“ Phạm Lục Bình?? ”
“ Lục Bình là tên cũ rồi, nay tên ta là Phạm Ngũ Thư. ”
Lê Hổ lúc này mới ngoái đầu nhìn sang.
Phạm Ngũ Thư đã đứng trước cửa động Thiên Tôn, thắt lưng cắm thanh Hùng kiếm.
Y thản nhiên bước vào động, cước bộ vững vàng, hô hấp bình thản, đầu tóc xiêm y đều gọn gàng sạch sẽ. Trông y như văn nhân vừa tản bộ ở vườn nhà, chứ không phải vừa bị một trong bốn Tinh của sơn trang Bách Điểu truy sát.
Trần Đĩnh trông thấy dáng vẻ khí định thần nhàn của đối thủ cũ, lại ngẫm đến dáng vẻ hiện tại của bản thân, lòng không khỏi thấy chán nản.
Hắn lại nhớ đến chuyện mình ra tay chặt đầu Hồ Xạ lẫn Hồ Đỗ, không khỏi thấy hổ thẹn.
Phạm Ngũ Thư đến chỗ ba người, ngồi xuống. Y nhìn sang mé Huyết Kiếm Thiên Công, thấy đối thủ năm xưa đang cúi gằm mặt, bèn cười khẩy:
“ Thế nào?? Mối nhục mười năm trước còn nhịn được, lời hẹn tái đấu còn chưa thành, sao đã vội tìm cái chết?? ”
“ Lần này Đĩnh nợ ngươi không chỉ một, mà là ba cái mạng. ”
Trần Đĩnh lắc đầu tự giễu, vai hơi máy động. Lúc này, hai người Lê Hổ Lê Thận mới sực nhớ Huyết Ẩm kiếm trong tay y vẫn kề nơi cổ.
Phạm Ngũ Thư vừa đến nơi, hai người không hiểu vì sao lại có cảm giác yên tâm.
“ Hoá ra Huyết Kiếm Thiên Công nhà ngươi là thằng hèn sao??? Nếu thế thì hồi đó để nhà ngươi sống đến lúc này, đúng là uổng phí mười năm cơm gạo. ”
Trần Đĩnh quắc mắt lên, nhìn chòng chọc vào một Phạm Ngũ Thư đang thản nhiên mở nắp hũ rượu thứ hai.
Y quát:
“ Im miệng! Nhà ngươi thì hiểu cái gì? Nhà ngươi chẳng biết một cái gì hết! Ta… hai vị tướng quân… còn có… ”
“ Không phải sao?? Trần Đĩnh, ngươi tưởng một cái mạng quèn của kẻ sống dở chết dở như nhà ngươi đáng bằng hai mạng của nghĩa huynh ta ư? Ha, nực cười! ”
Phạm Ngũ Thư nhổ toẹt một bãi nước bọt, quát:
“ Chết?? Anh hùng lắm chắc? Rõ ràng là cái thứ hèn yếu, có nợ không dám trả, mới phải chọn cách yếu hèn đó để trốn tránh. ”
Nói đoạn, rút phắt thanh Hùng kiếm đen nhánh ra vứt thẳng sang cho Trần Đĩnh.
“ Kiếm đấy, danh kiếm của Khổng Lồ đấy. Có giỏi thì cầm lấy dùng nó mà tự kết liễu đi. Xuống dưới đó rồi chớ nói Ngũ Thư này không nể tình đối thủ cũ. ”
Trần Đĩnh run rẩy chộp lấy chuôi kiếm.
Đồng đen toả ra hơi lạnh kì ảo.
Nước đồng đen nhánh như muốn nuốt cả linh hồn ánh mắt hắn vào.
Mười năm trước…
Huyết Ẩm đã bị chém gãy một lần.
Đúng là bị chính thanh quái kiếm đen thui, lưỡi vuông như cái thước này phạt đứt.
Lê Hổ không nói không rằng.
Lê Thận cũng không tiện ngăn nữa.
Ân oán của người khác, y xen vào đã là không phải. Huống hồ hiện giờ tự Trần Đĩnh muốn vung kiếm tự xử, chẳng ai bắt buộc ép uổng hết.
Trần Đĩnh vung kiếm.
