Quách Tuân không thể cầm được nước mắt, cứ thế cuồn cuộn chảy ra. Gã chậm rãi quỳ trên mặt đất, ôm lấy Địch Thanh trong bùn lầy, nức nở nói:
- Địch Thanh, ngươi vì sao phải cứu ta? Ngươi vốn không đáng phải chết! Ta đâu đáng để ngươi cứu ... ?
Khoảnh khắc này trong lòng gã chán chường như chết, hận không thể thay Địch Thanh đi tìm chết. Trong đầu Quách Tuân lại hiện lên hình ảnh của người con gái như hoa mai nở rộ ấy, nàng chỉ thẳng vào mặt gã mà mắng:
- Quách Tuân, ngươi điên rồi! Ngươi đánh chồng ta trọng thương, ta cả đời cũng sẽ không tha thứ cho ngươi!
Quách Tuân đau lòng gần chết, lẩm bẩm nói:
- Mai Tuyết, ta thật xin lỗi vợ chồng nàng. Ta đã hại chết con trai của các ngươi rồi, ta còn mặt mũi nào sống trên cõi đời này nữa?
Diệp Tri Thu cũng không nghe thấy lời Quách Tuân lẩm bẩm nhưng biết rõ vừa rồi nếu không có Địch Thanh thì Quách Tuân đã sớm toi mạng rồi. Địch Thanh dù biết bản thân mình không địch lại được nhưng vẫn dũng cảm cứu người nguy nan, ý chí này thật khiến cho người ta thán phục. Diệp Tri Thu đột nhiên cảm thấy ở giữa không trung có tia sáng khác thường, y quay đầu lại nhìn thì không ngờ lại thấy được một quả cầu lửa xẹt xẹt qua bầu trời.
Quả cầu lửa này thật lớn, cực kỳ đẹp mắt, lúc bay về phía chân trời thì cơ hồ soi sáng cả nửa bầu trời.
Quả cầu lửa vẽ ra một quỹ đạo chói mắt rồi rơi vào phía tây ngọn núi, từ đằng xa truyền đến một tiếng “Oanh” thật lớn. Ngay sau đó thung lũng Phi Long đất rung núi chuyển, vô số khối đá theo sườn dốc đổ ầm xuống giống như động đất.
Diệp Tri Thu cảm thấy bất an, không khỏi thất thanh kêu lên:
- Động đất sao?
Nhưng cơn chấn động này chỉ xảy ra trong chốc lát, trong nháy mắt đã yên tĩnh trở lại, tuy núi đá vẫn còn đang rung chuyển nhưng nó đã không còn cái uy lực khiến lòng người khiếp sợ như vừa rồi nữa. Chỉ còn từng cơn chấn động từ lòng đất truyền đến khiến người ta lạnh mình kinh hãi mà thôi.
Cuối cùng, Diệp Tri Thu cũng có thể đứng vững vàng gót chân, y thấy không có núi lở nữa bèn chậm rãi thở ra một hơi. Nhưng Quách Tuân quá bi thường nên vẫn chưa phát hiện ra có động đất. Diệp Tri Thu không nỡ lòng làm phiền gã, chỉ ngẩng đầu nhìn về phía quả cầu lửa bay tới thì thấy ở cuối phương hướng đó dường như có lửa cháy lớn, trong làn mưa đêm nhuộm đỏ rực một vùng.
Mưa tạnh mây tan, trăng sáng lại hiện.
Diệp Tri Thu thấy thung lũng Phi Long đầy thi thể, có mấy người dân mất lí trí may mắn còn sống đứng ngơ ngác trong nước bùn, thỉnh thoảng lại còn điên cuồng cười lớn mấy tiếng, nhưng không tìm người cắn xé nữa, vì Di Lặc phật chủ đã bỏ đi nên dược tính của mê dược đã nhạt dần, mọi người lúc này cũng đã bớt điên cuồng hơn. Tuy bọn họ tỉnh lại đi nữa, thấy mình giết hết những người thân thiết nhất để thành phật thì chỉ e là không chịu nổi mà phát điên lần nữa. Diệp Tri Thu nghĩ vậy thì không nén được mà thở dài trong lòng, thấy hồng quang ở phía tây đã nhạt dần, ngập ngừng mấy lần muốn đi tới đó quan sát xem chuyện gì đã xảy ra, nhưng cuối cùng đành xóa ý nghĩ này ra khỏi đầu.
Đang chìm trong suy nghĩ thì bỗng Diệp Tri Thu nhướng mày rồi ngồi chồm hổm xuống mặt đất, nhìn vào gáy Địch Thanh, ánh mắt lộ ra vẻ vô cùng kinh ngạc. Bởi vì hắn phát hiện sau gáy của Địch Thanh chỉ có vết máu rất nhỏ, bèn nhẹ nhàng thò tay bắt mạch cho Địch Thanh, đột nhiên kêu:
- Hắn còn sống!
Quách Tuân do quá thương tâm, trong đầu trống rỗng nên nghe Diệp Tri Thu hô to thì trong lòng kinh hoảng, vội hỏi:
- Ngươi nói cái gì?
Diệp Tri Thu nói:
- Mạch hắn vẫn còn đập!
Hắn lại đưa tay áp vào ngực của Địch Thanh, lập tức nói:
- Tim hắn còn đang đập.
Quách Tuân mừng rỡ, vội vàng đưa ngón tay đặt ở dưới mũi Địch Thanh nhưng không cảm nhận được có hô hấp. Gã bèn áp lỗ tai vào ngực của Địch Thanh mới phát hiện quả thực tim Địch Thanh vẫn còn đập nhưng rất khẽ, nếu không chú ý kĩ thì thực sự không khác gì người chết.
Quách Tuân lập tức ôm Địch Thanh đứng lên, nói:
- Diệp bộ đầu, ta phải đưa hắn đi tìm đại phu, mọi chuyện ở đây giao cho ngươi xử lý.
Diệp Tri Thu nói:
- Nhưng huynh cũng đang bị thương, nếu như gặp phải thủ hạ của phật Di Lặc thì làm sao?
Quách Tuân tức tối nói:
- Đám chuột nhắt nhát gan ấy cũng dám đi tìm ta sao?
Diệp Tri Thu vẫn chưa yên lòng, nói:
- Ta hộ tống huynh đi ra ngoài, chờ gặp được thuộc hạ của huynh rồi hãy nói.
Quách Tuân đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn hỏi:
- Bọn Quách Mạc Sơn đâu rồi?
Nhìn thi thể chất đầy đất như vậy thì thật khó có thể phân biệt, chỉ sợ mấy huynh đệ này đã chết ở thung lũng Phi Long rồi, Quách Tuân thầm nghĩ như vậy, trong lòng cảm thấy buồn bã. Nhưng lúc này cứu mạng Địch Thanh quan trọng hơn nên Quách Tuân quyết định phải rời khỏi cốc ngay lập tức. Tuy nhiên, gã mới ôm Địch Thanh đi được vài bước đã cảm thấy trời đất quay cuồng, đứng thẳng cũng khó khăn. Diệp Tri Thu vội vàng ôm lấy Địch Thanh, dìu Quách Tuân thất tha thất thểu đi ra khỏi cốc. Bọn họ đi được vài dặm thì bỗng nghe thấy có người hô to:
- Là Quách đại nhân.
