Tạng Cẩu nhìn ngôi phủ đệ xa lạ, gãi tai thở dài. Nếu như là chỗ bảy năm trước lúc vừa sang Tàu, thì cậu chàng còn biết đại khái phải đi thế nào để ra khỏi cung. Nhưng chỗ mới thế này thì chịu thua. Chẳng trách ngôi phủ này không có vệ quân canh giữ.
Cậu chàng đẩy cửa, phát hiện bấy giờ đại sảnh hãy còn sáng đèn. Hồ Phiêu Hương ngồi lặng một bên, Nguyễn Phi Khanh an tĩnh thưởng trà ở ghế chủ vị. Tạng Cẩu đảo mắt một vòng, không thấy Hồ Nguyên Trừng đâu cả, đoán là đã ngủ sớm rồi.
Cậu chàng lại nhìn người đàn ông luống tuổi ngồi ở ghế chủ nhà, lòng thầm cảm khái. Năm năm không gặp, Nguyễn Phi Khanh đã già đi nhiều, tóc trên đầu đã bạc phơ bạc phếch, người gầy gò lộ hẳn xương gò má.
Thấy cậu chàng đã đến, ông bèn nở nụ cười, dường như cũng bất ngờ trước sự trưởng thành của cậu nhóc ốm o ngày nào. Tay đặt chén trà xuống, Nguyễn Phi Khanh ra dấu gọi cậu Tạng Cẩu vào, ánh mắt như thể có điều gì muốn nói. Chờ cậu chàng ngồi ấm chỗ, ông mới từ tốn nhìn sang phía Hồ Phiêu Hương, thở dài một tiếng:
“ Hai đứa lớn rồi. Nó cũng về rồi. Thế thì bây giờ bác kể hai đứa nghe… ”
Tạng Cẩu bèn hỏi:
“ Kể chuyện gì hả bác? Lúc con không có ở đây xảy ra chuyện gì rồi? ”
Hồ Phiêu Hương vỗ bàn tay cậu chàng, vẻ trấn an, rồi nói:
“ Thái độ ban nãy của bác Trừng rất lạ, tại sao lại nói không có tư cách gì lo liệu chuyện hôn sự của con? Ông con đâu? ”
Nguyễn Phi Khanh cười thảm, nói:
“ Ông con thì chưa rõ tung tích, nhưng Nguyên Trừng thì quả thực không có tư cách quyết định chuyện hôn nhân đại sự cho hai con. ”
“ Bác càng nói càng khó hiểu. ”
Hồ Phiêu Hương buông một câu xong, rồi cũng an tĩnh chờ nghe Nguyễn Phi Khanh giải thích.
“ Chuyện xảy ra lúc hai con lên đường lên ải Nhạn Môn đưa mật thư chưa lâu. Độ nửa tháng thì có đoàn sứ bộ của nước Nam sang, xưng là được vua Trần là Trần Quý Khoáng phái sang, mang người bạc người vàng thế mạng xin Chu Đệ sắc phong làm Bố chánh sứ Giao Châu. Chu Đệ một mặt để đoàn sứ bộ này ở lại Nam Kinh ít lâu, mặt khác lại cố ý bảo Hồ Nguyên Trừng đến nói chuyện với chánh sứ, giả ý tình nghĩa cố cựu, hỏi về tình hình trong nước mạnh yếu hư thực thế nào. ”
Hai người nghe mà giật mình, lại nghĩ đến lúc đó Hồ Quý Li ở trong tay Chu Đệ, một bên là trung một bên là hiếu, Hồ Nguyên Trừng phải lựa chọn ra sao?
Hồ Phiêu Hương run giọng, nói:
“ Con không thấy ông đâu… tức là ông con… ”
Cô nàng rùng mình một cái, nửa câu nói gở sau đó không thể nói ra được nữa.