Lưỡi kiếm đen sì dừng ngay ở cần cổ, cách yết hầu y chỉ một khoảng bằng sợi tóc. Thậm chí da cổ Trần Đĩnh đã rách ra một chút, máu đã bắt đầu tứa ra thành tia.
Khoảng cách nửa sợi tóc bỗng hoá thành lạch trời, lưỡi kiếm đồng đen cũng không thể tiến thêm.
Chỉ vì một câu nói.
“ Ừ, cứ chết đi. Ta thì chả sao đâu, nhưng nàng Đồng Xuân thì chưa chắc. ”
Trần Đĩnh buông thõng tay, Hùng kiếm rơi xuống nền động đánh keng một cái.
Y giống như người mất hồn mỗi khi nhắc đến nàng Đồng Xuân, nhắc đến vợ mình.
Dưới cơn mưa dội xuống của Trung Thu mười năm trước, bàn tay giai nhân nhẹ nhàng vỗ lên mặt hắn.
Tiếng thì thào nhỏ như muỗi kêu, mùi hương thơm ngát hoa sen truyền đến choán đầy lỗ tai hắn.
“ Thiếp vẫn hay trộm nghĩ, một ngày sẽ có một đấng anh hùng tâm phúc tương tri, đường đường chính chính đến cưới thiếp về nhà, sính lễ chỉ buồng cau xấp trầu cũng được. Nhưng phận con đào thằng kép còn hèn mọn hơn đám thường dân, nên thiếp nào dám trèo cao? ”
Nàng trao thân cho hắn ngay đêm đó.
Sau khi hắn đã làm quá nhiều chuyện có lỗi với nàng.
[ Đúng. Mình mà chết bây giờ tội mình gây ra ai gánh?? Con gái mình ư?? Sao mình dám gặp lại Xuân, lại anh Đỗ anh Xạ?? Không! Không được!! ]
Trần Đĩnh nhặt Hùng kiếm lên, trả lại cho Ngũ Thư.
Y vái đối thủ cũ của mình một cái, điều trước đây y chưa bao giờ tưởng tượng ra mình sẽ làm.
Ngũ Thư nhận kiếm, nói:
“ Ở hồ Linh Lang ngươi nợ ta một mạng, tại cửa Hàm Tử lại nợ thêm hai cái đầu. Tổng là ba mạng sống. Phải cố mà chuộc tội. ”
“ Mạng tôi nay có xá gì, xin anh chỉ cho một con đường sáng. ”
Trần Đĩnh đáp, tay đặt lên trái tim.
Phạm Ngũ Thư chỏ vào thanh kiếm gãy:
“ Nay nước nhà đang buổi lâm nguy, giặc ngoại xâm hoành hành vô kị. Tại sao không theo tôi góp máu góp xương đuổi giặc. Để Huyết Ẩm uống máu ngoại xâm, chẳng phải tốt hơn à? ”
“ Không được!!!! ”
Lê Hổ đột nhiên đứng phắt dậy, quát to.
Trở lại chỗ hai đứa nhóc Tạng Cẩu…
“ Đây là Ngự Thư phòng. ”
Tiếng nói ỏn ẻn của Lý công công tiếp tục khiến thằng nhỏ mất tự nhiên. Nó chưa từng gặp hoạn quan lại cái bao giờ, huống hồ họ Lý còn là kẻ đặc biệt nữ tính trong đám thái giám.
Thế nhưng, khi nó nhỏm sang nhìn ngự thư phòng, mọi suy nghĩ khác đều bị quăng ra sau đầu.
Ngự Thư Phòng lớn như một toà đại tửu lâu nó thấy hôm qua vậy. Bên ngoài có thị vệ canh gác nghiêm cẩn, sợ rằng Quận Gió có sống lại cũng khó mà làm gì được.
Tạng Cẩu không tránh nổi sự kích động. Dẫu biết là Lý công công phía trước là cao thủ có hạng, nhưng nó không sao nén nổi xung động muốn vào nhìn Ngự Thư Phòng một lần.