Một người chạy tới, thì ra là thủ hạ Triệu Luật của Quách Tuân.
Triệu Luật thấy Quách Tuân thương tích đầy mình thì không khỏi kinh hãi, vội bắn pháo hoa báo hiệu triệu tập mọi người đến đây. Bấy giờ lại có mấy cấm quân đi đến, Diệp Tri Thu bèn kể lại qua loa sự việc vừa xảy ra. Mọi người thấy Quách Tuân bị thương nặng khó đi lại nên vội vàng phái người cõng gã, cùng lúc đó có người khác đỡ lấy Địch Thanh từ trên tay Diệp Tri Thu.
Diệp Tri Thu nhìn thấy pháo hoa thì lại nghĩ tới hỏa cầu mà mình nhìn thấy lúc nãy, bèn hỏi:
- Vừa rồi các ngươi có thấy một quả cầu lửa từ giữa không trung bay qua không?
Triệu Luật gật đầu nói:
- Đúng là có thật, không biết đó là thứ quái quỷ gì. Nhưng mà chúng tôi không dám tự ý rời bỏ vị trí cho nên không có ai đi xem.
Quách Tuân ngạc nhiên nói:
- Quả cầu lửa gì thế?
Diệp Tri Thu kể lại đầu đuôi sự việc nhưng Quách Tuân cũng cảm thấy không hiểu cho lắm, thấy Diệp Tri Thu có ý định muốn đi tìm tòi nghiên cứu một phen bèn nói:
- Diệp bộ đầu, ngươi cứ đi xem đi, ở đây giao cho bọn người Triệu Luật xử lý được rồi. Triệu Luật, ngươi phái mấy huynh đệ đi tới thung lũng Phi Long tìm xem bọn người Quách Mạc Sơn, Trương Hải, Vương Tắc thế nào rồi. Nếu như chưa chết thì quá tốt, còn nếu như đã chết thì phải đem thi thể bọn họ mai táng cho thật tốt. Lý Giản, ngươi đi báo cho quan phủ địa phương để cho bọn họ xử lý những thi thể ở đây...
Lúc này lại có một vài cấm quân lần lượt tới báo, những người này vốn chịu trách nhiệm chặn lối đi chính nhưng không thấy Di Lặc phật chủ và Đa Văn Thiên Vương ở đâu. Những người này cũng nhìn thấy quả cầu lửa, đều nói cảnh tượng này hết sức kỳ dị song rốt cuộc là như thế nào thì không ai biết được nguyên do.
Quách Tuân lập tức phân công mấy tên thủ hạ đi trước tới các huyện Hiếu Nghĩa, Giới Hưu, Linh Thạch xung quanh Bạch Bích lĩnh tìm thầy thuốc.
Chờ mọi thứ đã được phân phó thỏa đáng, Diệp Tri Thu thấy bên người Quách Tuân đã có hộ vệ nên muốn tới phía tây dãy núi tìm kiếm xem đến tột cùng đã xảy ra chuyện gì, bèn cáo từ đi ngay. Trước khi đi, Diệp Tri Thu đột nhiên nhớ tới cái gì đó, bèn nói:
- Quách đại nhân, lúc nãy tên phật Di Lặc bảo hai tên thủ hạ tấn công ngài, người có biết hắn nói gì không?
Quách Tuân nhớ lại nói:
- Lời nói của tên phản nghịch này ta cũng chưa bao giờ nghe qua, có thể đó là thổ ngữ của vùng hẻo lánh nào đó? Nếu như có thể biết được tiếng địa phương đó là của nơi nào, nói không chừng có thể bắt được phần tử trợ giúp cho phật Di Lặc.
Diệp Tri Thu cũng nghĩ như vậy, lắc đầu nói:
- Không giống như là tiếng địa phương, tiếng địa phương từ nam chí bắc ta đều có đọc qua, nhưng chưa bao giờ nghe qua thứ tiếng này...
Thấy Quách Tuân không yên lòng, Diệp Tri Thu lại nói:
- Được rồi, tại hạ tiếp tục đi điều tra, Quách đại nhân nhanh tìm người cứu chữa cho Địch Thanh đi đã.
Thấy Quách Tuân che miệng lại ho khe khẽ, trên tay tràn đầy máu tươi, Diệp Tri Thu nói:
- Quách đại nhân, người nên chú ý sức khỏe. Lần này... Đa tạ Quách đại nhân đã ra tay, triều đình rất cần người như đại nhân.
Quách Tuân gật đầu thở dài:
- Đây là trách nhiệm của ta nhưng không ngờ làm liên lụy Địch Thanh, chỉ mong rằng hắn có thể sớm khỏe lại.
Gã và Diệp Tri Thu cáo từ, ra khỏi Bạch Bích lĩnh thì đã có cấm quân tới tiếp ứng. Triệu Luật không biết tìm đâu ra hai cỗ xe ngựa, Quách Tuân lo lắng cho Địch Thanh nên tự mình ôm Địch Thanh bước lên xe ngựa, lại sợ xe tròng trành làm thương thế Địch Thanh thêm xấu nên dọc đường đi cứ ôm Địch Thanh không chịu rời tay.
Trong lòng bọn người Triệu Luật cảm kỳ quái, thầm nghĩ Địch Thanh chẳng qua chỉ là một tên thường dân, mà sao Quách đại nhân lại ưu ái hắn đến vậy? Nhưng nhìn thấy vẻ mặt trầm trọng của Quách Tuân thì không ai dám hỏi.
Nhân lúc trời còn tối, mọi người gấp rút lên đường, đến lúc trời hừng sáng đã đến được huyện Hiếu Nghĩa. Lúc này đã có cấm quân tới Hiếu Nghĩa trước, mời mấy đại phu giỏi nhất ở đây tới.
Hiếu Nghĩa vốn là một huyện nhỏ, huyện lệnh nghe nói Điện tiền chỉ huy sứ giá lâm thì cuống cuồng chạy tới bái kiến. Quách Tuân không có lòng dạ nào xã giao mà chỉ nhìn chằm chằm vào mấy vị đại phu, mong bọn họ có thể nói ra bốn chữ 'Có thể cứu chữa'. Nhưng mấy đại phu này đều lắc đầu, bốn chữ nói ra lại là "Người này đã chết!"
Quách Tuân giận dữ, thiếu chút nữa là đem bốn vị đại phu này đi chôn sống. Cũng may gã không phải là người ngang ngược, không nói đạo lý với người khác nên cố đè nén cơn giận dữ xuống, biết rõ những người này đã bó tay rồi. Gã không muốn lãng phí thời gian ở nơi đây nữa bèn bảo huyện lệnh tìm mấy thớt ngựa tốt nhất, một lần nữa lên xe ngựa chạy một mạch về hướng nam, đi tới Linh Thạch.
Khi tới được Linh Thạch, huyện lệnh đã sớm cùng mấy vị đại phu cung kính chờ đợi, một đại phu tiến lên bắt mạch cho Địch Thanh rồi nhíu mày nói:
- Đại nhân, người này đã chết!
