, Vương Nghị Quân nhanh chân đuổi kịp Mông Phong.

Mông Phong mở lời: “Chúng ta nói chuyện chút!”

Na Tang nghe hiểu lời hắn, gã ra hiệu cho thuộc hạ đứng chờ và cũng tiến ra trước. Vương Nghị Quân thấy thủ lĩnh phe kia một mình tới đàm phán, lập tức lùi về sau vài bước nhường cho Mông Phong đi, để tránh bên kia nghi ngờ.

Vương Nghị Quân lại tiếp tục truyền lời: “Cậu gọi Ninh Ninh tới đây giùm tôi.”

Mông Phong chỉ vào ngực mình, tự giới thiệu: “Mông Phong.”

Na Tang đáp bằng ngữ điệu trầm khàn: “Na Tang!”

Mông Phong gật đầu, khoát tay tiếp lời: “Đừng đánh nữa.” – Vừa nói vừa dùng tay ra hiệu – “Họ sắp rời đi rồi.”

Mông Phong co ngón tay làm thành hình người đang đi, lặp lại: “Sắp rời khỏi.”

Na Tang hô: “Ni Mã!”

Mông Phong: “?”

Na Tang: “Sắc Lang! Ni Mã!” (‘Sắc lang’ trong tiếng hoa là ý chửi háo sắc)

Mông Phong: “Ni mã hả?”

Mông Phong vừa mới đụng mặt đã ăn mắng, không khỏi bực mình gắt: “Mi mới là đồ sắc lang! Ni mã!” (‘Mi mới là đồ háo sắc ấy! Cầm thú!’ – Mình không ghi thẳng ra vì trong ngữ cảnh này Mông Phong đang lặp lại theo ngữ âm tiếng Tạng của Na Tang)

Na Tang: “?”

Mông Phong chỉ đành phải thở dài đánh thượt, kéo lấy tay Na Tang, vỗ vỗ vai gã rằng: “Đừng kích động vậy chớ…”

Đám người Tạng phía xa bỗng nhốn nháo cả lên, xoèn xoẹt rút đao!

“Ấy ấy đừng có vỗ…” – Có tiếng Ninh Ninh vội hô lên từ đằng sau.

Mông Phong không làm động tác thân mật này thì còn đỡ, ai dè hắn vỗ vai Na Tang xong, gã liền nổi sùng quát tướng: “Ni Mã!”

Na Tang không nói không rằng, vung tay là đánh, một đấm dộng thẳng vào má Mông Phong khiến khuôn mặt bảnh trai của hắn lập tức biến dạng, trúng một đòn lật ngửa xuống mặt tuyết.

Mông Phong lúc này cũng bị chọc điên tiết, hắn rống to một câu “Ni mã!” rồi nhào tới, Na Tang trong khi sơ suất bị lãnh trận đòn nặng. Hai kẻ thi nhau tay đấm chân đạp, hăng máu vật lộn.

Vẻ mặt của Ninh Ninh đúng là rầu đến không nỡ nhìn tiếp.

Mặc dù vóc người Na Tang vạm vỡ cao lớn, sức lực cuồn cuộn, nhưng gã làm sao địch lại lính đặc chủng am hiểu đánh cận chiến và võ đối kháng tự do như Mông Phong? Mông Phong chỉ cần đưa chân gạt nhẹ một cái, Na Tang đã té đo đất, tay trái Mông Phong nắm cổ áo gã kéo tới, tay phải tung một quyền, đấm gã xoay tít trên không những ba vòng rưỡi mới rớt phịch xuống.

Đám người Tạng bị dọa sợ luôn rồi, còn nhóm người lưu vong thì xúm đến xem kịch vui, thấy Mông Phong vừa quát “Ni mã! Ni mã!” vừa rượt đánh Na Tang tơi tả.

Vương Nghị Quân bấy giờ cả giọng hét lên: “Hay lắm!”

“Cố lên! Cố lên!!” – Nhóm du khách bắt đầu gào thét cổ vũ, thế là dân Tạng cũng ầm ĩ reo hò, trong khi thủ lĩnh phe mình đang bị nhừ đòn mà chẳng có ai lên đỡ giúp, họ đứng hô hào tiếp sức cho Na Tang, không mảy may nản lòng nhụt chí.

Na Tang chợt hét to một câu gì đó, vừa cười vừa hô thêm vài tiếng, lảo đảo xoay người định bỏ chạy, Mông Phong quát: “Cười cười cái ni mã!” – Liền sau đó hắn sải chân dí theo,  đạp gã bay xa hơn năm mét.

Ninh Ninh ra tiếng can ngăn: “Đừng đuổi nữa! Gã vừa nhận thua rồi…”

Na Tang xoay mình, cặp mắt trợn ngược, rống lên một tiếng như muốn liều mạng, gã toan rút đao thì bị Mông Phong xông tới túm cổ áo, tay còn lại bốc tuyết đập vào mặt Na Tang, lại nhấc chân đạp vào giữa ngực khiến gã văng tít ra ngoài.

Chính lúc đó cả đám người Tạng đều phát cuồng, ai nấy căm giận gầm rú đồng loạt vung đao, Vương Nghị Quân vội hô to: “Mau quay về đây!”

Mông Phong thẩy lại một nụ cười khiêu khích, đoạn xoay phắt chạy về chỗ tường đất, Vương Nghị Quân lập tức ném bom cay, quang cảnh hỗn loạn rối beng. Nhóm dân Tạng cứu được thủ lĩnh của họ, nhanh chóng đưa Na Tang rời đi.

.

.

.

End P2.