“ Đứng đực ra đấy làm gì? Nhanh còn đi chỗ khác. Hứ. Bản công công bận rộn lắm. Không phải hoàng thượng truyền khẩu dụ, hai đứa bay chẳng có cái phúc đấy đâu. ”
Tạng Cẩu nghĩ thầm:
[ Ông mà là một kẻ võ công bình thường xem ai mới có phúc. ]
“ Ô kìa. Lý công công, không ở cạnh hầu hạ bệ hạ mà rảnh rỗi đi đâu thế này. Ngộ nhỡ long nhan đại nộ thì chết. ”
Chẳng biết ai vừa lên tiếng, nhưng âm thanh nghe ấm áp đến lạ kì. Chỉ lắng nghe thôi mà người ta cũng có cảm giác được gột rửa bởi nắng ấm tháng năm.
Lý công công cúi mình một cái, lại nói:
“ Đại y thiền sư hôm nay nhập cung, không phải là muốn diện thánh đấy chứ. Sao Lý mỗ chưa nhận được thánh chỉ?? ”
Phiêu Hương kéo tay áo Tạng Cẩu, nói nhỏ:
“ Ông già đứng đối diện Lý công công là người Đại Việt đấy. ”
“ Sao cậu biết?? ”
“ Tớ biết xem tướng mà. Dù còn kém chưa nói được vận mệnh tương lai, nhưng phân biệt người nước nam với người bắc quốc thì không thành vấn đề. ”
Tạng Cẩu cười khì:
“ Hiếm khi thấy Hương nhận mình kém môn gì đó nha. ”
Vị đại y thiền sư kia lại xua tay, nói:
“ Chà chà, làm gì có chuyện đó?? Chẳng là tôi đang thử dở thang thuốc, thế mà vèo cái sâm trong nhà đã dùng hết sạch. Thử hỏi có đen không? Ấy mà nhớ ngay được lần nọ từ quan, tiên đế đã cho tôi lệnh bài tuỳ ý ra vào dược khố. Nên đến đây xin một ít ấy mà. ”
Nói rồi ông vuốt râu, chỉ hai đứa nhỏ:
“ Ấy. Trông hai nhóc này không giống người Hoa nghen. ”
“ Dạ, chúng con là người Đại Việt. ”
Lý công công nạt ngay:
“ Tầm bậy tầm bạ. Giờ thì làm gì còn Đại Việt Đại Ngu? Chỉ còn quận Giao Chỉ của Đại Minh ta mà thôi. ”
Đại y thiền sư thấy vậy, vội nói đỡ:
“ Làm gì mà gay gắt thế? Trẻ con còn bé biết gì, cứ từ từ dạy. ”
Rồi lại nháy mắt ra hiệu với hai đứa nhỏ, chắp tay sau lưng ngâm khẽ:
“ Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần
Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình
Thôi chào công công. Tuệ Tĩnh đi trước vậy. ”
“ Thiền sư thong thả. ”
Lý công công cúi mình.
“ Tuệ Tĩnh thiền sư??? ”
Hai đứa nhóc quay sang, nhìn nhau.
Thì ra ông già râu trắng tóc bạc, dáng vẻ bình dị dễ gần hai đứa mới gặp, lại là thiền sư Tuệ Tĩnh, người được mệnh danh là ông thánh thuốc Nam.
Năm đó không phải ông ra tay nấu chảy lò thuốc, đúc ba tấm thánh lệnh, e là võ lâm còn phải loạn lạc lung tung một trận.
Cứ theo tin đồn lan truyền trong dân gian là ông đã quy tiên ở đất khách, không ngờ vẫn còn mạnh khoẻ ra ra vào vào cung cấm.
“ Đi nhanh lên. ”
Lý công công giục.
Hai đứa nhóc đi hết một ngàu trời, mới tham quan được sơ sơ hoàng cung nước người. Lúc này trời đã nhá nhem, Lý công công dẫn hai đứa về chỗ ở tạm, sau đó bèn quay về chỗ Chu Đệ để chờ lệnh.
Hai đứa nhóc đẩy cửa phòng, phát hiện Hồ Nguyên Trừng đã ngồi bên mâm cơm chờ sẵn.
Ba người vừa dùng bữa, vừa nói chuyện.
“ Hôm nay đi chơi có vui không? ”
Hồ Nguyên Trừng hỏi, nhưng lại lấy đầu ngón tay xoay vòng vòng trên bàn ra dấu.
Đấy là ám hiệu cho: [ Dò la được gì không? ]
Bởi hoàng cung tai vách mạch rừng, nên hôm qua Hồ Nguyên Trừng đã cất công soạn ám hiệu ra, bắt hai đứa nhóc học thuộc rồi đốt ngay lập tức.