Huyện lệnh Linh Thạch cau mày quát lớn:
- Ngươi nói bậy bạ gì đó, hắn rõ ràng ... vẫn còn một chút cơ hội sống mà.
Thật ra trong lòng huyện lệnh cũng cảm thấy Địch Thanh vô phương cứu chữa nhưng không dám đắc tội Quách Tuân, thầm nghĩ Địch Thanh muốn chết cũng được nhưng không nên chết ở huyện Linh Thạch.
Quách Tuân thở dài một hơi, không biết làm gì hơn. Lúc này có một lão già tiến lên nói:
- Đại nhân, vị tiểu ca này não bộ bị tổn thương dẫn đến hôn mê bất tỉnh, gọi là chết giả, chứng bệnh này thuốc thang và châm cứu đều không có tác dụng.
Lòng Quách Tuân khẽ động, vội hỏi:
- Vậy cái gì mới có tác dụng đây?
Lão già đáp:
- Lão phu sống đến chừng này tuổi đã gặp qua không ít chứng bệnh kì quái phức tạp, biết được rằng trước đây cũng có một người giống như tiểu huynh đệ này. Đó là một đứa bé bướng bỉnh, trèo cây không cẩn thận bị ngã xuống đất, đầu bị một cái cào sắt đâm vào khiến cho hôn mê bất tỉnh.
Quách Tuân gấp gáp hỏi:
- Đứa bé kia sau đó sống hay chết?
Gã nhìn chằm chằm lão già, chỉ mong được nghe hai chữ "Còn sống", bởi vì đứa bé ấy nếu như có thể sống thì Địch Thanh sẽ có cơ hội.
Lão già đáp:
Đứa nhỏ sau này đúng là có tỉnh lại, nhờ thần y Vương Duy Nhất ở kinh thành cứu chữa.
Quách Tuân nghe được ba chữ "Vương Duy Nhất" thì vỗ đùi đen đét, hét lớn:
- Ta thật nóng vội quá mà hồ đồ rồi, sao lại quên hắn chứ, không ngờ lại còn lãng phí công sức ở đây làm gì không biết?
Dĩ nhiên là Quách Tuân biết kỳ nhân Vương Duy Nhất, người này mặc dù tuổi tác không lớn nhưng y thuật cực kỳ tinh thông, rất nổi tiếng ở kinh thành.
Vương Duy Nhất hiểu rõ hệ thống kinh mạch của cơ thể người, tinh thông thuật châm cứu từ xưa tới nay, với người bị bệnh nặng thường không cần phải uống thuốc mà chỉ cần châm một châm là công hiệu ngay. Mấy năm trước còn nâng trình độ hiểu biết lên một tầm cao mới, nhờ triều đình hỗ trợ chế tạo hai đồng nhân (*hình người bằng đồng) làm bản mẫu cho thuật châm cứu, phát triển mạnh thuật châm cứu, vang danh thiên hạ. Nước Khiết Đan dù chỉ mới nghe thấy thôi nhưng cũng thèm khát được nhìn thấy đồng nhân này, chỉ tiếc là cầu mà không được. Bây giờ Địch Thanh chẳng có thuốc thang nào chữa được, cách duy nhất cứu tính mạng hắn chắc chỉ có thể nhờ vào tài châm cứu của Vương Duy Nhất.
Quách Tuân suy nghĩ tới đây đột nhiên đứng bật dậy, ra lệnh cho Triệu Luật đi chuẩn bị ngựa. Thấy đám đại phu đều ngượng ngùng, có lẽ còn canh cánh trong lòng những lời nói của mình, Quách Tuân cảm thấy hơi áy náy, suy cho cùng thì những người này cũng đã khổ cực một phen. Gã nghĩ tới đây bèn dặn tri huyện:
- Những đại phu này đã vất vả rồi, ta vẫn còn muốn làm phiền tri huyện đại nhân cấp cho họ chút tiền thưởng.
Tri huyện Linh Thạch chỉ mong Địch Thanh đừng chết ở chỗ này thì giá nào cũng trả, ngay lập tức khen thưởng mấy đại phu kia. Mấy lão già vừa được trọng thưởng xong, ai cũng vui vẻ. Quách Tuân đột nhiên nhớ tới một chuyện, hỏi:
- Lão trượng, ông có biết đứa bé đó trước kia ở nơi nào hay không?
Lão già do dự một lát rồi mới nói:
- Đứa bé này sau khi được cứu chữa thì theo cha mẹ nó về quê, nhưng chỉ nửa năm thì đột nhiên mất tích khiến cho cha mẹ nó thương tâm gần chết.
Thấy vẻ mặt của Quách Tuân tràn đầy hoài nghi, lão già vội nói tiếp:
- Đại nhân, việc này không phải lão hủ bịa ra đâu, nếu người đến quê nhà của lão hủ, chỉ cần hỏi thăm một chút sẽ biết được việc này.
Quách Tuân vội đáp:
- Ta không phải là không tin ông, chẳng qua là không hiểu đứa bé này đã đi đâu?
Tri huyện Linh Thạch nói:
- Quách đại nhân, hạ quan thật sự không nghe có ai trình báo cả, nên không biết biệc này.
Quách Tuân thấy hắn đùn đẩy trách nhiệm, nghĩ rằng việc này đã xảy ra lâu rồi, chắc cũng đã trở thành nghi án nên không có tâm tư quan tâm tới việc này. Lúc này Triệu Luật đã chuẩn bị ngựa xong, cấm quân ở thung lũng Phi Long cũng đã chạy tới, báo rằng không tìm thấy thi thể của bọn người Quách Mạc Sơn cũng như tung tích của bọn họ. Quách Tuân cảm thấy vô cùng khó hiểu, thầm nghĩ mấy người này đều rất thông minh, nếu như không chết thì thế nào cũng sẽ tìm cách liên lạc với cấm quân ở ngoài cốc, sao lại không có tung tích gì? Nhưng lúc này lòng dạ của gã hoàn toàn chỉ nghĩ tới Địch Thanh chứ không lo được nhiều chuyện, ngay lập tức ra lệnh cho cấm quân tiếp tục tìm kiếm, còn mình thì mang Địch Thanh lên xe ngựa, dẫn theo một nhóm cấm quân trở về kinh thành.
Chạy một mạch cả ngày lẫn đêm không nghỉ, cấm quân phía trước cưỡi ngựa phi như tên bắn, lại liên tục đổi ngựa. Mọi người vượt Long Đức quân(1), qua Hoài Châu, vượt sông Hoàng Hà đến Biện Khẩu, dọc theo dòng sông Biện, cuối cùng cũng đến được Khai Phong.
Kinh thành Khai Phong, dưới chân thiên tử.
Đây là lúc triều Tống yên ổn hưng thịnh phồn hoa nhất, thủ đô Khai Phong phủ của Đại Tống có thể nói là giao với tám phương, thông cùng vạn nước, là thời kì hưng thịnh nhất.