Nguyễn Phi Khanh bèn đáp:
“ Chuyện há lại đơn giản như vậy? Chu Đệ chẳng những không ép buộc, hay trách phạt, còn ngợi khen Nguyên Trừng là trung nghĩa vẹn toàn. Y nói, chỉ cần Nguyên Trừng đến gặp chánh sứ nước Nam một chuyến, hỏi tìm giúp một thang thuốc của Tuệ Tĩnh thiền sư. Cậu ta thấy thang thuốc đúng thực do thiền sư kê đơn, nên chẳng mảy may nghi ngờ gì. ”
Tạng Cẩu nghe đến đây, còn chưa hiểu gì, thì Phiêu Hương đã nói ngay:
“ Y muốn dùng kế li gián? ”
Nguyễn Phi Khanh thở dài, nói:
“ Con đoán không sai, nhưng Chu Đệ hắn còn thâm độc hơn nhiều. Y cố tình để thái giám dẫn Nguyễn An vào cung, nghe được chuyện y phái Hồ Nguyên Trừng đến gặp chánh sứ. Sau đó lúc nói chuyện với Nguyễn An thì lại cố tình nói lộ ra là chánh sứ Hồ Nghiện Thần bấy lâu nay thư từ qua lại với Nguyên Trừng, đã có vẻ xuôi xuôi dạ. Lần này đến gặp là để tiết lộ hết quân cơ bí mật nước ta. Nguyễn An hoảng sợ, báo lại cho phó sứ là Bùi Nột Ngôn… ”
Hồ Phiêu Hương hít một hơi kinh hãi, nói:
“ Hiểm thật! ”
Tạng Cẩu nghe không hiểu gì, bèn chen vào hỏi:
“ Hương… hiểm ở chỗ nào thế? ”
Cô nàng bèn nói:
“ Cẩu thử nghĩ xem, Bùi Nột Ngôn nếu gặp phải chuyện như vậy, há lại không báo lại cho vua Trần? Thế thì Nghiện Thần tránh đường nào cho khỏi chết? Nhưng thuộc hạ thân tín của y sẽ vì chủ bị oan, cho rằng Nột Ngôn vì tranh quyền vu oan giá họa, mà vua Trần thì có mắt như mù tin nhầm kẻ gian. Từ đó mà sinh ra bất nhẫn, chủ tớ xích mích lẫn nhau, đám thân tín này lại càng mất lòng tin vào vua tôi, từ ấy sẽ dễ bề chiêu dụ quy hàng ”
Nguyễn Phi Khanh cũng nói thêm:
“ Y mượn bản tính lá rụng về cội của Trừng và An, dựng nên một vở kịch tuyệt hảo, dựng chuyện chia rẽ hàng ngũ quân Trần. Đồng thời lại khiến tướng sĩ bên ta nghĩ rằng bao nhiêu quân cơ bí mật đều đã bị quân Minh biết cả, vừa lo sợ không đâu, trên chiến trường lại mất đi sĩ khí, còn phải bài bố cát cứ các cánh quân trấn thủ lại từ đầu. Tốn người, tốn công, tốn của, tốn thì giờ mà quân Minh thực chất đến một góc địa đồ bố phòng cũng chưa từng thấy bao giờ. Có thể nói là một mũi tên trúng hai đích. ”
Tạng Cẩu thấy vua Minh ngồi một chỗ mà xoay thiên hạ trong tay như dế, sống lưng tức thì ớn lạnh một hồi.
Hồ Phiêu Hương thở dài:
“ Đâu chỉ có thể. Thể nào Bùi Nột Ngôn cũng kể cả tên bác Trừng vào, thế là thanh sử ghi lại vết nhơ bội phản bán nước đến nghìn năm, rửa sao cho sạch? Thế là chỉ bằng mấy lời đã biến bác Trừng thành người có nước không dám về, có tổ tiên không dám nhìn mặt, có cội có nguồn lại không dám nhận là dòng giống rồng tiên, bị bêu riếu đến ngàn đời sau. Ngoại trừ đi theo làm việc cho Chu Đệ, thì còn đâu đường mà sống nữa? Chỉ là… con nghĩ bác Trừng hẳn sẽ thấy có sự bất thường, sao còn nhận lời? ”
Hồ Phiêu Hương tự hỏi, Hồ Nguyên Trừng nếu thực lòng đồng ý theo hàng quân Minh, thì sớm đã viết sớ dâng biểu xun xoe nịnh hót. Chẳng nhìn đâu xa, riêng Mạc Thúy chẳng phải cũng từng viết tấu sớ nhận làm quận huyện, tự nói là man di hay sao? Hoặc giả, cứ như Lê Tắc, phản quốc rồi soạn bộ An Nam Chí Lược, lời văn rõ ràng đã quên đi bản thân là người Đại Việt.