Phiêu Hương nói:
“ Đi được bao nhiêu chỗ. Ngự Thiện Phòng này, Thượng Uyển này, Ngự Khố Phòng này, Ngự Thư phòng này. ”
Tạng Cẩu ra chiều tiếc rẻ:
“ Nhưng chỉ được đứng ngoài xem thôi. Giá như được vào tận bên trong cho thoả thì vui phải biết. ”
Hồ Nguyên Trừng gắp cho mỗi đứa một miếng, lại dùng đũa thọc vào bát cơm của cả hai. Miệng thì nói:
“ Ừ. Đứng ngoài xem qua là được rồi. Không cần để trong lòng. Nơi đây là hoàng cung trọng địa. Thành tổ để hai đứa tham quan là may mắn lắm rồi đấy. ”
Ám hiệu lần này là: [ Bình tĩnh chờ cơ hội. Tìm cách dò la tiếp sau. ]
Ba bác cháu đang dùng mật ngữ trao đổi hăng say, thì bỗng bên ngoài có tiếng người nói vọng vào:
“ Ới anh họ Hồ có đó không đấy?? ”
Thình lình nghe được tiếng mẹ đẻ ở nơi đất khách quê người luôn khiến cho người ta có một cảm giác nao nao trong lòng. Những tưởng quê hương đang hiện ra trước mắt theo từng âm thanh nhấn nhả.
“ Xin hỏi khách quý phương nào đến chơi đấy?? ”
Hai đứa nhóc tì thì quay ra nhìn nhau, đồng thanh reo lên:
“ Tuệ Tĩnh?? Là thiền sư Tuệ Tĩnh!! ”
Hồ Nguyên Trừng giật mình:
“ Thiền sư còn tại thế sao?? Mau. Mau theo chú ra đón người. ”
Chẳng mấy chốc, bốn người con mang dòng máu tiên rồng đã ngồi quây quần bên mâm cơm.
Tuệ Tĩnh thiền sư có vóc người cao, gầy, da hơi sạm. Ông vận một bộ áo vải bình thường, nhuộm màu nâu sồng dân dã, ra đường lớn cơ hồ nhìn đâu cũng thấy. Song khi ông mặc lên, lại có cái vẻ nhàn nhã tự nhiên, tiên phong đạo cốt.
Hồ Nguyên Trừng rót trà mời, thiền sư cũng nâng chén hoàn lễ. Hai đứa nhóc thì tất tả chạy đi khép hết cửa nẻo trong phòng.
Chừng nửa chén trà sau, Tuệ Tĩnh mới nói:
“ Lần này tôi vào cung, mọi người nghĩ có phải trùng hợp không?? ”
Hồ Nguyên Trừng cười khẽ, lại rót đầy chén trà cho ông chứ không đáp. Chàng cố tình nhìn hai đứa nhỏ.
“ Có phải do bác Khanh nhờ vả không ạ? ”
Tạng Cẩu còn đang suy nghĩ xem nên đáp thế nào, thì Phiêu Hương đã lên tiếng ngay.
Tuệ Tĩnh thiền sư vuốt râu, nói:
“ Không sai. Đúng là Ứng Long của Quốc Tử Giám đến nhờ cậy, lão già này mới phải lặn lội lê bộ xương mục nát này vào cung giúp mấy đứa. ”
Thiền sư lại hỏi:
“ Thế đã có manh mối nào chưa?? ”
Tạng Cẩu lắc đầu, thở dài.
“ Vẫn chưa. Chúng con đang định vào Ngự Thư phòng, tìm thử xem có tư liệu nào về cuộc bắc hành của ông tổ Khổng Lồ không. ”
Nó lại lấy cái trống đồng con ra đặt lên bàn.
“ Manh mối duy nhất chỉ có thứ này. Chúng con biết nó là do Khổng Lồ rèn đúc trong khi sang Tàu, nên chỉ có cách bắt đầu tìm hiểu từ ông ấy. ”
Tuệ Tĩnh nhìn chiếc trống con, nét kinh hãi thoáng hiện trên gương mặt phúc hậu. Ông nâng trống lên, hết nhìn đai trống, mặt trống, lại ngó trôn trống.
Rốt cục, ông lên tiếng:
“ Sao con có được thứ này?? ”