Lúc bấy giờ tuy quân sự Đại Tống đã suy yếu từ lâu, nhưng sau khi Tống Chân Tông ký Minh ước Thiền Uyên (2) với Khiết Đan ở phương bắc, Đại Tống đã có gần ba mươi năm không bị gây chiến. Tuy vùng tây bắc chiến loạn nổ ra liên tiếp nhưng tạm thời không ảnh hưởng đến đại cuộc, hiện nay Đông Kinh Khai Phong (3) phồn thịnh ấm êm, đã trở thành thủ đô mơ ước trong mắt người thiên hạ…
Trong trời đất mênh mông, thành Khai Phong đồ sộ nguy nga, trang nghiêm hùng tráng không lời nào tả xiết.
Từ vùng thung lũng Phi Long sát khí khắp nơi đến phủ Khai Phong ca múa thái bình, một đường từ địa ngục thẳng đến thiên đường. Đám cấm quân bôn ba nhiều ngày, bây giờ tất cả đều thở ra một hơi nhẹ nhõm, trên mặt người nào cũng mang theo vẻ thanh thản dễ chịu. Chỉ có Quách Tuân là hai hàng lông mày nhíu chặt, nhìn trời xanh cầu xin:"Ông trời ở trên cao, chỉ cầu người mở mắt cứu tính mạng của Địch Thanh. Dù cho Quách Tuân này có phải giảm thọ mười năm cũng cam tâm tình nguyện." Gã ho khan vài tiếng, giọng nói có chút khàn khàn. Thương thế của gã còn chưa có khỏi, lại bôn ba mấy ngày liền, dù cho thân thể có làm bằng sắt cũng khó mà khỏe được.
Quách Tuân vào thành Khai Phong liền ra lệnh cho thuộc hạ đem Địch Thanh về phủ của mình, sau đó sai người đi mời thần y Vương Duy Nhất, còn riêng gã thì lại đến Tam Nha phục mệnh. Quách Tuân là Điện tiền chỉ huy sứ, chịu sự quản lý của Tam Nha(4), lần này tuy không giết chết được Di Lặc phật chủ nhưng đã giết chết ba người trong Tứ Đại Thiên Vương, cũng tính là có công. Di Lặc phật chủ sau sự việc lần này e rằng trong thời gian ngắn khó mà khôi phục được như cũ. Về việc truy cùng giết tận thì tạm thời giao cho Diệp Tri Thu phụ trách là được rồi, thân phận của Tam Đại Thiên Vương cũng do Diệp Tri Thu tiếp tục điều tra, Quách Tuân chỉ lo đến đây, chẳng rảnh đâu đi quan tâm hết những chuyện đó.
Khi Quách Tuân từ Tam Nha quay trở về phủ thì Vương Duy Nhất đã đến, đang ngồi bắt mạch cho Địch Thanh.
Vương Duy Nhất quần áo giản dị, sắc mặt hồng hào, chỉ có điều râu dưới cằm giống như kim châm, thoạt nhìn chỉ cần rút một sợi là có thể dùng để châm cứu. Thấy Quách Tuân vào phòng, Vương Duy Nhất đứng dậy nói:
- Tham kiến Quách đại nhân.
Quách Tuân thi lễ nói:
- Quách mỗ vừa trở về kinh thành đã làm phiền Vương thần y, thật áy náy quá.
Vương Duy Nhất cười nói:
- Trước đây nếu không có Quách đại nhân trượng nghĩa cứu giúp thì trên đời này làm gì còn Vương Duy Nhất, một chút việc nhỏ này Quách đại nhân cần gì phải khách khí chứ?
Quách Tuân thấy Vương Duy Nhất vẫn còn có thể nở một nụ cười thì trong lòng có thêm vài phần hy vọng.
Hóa ra Vương Duy Nhất bây giờ tuy là thần y, nhưng nhiều năm trước chỉ là một thầy thuốc nghèo khó. Trước đây lúc lão mới vào kinh, trên đường đi gặp bọn đạo tặc cướp của giết người, nếu như vào lúc đó Quách Tuân không đi ngang qua, không chừng Vương Duy Nhất bây giờ đã là thần tiên. Sau việc đó, Quách Tuân và Vương Duy Nhất ít có cơ hội gặp gỡ nhau. Quách Tuân tính tình nghĩa hiệp, cả đời cứu người vô số, mấy chuyện như vậy chẳng bao giờ để ý, nếu không phải vì Địch Thanh bị thương nặng thì chắc gã cũng sẽ không nghĩ tới Vương Duy Nhất.
Lúc này nghe được Vương Duy Nhất nói như thế, Quách Tuân khiên tốn nói:
- Vương thần y nói quá lời rồi, ông lòng dạ nhân từ làm đồng nhân cứu giúp mọi người, tạo phúc nhân gian, chắc chắn sẽ có thiện báo. Chẳng hay Địch Thanh ... chừng nào mới tỉnh lại được?
Vương Duy Nhất cau mày nói:
- Thực ra tình trạng não bộ bị tổn thương nặng nhưng vẫn còn sống như hắn, ta cũng đã từng gặp qua vài trường hợp. Cơ thể người vốn là một tạo vật kỳ diệu, hắn có thể tỉnh lại hay không thì ta cũng không biết được, chỉ có thể trông chờ vào ý chí sinh tồn của hắn. Mạng sống của con người có thể kiên cường như đá, hoặc mong manh như gió, chỉ khi hắn muốn sống lại thì ta mới có hy vọng cứu hắn.
Thấy Quách Tuân tỏ vẻ khó hiểu, Vương Duy Nhất giải thích:
- Sách cổ có nói rằng, 'Tâm tàng thần, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí.' Tủy hải của Địch Thanh, cũng chính là bộ não của hắn và những cái này không thể tách rời, Địch Thanh mặc dù chỉ hôn mê mà không chết, nhưng mối dây liên hệ ý chí của hắn là rất lớn, nếu cắt đứt thì chắc chắn hắn phải chết.
Quách Tuân lo lắng hỏi:
- Nếu như hắn không thể tỉnh lại thì còn có thể duy trì bao lâu?
Vương Duy Nhất đáp:
- Tình trạng của hắn lúc này rất giống với loài động vật ngủ đông, thể lực tiêu hao rất nhỏ cho nên mới có thể sống đến bây giờ. Nhưng mà...hắn chẳng duy trì được mấy ngày nữa đâu, theo như ta thấy thì bảy ngày là cao nhất.
Vẻ mặt Quách Tuân trầm hẳn xuống, lẩm bẩm nói:
- Chỉ có bảy ngày thôi sao?
----------
Vương Duy Nhất và Quách Tuân quen biết nhau đã nhiều năm, nhưng chưa bao giờ thấy trên mặt Quách Tuân lộ ra vẻ chán chường buồn bã như vậy, không nhịn được hỏi:
- Quách đại nhân, xin hỏi Địch Thanh có quan hệ gì với ngài vậy?
Quách Tuân lưỡng lự một chút mới nói:
- Nếu như không có hắn thì người chết đã là ta rồi!
Vương Duy Nhất thầm nghĩ:
- Quách Tuân cả đời cứu vô số người, lần này được người khác tương cứu, hèn chi tận lực báo đáp như vậy. Nhưng gã Địch Thanh này có bản lĩnh gì mà có thể cứu được Quách Tuân nhỉ?