“ Một chữ: Hiếu! Trừng cũng đoán được phần nào Chu Đệ có ý khác, nhưng cậu ta không ngờ lão lại thâm độc như thế. Không có bằng chứng, chuyện lão nhờ lại quả thực không phạm gì tới đại nghĩa dân tộc, thì phận làm con chẳng nhẽ trơ mắt nhìn cha bị hành hình mà không cứu?
Nên dẫu giữa chừng biết là cái bẫy, cũng chỉ có thể châu đầu vào, không khác gì con thiêu thân lao đầu vào lửa. ”
Nguyễn Phi Khanh vừa nói, vừa thở dài.
Hồ Phiêu Hương cau mày lại, rồi hỏi:
“ Thế… ông cháu đâu? ”
“ Ông của cháu ư? Ông ấy sớm đã cao chạy xa bay, kể từ trước khi chúng ta sang Đại Minh rồi. Người đi cùng chúng ta từ đầu tới giờ là thế thân của Hồ Quý Li, lão Bộc!
Chu Đệ chỉ bảo sẽ thả Hồ Quý Li, không bảo sẽ thả thế thân của ông ta. Và… lão Bộc bị xử chém. Lúc bị chém đầu, diện mạo của ông at khôi phục, người ta mới biết ông ta luyện Kim Thiền thần công của Chiêm Thành. Cái đầu lão Bộc được Chu Đệ dùng mâm ngọc đưa đến cho Nguyên Trừng xem.
Ông ta phạm tội dối vua, là khi quân, đáng nhẽ không được phép chôn cất. Trừ phi… bác cháu nhận lời ra làm quan cho Chu Đệ. ”
Đêm trước khi qua biên ải, Hồ Quý Li, chính xác mà nói là lão Bộc, đã nói với Hồ Nguyên Trừng rằng:
“ Dù ai nói ngả nói nghiêng thế nào, thì chuyện con là con trai của ta cũng không thay đổi. ”
Hồ Phiêu Hương bất giác nhớ lại chuyện ở cửa biển Kì La, núi Cao Vọng, khi cha mình gieo mình tự tử, có quát lên rằng:
“ Hồ Nguyên Trừng không phải con ruột của Hồ Quý Li!! ”
Nay ngẫm lại, chẳng nhẽ Hồ Hán Thương lại nói sự thật?
Cô nàng bèn nói:
“ Vậy… bác con nói không có tư cách quyết định chuyện hôn phối của con… là do mặc cảm bác ấy không phải bác ruột của con? ”
Đến lúc này, cô nàng vẫn chưa thể chấp nhận chuyện mình và Hồ Nguyên Trừng không phải máu mủ ruột già, Nhưng lão Bộc vừa biến mất ở Tây Đô, thì “ Hồ Quý Li ” đã dẫn quân Thánh Dực ra cản đường tiến của Trương Phụ. Nay nghĩ lại, thì không thể là chuyện trùng hợp được.
Mà lời trối trăng cuối cùng của Hồ Hán Thương vừa để đánh lạc hướng quân Minh, vừa để nhắc nước cho Nguyên Trừng, lại vừa là lời cảnh tỉnh cho chàng về thân thế thật sự của mình?
Tiếc là hồn đã về nơi chín suối, đâu thể gọi lên mà hỏi cho rõ ràng được?
Thế thì những năm qua, Hồ Quý Li đang ở đâu, làm những gì, thực là không ai biết cả.
Hồ Phiêu Hương đảo mắt, nhẩm tính thì đoàn sứ bộ sang Tàu vừa khớp với thời gian cô nàng và Tạng Cẩu bôn ba. Lại thêm chuyện người đưa manh mối tiếp theo: Niết Bàn kinh cho hai người không phải người quen nào, mà lại là Trương Phụ.
Rõ ràng ấy là lưới nhện của Chu Đệ giăng ra…
Hồ Phiêu Hương nói:
“ Lẽ nào… lão ta đoán được chuyện chúng ta muốn tìm kiếm bí mật chìa khóa Loa thành, nên cố tình để Trương Phụ đưa thư tới, lại theo dõi bọn con gắt gao cũng chỉ chờ làm ngư ông đắc lợi… ”