Không tiện hỏi nhiều nên Vương Duy Nhất đành nói:
- Quách đại nhân, ta đã cố gắng hết sức rồi. Để xem nào, hắn có người thân nào không?
Quách Tuân đáp:
- Có, người thân nhất của Địch Thanh là đại ca Địch Vân của hắn, ở Phần Châu huyện Tây Hà. Ta đã sai người mời hắn đến.
Quách Tuân cẩn trọng tinh tế, trong khi tìm thầy thuốc tốt nhất cho Địch Thanh đã đồng thời phái người đi mời Địch Vân đến đây, thầm nghĩ nếu như Địch Thanh thực sự không qua khỏi thì cũng có thể để cho Địch Vân tạm biệt đệ đệ lần cuối.
Vương Duy Nhất mừng rỡ nói:
- Thế thì tốt quá! Trước tiên ta sẽ châm thử cho hắn xem có thể làm hắn tỉnh lại hay không. Nếu như Địch Vân đến đây thì mời hắn tới gặp ta ngay. Quách đại nhân, con người có tứ hải ngũ tạng, mười hai kinh mạch, tứ hải phân thành tủy hải, huyết hải, khí hải và thủy cốc chi hải, thì não chính là tủy hải, bây giờ tủy hải Địch Thanh bị tắc nghẽn do bị thương nặng, ngoại vật đâm vào không thể rút ra, chỉ sợ rằng khi rút ra sẽ chết, ta chỉ mong dùng thuật châm cứu để khai thông con đường nối giữa tủy hải và ngũ tạng của hắn, hy vọng có thể làm cho hắn tỉnh lại. Bây giờ nếu muốn châm cứu thì sẽ bắt đầu từ huyệt bách hội và huyệt phong phủ của hắn, bách hội nối liền với thái dương bàng quang kinh, phong thủ nối liền liền với đốc mạch trong kỳ kinh bát mạch, hai kinh lạc này đều có quan hệ với tủy hải...
Quách Tuân nói:
- Vương thần y, những cái này ta nghe cũng chẳng hiểu gì, ngài cứ việc làm đi là được rồi. Nếu như ngay cả ngài cũng không cứu được thì chỉ sợ trong kinh thành này cũng chẳng có ai đủ khả năng cứu hắn.
Dứt lời, gã thở dài một tiếng, hai hàng lông mày nhíu chặt lại.
Vương Duy Nhất không nói thêm lời nào, lập tức thi châm. Lão phân biệt huyệt đạo cực chuẩn, động tác thuần thục, dường như nhắm mắt cũng có thể châm vào chính xác không sai một li. Quách Tuân đợi một lúc lâu nhưng không thấy Địch Thanh tỉnh lại, nhìn thấy Vương Duy Nhất đang tập trung rất căng thẳng, thỉnh thoảng lại bắt mạch cho Địch Thanh nên không muốn làm phiền mà lặng lẽ đi ra ngoài.
Quách Tuân vừa mới đến đình viện thì một đứa bé hoạt bát chạy tới, ôm lấy cổ Quách Tuân nói:
- Đại ca!
Quách Tuân tạm thời gác tâm sự sang một bên, bế đứa bé lên nói:
- Đệ đệ, đệ lại cao hơn rồi đó.
Đứa bé này tên là Quách Quỳ(5), mắt to đầu bự rất tinh quái. Quách Quỳ và Quách Tuân cũng không phải cùng một mẹ sinh ra, nhưng Quách Tuân rất mực thương yêu đứa em trai này.
Quách Quỳ hiếu kỳ nói:
- Đại ca, Địch Thanh là ai vậy, vì sao huynh lại hao tâm tổn sức để cứu hắn chứ?
Quách Tuân chậm rãi ngồi xuống ghế đá trong đình viện, đáp:
- Người đó ... Hắn là một anh hùng.
Quách Quỳ vội kêu lên:
- Rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra vậy, đại ca kể cho đệ nghe được không?
Quách Tuân thấy đệ đệ háo hức chờ đợi nên y không nỡ từ chối, bèn kể lại sơ lược những chuyện xảy ra ở thung lũng Phi Long, nhưng không kể nhiều về chuyện mình chiến đấu anh dũng ra sao, chỉ bảo rằng trong lúc nguy hiểm nhất, Địch Thanh đột nhiên ra tay ngăn cản địch nhân, cứu lấy tính mạng của Quách Tuân, nhưng Địch Thanh lại bị kẻ địch đánh cho bị thương nặng.
Quách Quỳ nghe xong, chớp đôi mắt to, nói:
- Đại ca, không ngờ ... Hắn lại bị thương nặng như vậy. Nếu hắn tỉnh lại, đệ nhất định phải cảm ơn hắn.
Quách Tuân buồn bã lắc đầu nói:
- Chỉ e hắn khó mà tỉnh lại.
Hai huynh đệ trầm mặc một lúc lâu, trong lòng Quách Tuân có tâm sự, còn Quách Quỳ cũng giống như đang lo lắng cái gì đó. Không biết đã qua bao lâu, Quách Quỳ đột nhiên nói:
- Đại ca, huynh kể cho đệ nghe chuyện xưa đi?
Quách Tuân cả ngày bận rộn ngược xuôi, mỗi lần khi trở về, Quách Quỳ đều quấn quít lấy đại ca để đòi kể những chuyện thú vị, nhưng lần này thấy tâm tình của đại ca không vui nên nó muốn đùa một chút cho vui vẻ.
Quách Tuân nhìn lên bầu trời, đúng lúc mặt trời lặn xuống, như đang tan ra, mây chiều như núi, cảnh sắc bầu trời thật tráng lệ.
Trầm mặc một lúc lâu, Quách Tuân lúc này mới nói:
- Được, huynh sẽ kể một câu chuyện xưa cho đệ nghe.
Lấy giọng trầm ngâm, Quách Tuân nói:
- Trước đây có một người xuất thân thế gia, văn võ song toàn, không để một ai trong mắt. Võ công hắn không tệ nhưng mà không biết giấu tài, cả ngày chỉ biết dốc sức đánh nhau với người ta, hắn cho rằng có thể dùng nắm đấm để giải quyết tất cả vấn đề.
Quách Quỳ nói:
- Như thế thì có khác gì bọn lưu manh đầu đường xó chợ chứ?
Nó ngẩng đầu nhìn Quách Tuân nói:
- Đại ca yên tâm, đệ sẽ không trở thành loại người như thế đâu!
Quách Tuân vỗ vai đệ đệ, vui mừng nói:
- Đệ quả thực đã hiểu chuyện hơn rồi.
- Sau này người đó ra sao?
Quách Quỳ hỏi.
Quách Tuân thở dài nói:
- Sau này người đó gặp một người con gái, nàng đẹp như tiên nữ trên trời vậy, người đó vừa nhìn thấy đã hạ quyết tâm dù thế nào cũng phải giành được nàng. Không ngờ người con gái ấy chẳng thèm nhìn hắn lấy một cái, ngược lại còn có tình cảm với một gã thư sinh nho nhã yếu đuối.
Quách Quỳ cười nói:
- Cũng có thể cô ấy cho rằng... không chiếm được mới quý chăng? Có đôi khi đệ cũng giống như vậy, nhìn thấy cây kẹo đường hồ lô trên tay người ta thì thấy ngon nhưng khi ở trong tay mình thì thấy nó cũng bình thường.
Quách Tuân không ngờ đệ đệ lại lấy ví dụ như thế, muốn cười to nhưng trong lòng lại tràn đầy đau khổ, lẩm bẩm nói:
- Đúng là như vậy sao?
Quay đầu nhìn về phía ánh chiều tà mặt trời sắp lặn, Quách Tuân lại nói:
- Nhưng quân nhân này cũng không hề muốn làm như vậy, chỉ hận nàng có mắt như mù, lại vừa hận thư sinh kia cướp đoạt nữ nhân của hắn. Hắn vốn là người tính tình cuồng ngạo, hơn nữa chưa bao giờ phải chịu thất bại, tự cao tự đại, lòng đố kị dâng cao, chẳng còn biết mình là đúng hay sai. Nhưng hắn càng kiêu ngạo thì người con gái đẹp như hoa mai kia càng xem thường hắn, lại còn thân thiết với thư sinh kia hơn. Đến một ngày quân nhân kia lửa giận bùng lên không kiềm chế được, đi vào nhà trọ tìm được thư sinh kia, cho hắn mười hai vàng rồi bảo hắn lập tức phải rời xa nàng ấy. Khi đó thư sinh đang muốn thi khoa cử nên đương nhiên không chịu rời đi. Huống hồ, dù hắn không thi khoa cử thì cũng không đời nào chấp nhận rời khỏi nàng.
Quách Quỳ bắt chước bộ dáng thở dài của Quách đại nhân:
- Chuyện này của đại ca cũ rích à, đệ dùng đầu gối suy nghĩ cũng có thể biết được kết quả. Quân nhân này đánh thư sinh kia bị thương, bị thanh thiên đại lão gia của phủ Khai Phong chém, đúng không?
Thấy Quách Tuân sắc mặt cổ quái nhìn mình, Quách Quỳ giảo hoạt nói:
- Đệ biết nỗi khổ trong lòng của đại ca, huynh sợ đệ học phải thói xấu nên dùng chuyện xưa này khuyên đệ phải không? Đệ biết mà.
Quách Tuân một lúc lâu mới nói:
- Đệ thật là ... con mẹ nó... thông minh. Xem ra sau này ... huynh phải nhờ đệ kể chuyện rồi.
Quách Quỳ vỗ hai bàn tay nhỏ cười ha hả. Quách Tuân cũng cố nặn ra một nụ cười, vỗ vỗ vào cái đầu to của tiểu đệ, nói rằng:
- Đệ đi chơi đi, huynh muốn yên tĩnh một lát.
Mục đích trêu đùa đại ca của Quách Quỳ đã đạt được, cậu bé nhảy về phía trước rồi bỏ đi. Trong lòng Quách Tuân cảm thấy hơi phiền não, lững thững đi tới hậu viên. Đi đến một mảnh rừng trúc tĩnh mịch, bấy giờ mới dừng lại. Gió nhẹ thổi hiu hiu, lá trúc phát ta tiếng xào xạc, Quách Tuân chậm rãi ngồi lên một tảng đá lớn, móc từ trong lồng ngực ra một cây sáo.
Cây sáo này được làm từ gỗ trúc, toàn thân có màu xanh biếc, Quách Tuân đặt sáo lên môi, yếu ớt thổi một khúc 'Nhất thủ mai hoa lạc'.
---------
Sau khi Quách Tuân về kinh thành được bốn ngày thì Địch Vân cũng vừa tới Quách phủ, tuy nhiên Địch Thanh vẫn chưa tỉnh lại.
Quách Tuân thấy Địch Vân đến đây, chỉ nói một câu:
- Địch Thanh vì cứu ta mà bị thương, ta có lỗi với hắn.
Sau đó Quách Tuân đưa Địch Vân tới trước giường Địch Thanh.
Địch Vân đã nghe đám cấm quân kể hết sự tình từ đầu đến cuối, thấy Quách Tuân tự trách mình sâu sắc thì nói:
- Quách đại nhân, Địch Thanh vì cứu người mà bị thương, cho dù chết ...
Hắn vốn định nói mấy câu khách sáo nhưng khi thấy Địch Thanh đang nằm trên giường, hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt tiều tụy thì giọng nói đã trở nên nghẹn ngào. Hắn không ngờ đệ đệ mới rời khỏi Phần Châu đã bị trọng thương, nếu thực sự Địch Thanh không qua khỏi thì hắn làm sao xứng với cha mẹ dưới suối vàng đây?
Vương Duy Nhất đang thi châm cho Địch Thanh, thấy Địch Vân đến đây thì uể oải đứng dậy nói:
- Vị này... chính là đại ca của Địch Thanh sao?
Thấy Quách Tuân gật đầu, Vương Duy Nhất nói tiếp:
- Bây giờ người có thể cứu Địch Thanh chỉ có mình cậu thôi.
Địch Vân vội hỏi:
- Cứu làm sao?
- Nói chuyện với hắn.
Vương Duy Nhất bất đắc dĩ nói:
- Ta không ngừng kích thích tủy hải để kích thích sức sống của hắn, tiếc là không hiệu quả lắm. Cơ thể con người vốn rất kỳ diệu, tuy ta có nhiều nghiên cứu về kinh lạc và huyệt đạo nhưng hiểu biết đối với tủy hải vẫn còn rất sơ sài. Nhưng ta biết rằng lời nói của người thân có thể đánh thức thần trí của hắn, cậu cứ thử một lần xem sao.
Địch Vân gật đầu, khập khiễng đi tới trước giường, cầm tay Địch Thanh, trong mắt rưng rưng nhưng vẫn cố gắng mỉm cười nói:
- Đệ đệ, đại ca tới thăm đệ đây. Huynh không ngờ có thể gặp lại đệ nhanh như vậy. Huynh đã biết tất cả mọi chuyện rồi, biết đệ diệt trừ Tăng Trưởng Thiên Vương, trừ hại cho dân, đại ca rất tự hào vì đệ. Huynh đến đây trước, do gấp quá nên tẩu của đệ không thể tới cùng được, nhưng nàng có nhờ ta nói với đệ một câu, cảm ơn đệ trước đây đã cứu nàng. Nàng nói, đệ từ trước giờ vốn ở nông thôn, lần này đến kinh thành, mong đệ chăm sóc bản thân cho thật tốt, chúng ta không thể ở bên cạnh đệ, đệ hãy tự lo cho mình...
Nói tới đây, Địch Vân đã không nhịn được, nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt tái nhợt của Địch Thanh, nhưng vẫn không có dấu hiệu nào chứng tỏ Địch Thanh tỉnh lại. Tim Địch Vân như bị dao cắt, song vẫn kiên cường cười nói:
- Lúc đó ta còn cười tẩu của đệ, bảo ‘Đệ đệ đã trưởng thành, chẳng những có thể chăm sóc bản thân mà còn có thể lo cho hai chúng ta nữa.’ Nếu lúc trước không có đệ, ta và tẩu tẩu của đệ sao có thể ở cùng nhau?
Tuy Địch Vân nói toàn những chuyện bình thường, nhưng giọng nói run run, từng chữ từng chữ đầy tình cảm sâu đậm.
Sống mũi Quách Tuân cay nồng, ngẩng đầu nhìn lên nóc nhà. Lại nghe Địch Vân nói tiếp:
- Đệ đệ, đệ phải nhanh chóng tỉnh lại, cả cuộc đời này, đệ là người thân thiết nhất của huynh. Đại ca đi lại không tiện, vẫn cần có đệ quan tâm, đệ không thể bỏ mặc huynh được. Đệ đã đồng ý với mẹ là phải nghe lời huynh nói, lần này đệ nhất định phải nghe.
Trong khoảnh khắc này, Quách Tuân không thể kìm lòng được xoay người đi ra khỏi phòng, ngơ ngẩn ngồi trong đình viện, vẻ mặt thẫn thờ, trong mắt tràn đầy sự hổ thẹn.
Quách Tuân ngồi từ bình mình cho đến khi hoàng hôn, rồi lại từ hoàng hôn cho đến bình minh, từ lúc nắng sớm còn lạnh lẽo đến khi nắng chiều ngập bầu trời. Quách Quỳ mấy lần đến đây, thấy vẻ mặt đại ca uể oải nên không dám nhiều lời mà chỉ dám lén lút đặt đồ ăn ở bên người đại ca.
Thoáng cái đã qua hai ngày, nhưng thức ăn bên cạnh Quách Tuân vẫn chưa được động vào một chút nào. Hán tử bằng sắt này cứ ngồi như vậy, chẳng ai biết gã đang nghĩ gì.
Không chỉ có Quách Tuân không ăn không uống mà cả Địch Vân cũng vậy.
Địch Vân đã nói liên tục hai ngày, khuôn mặt tiều tụy, cổ họng khàn khàn nhưng vẫn kiên trì nói tiếp. Hắn cho rằng chỉ có nói tiếp, đệ đệ mới có cơ hội sống lại. Mỗi một ngày trôi qua, Địch Thanh lại càng tiến gần đến cánh cửa tử thần, Địch Vân làm sao có thể lãng phí thời gian để ăn uống cho được?
Tới ngày thứ bảy, Vương Duy Nhất chậm rãi từ phòng mình đi tới, cũng mang vẻ mặt uể oải, trông thấy Quách Tuân giống như một tảng đá ngồi ở trên bàn gỗ kia thì than nhẹ một tiếng. Quách Tuân được âm thanh đó đánh thức, trừng hai con mắt chằng chịt tơ máu nhìn Vương Duy Nhất, thấy gã không có nửa phần vui vẻ thì đã hiểu rõ tất cả. Lòng Vương Duy Nhất cảm thấy bất an, bèn đi tới nói:
- Quách đại nhân, ta thấy hổ thẹn với sự tin tưởng của ngài...
Quách Tuân khoát tay nói:
- Dược y bất tử bệnh, số mạng hắn đã vậy, biết làm sao được?
Tuy chỉ nói như vậy, nhưng tâm tình gã kích động, lấy tay che miệng ho kịch liệt, trong khe ngón tay tràn đầy máu tươi.
Vương Duy Nhất kinh hãi, nói:
- Quách đại nhân, bệnh của ngài cũng cần phải nghỉ ngơi vài ngày.
Quách Tuân thở dài nói:
- Không vội.
Gã chậm rãi đứng dậy, muốn đi đến gian phòng của Địch Thanh, nhưng rốt cuộc vẫn không dám. Cả đời gã chinh chiến vô số, vào sinh ra tử, chưa bao giờ thấy sợ sệt như lúc này.
Đúng lúc này, ngoài cửa có một người đi vào, nói rằng:
- Quách huynh, huynh ... huynh làm sao vậy?
Trên mặt người kia tràn đầy vẻ phong trần nhưng sự sắc bén trong đôi mắt vẫn không đổi, đúng là danh bộ kinh thành Diệp Tri Thu.
Quách Tuân mạnh mẽ cười nói:
- Không có gì. Ngươi ... có kết quả chưa?
Diệp Tri Thu than thở:
- Mấy tên thuộc hạ của huynh, vẫn bặt vô âm tín. Ta đi về phía tây Bạch Bích lĩnh, phát hiện ở đó có một cái hố sâu, cây cối xung quanh có vết cháy, giống như là do quả cầu lửa trước đây rơi xuống đất tạo thành.
- Hố sâu?
Quách Tuân thuận miệng thốt ra một câu.
Diệp Tri Thu nói:
- Không sai, cái hố kia thật có thể nói là sâu không dò được.
Quách Tuân thấy ánh mắt hắn lộ ra vẻ hoảng sợ, cảm thấy có chút khó hiểu, thầm nghĩ Diệp Tri Thu đã từng thấy nhiều việc kì quái mà sao lại sợ hãi một cái hố sâu như vậy? Diệp Tri Thu cười khổ nói:
- Dựa vào khả năng của ta vẫn không đo được hết cái hố, ta đành phải dùng một tảng đá ném xuống phía dưới, đợi một lúc lâu mà vẫn không có bất cứ âm thanh gì.
Quách Tuân chỉ lo đến sự sống chết của Địch Thanh, thuận miệng nói:
- Tạo hóa thần kỳ, ngay cả ta cũng chẳng thể giải thích hết được...
Diệp Tri Thu thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú với chuyện này, cười khổ một tiếng, không muốn nói về chuyện quả cầu lửa kì quái với Quách Tuân nữa. Thấy hai tròng mắt Quách Tuân đỏ sậm, hai má ửng hồng, rõ ràng là bệnh tình không nhẹ, Diệp Tri Thu lo lắng nói:
- Quách huynh, huynh...
Vốn định khuyên gã giữ gìn sức khỏe, hắn bỗng nhiên nghĩ đến cái gì đó, bèn hỏi:
- Địch Thanh chưa tỉnh lại sao?
Hắn đã nhìn ra giữa Quách Tuân và Địch Thanh dường như có quan hệ gì đó.
Quách Tuân lắc đầu, Diệp Tri Thu thấy Vương Duy Nhất đã ở đây, thầm nghĩ gã cũng chịu bó tay thì mình càng không có cách gì hơn. Hắn vốn là một người thẳng thắn, thấy thế bèn nói:
- Đã như vậy thì không làm phiền Quách huynh nữa. Chỉ mong Địch Thanh sớm tỉnh lại.
Hắn xoay người định đi song lại ngừng bước, nói:
- À, Quách huynh này, ta đã xem xét qua thi thể của Tam Đại Thiên Vương và đã cho vẽ lại chân dung của bọn chúng rồi ngầm ra lệnh cho bộ khoái các nơi lưu ý, nhưng đến bây giờ cũng chưa có manh mối gì về thân phận của ba người này. Lần trước lời nói của phật Di Lặc mặc dù không rõ nghĩa, nhưng ta đã đi tìm mấy vị tinh thông ngôn ngữ các nơi hỏi thăm, cuối cùng đã xác định được câu nói kia!
Thấy Quách Tuân hoàn toàn không có hứng thú đối với vấn đề này, Diệp Tri Thu lắc đầu rồi nói tiếp:
- Đó là ngôn ngữ của dân tộc Thổ Phiên. Điều này cho thấy Di Lặc phật chủ có khả năng có quan hệ với người Thổ Phiên, ta dự định đi Thổ Phiên một chuyến, huynh ... hãy bảo trọng.
Hắn nói xong ôm quyền rời đi. Quách Tuân cũng ôm quyền rồi lại vô lực buông xuống, lẩm bẩm nói:
- Thổ Phiên? Phật Di Lặc Thổ Phiên? Bọn chúng không ở Thổ Phiên mà đến vùng Trung Nguyên này để làm gì?
----------
Quách Quỳ đang bưng thức ăn nóng đến, biết điều nói:
- Đại ca, huynh ăn chút gì đi?
Quách Tuân nhìn thấy cơm nước thì không có lòng dạ nào nuốt xuống,
- Tiểu Quỳ, đệ giúp huynh đi xem xem Địch Thanh ra sao rồi.
Gã không có dũng khí vào phòng hỏi thăm sức khoẻ Địch Thanh.
Quách Quỳ liền bưng thức ăn đi vào phòng, vốn định khuyên bảo Địch Vân vài câu nhưng thấy được đôi mắt Địch Vân tràn đầy sự tuyệt vọng nên hết thảy lời muốn nói đều nuốt vào trong.
Địch Vân vẫn chưa phát hiện Quách Quỳ đến đây, toàn bộ tâm tư và tinh thần của hắn đều đặt toàn bộ trên người đệ đệ.
Địch Thanh đã nhiều ngày rồi chưa tỉnh lại, vẫn hôn mê như cũ, sắc mặt càng thêm tái nhợt, dường như đã hấp hối.
Địch Vân nắm chặt bàn tay đệ đệ, giống như đang nắm hy vọng sống của tiểu đệ. Hắn đã nói liên tục hai ngày hai đêm không nghỉ, hai tròng mắt hằn đầy tơ máu giống như nhuộm bằng máu, đôi môi của hắn sớm đã nứt nẻ, cổ họng cũng khô khốc, hơi động một tý thôi là đau đớn giống như bị đao cắt, nhưng nỗi khổ này vốn chẳng nhằm nhò gì so với sự đau đớn của con tim nằm trong lồng ngực hắn.
- Đệ đệ, đừng ngủ nữa, đại ca sẽ rất tức giận đấy...
Nói xong câu này, Địch Vân không nhịn được, nước mắt tuôn như mưa, nức nở nói:
- Đệ đệ, đệ còn nhớ không? Mỗi lần đệ phạm lỗi đều không dám nói cho đại ca biết. Đệ không sợ huynh đánh mắng mà chỉ sợ huynh thất vọng. Mỗi lần đại ca tức giận, đệ đều hiểu chuyện sửa sai tất cả. Ở trong lòng đại ca, đệ là đứa em trai ngàn vàng không đổi được. Khi huynh nghe được lời đệ nói với Ngưu Tráng rằng 'Ở trong lòng của đệ, đại ca cũng là người vạn vàng khó cầu được.' đệ có biết, lúc huynh nghe được câu nói đó thì sung sướng đến thế nào không.
Mấy giọt nước mắt rơi tí tách trên mặt Địch Thanh, Địch Vân lại nói:
- Đệ đệ, đệ tuyệt đối không được ngủ, đại ca lần này thực sự rất tức giận. Không ... đại ca sau này sẽ không bao giờ ... nổi giận với đệ nữa, chỉ cần đệ tỉnh lại thôi, có được không?
Năm ngón tay siết chặt lấy ngón tay Địch Thanh, Địch Vân đang cười giống như khóc,
- Đệ đệ, đệ còn nhớ lúc hấp hối mẹ đã nói gì không? Người nói là muốn huynh đệ chúng ta sống nương tựa lẫn nhau, chăm sóc cho nhau, người nói: "Thế gian này gặp được nhau đã là duyên phận, là anh em càng có duyên phận. Duyên phận phải được quý trọng, thù hận chẳng qua chỉ là chốc lát, người nói đã không còn hận kẻ trước kia đã đánh phụ thân bị thương, không mong huynh đệ chúng ta báo thù rửa hận, chỉ mong hai chúng ta sống vui vẻ. Dù thế nào đi nữa được sống đã là tốt nhất!' Huynh khi đó còn trẻ không hiểu được gì, nhưng bây giờ huynh đã hiểu tấm lòng của mụ, người chẳng mong gì cả, không cần chúng ta làm tể tướng hay đỗ trạng nguyên, người chỉ mong chúng ta sống vui vẻ hạnh phúc thì đã mãn nguyện lắm rồi. Đệ đệ, huynh chỉ mong đệ đừng chết, đại ca không cần gì hơn.
Nước mắt hắn giàn giụa, thấy Địch Thanh vẫn ngủ say không tỉnh, không kiềm chế được nỗi đau trong lòng, đột nhiên nhào tới trước ngực Địch Thanh, cố sức lay lay hắn mà nói:
- Đệ đệ, xin đệ mà, đệ đừng bỏ đại ca lại, cầu xin đệ, đừng bỏ đại ca một mình!
Địch Vân nhào tới trước ngực Địch Thanh, vùi đầu gào khóc. Quách Tuân nghe được tiếng khóc trong phòng truyền đến, nghĩ rằng Địch Thanh đã chết, trong ngực đau đớn cùng cực, "Oa" một tiếng phun ra một ngụm máu tươi lớn.
Chẳng biết đã khóc được bao lâu, đột nhiên Địch Vân cảm giác có người đang xoa đầu mình, cứ tưởng rằng Quách Quỳ đang an ủi mình nên đau thương nói:
- Quách tiểu đệ...
Không ngờ lại nghe Quách Quỳ kinh ngạc kêu lên:
- Địch Thanh hắn...
Địch Vân bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn đệ đệ, chỉ thấy được Địch Thanh đang trợn tròn mắt nhìn mình, một tay vừa mới từ đỉnh đầu hạ xuống.
Địch Vân thấy đệ đệ tỉnh lại, vừa bi thương vừa mừng rỡ, cả người ngây ngốc.
Trong mắt Địch Thanh tràn đầy nước mắt, nhẹ giọng nói:
- Đại ca, đệ sẽ không bỏ đại ca đâu, không bao giờ!
Giọng nói này tuy là yếu ớt nhưng rất chân thật.
Địch Vân vui mừng thiếu chút nữa ngất đi, hai cánh môi mở ra nhưng một chữ cũng nói không nên lời. Hắn đã nói ba ngày hai đêm, lúc này mới đã cảm thấy đôi môi đau nhức, nhưng loại đau đớn này sao có thể so với niềm vui trong lòng?
Quách Quỳ chính mắt nhìn thấy nước mắt Địch Thanh theo khóe mắt chảy xuống, tận mắt nhìn thấy Địch Thanh mở mắt vươn tay ra xoa đầu Địch Vân, chỉ kịp kêu lên một tiếng sợ hãi, không động đậy được. Nghe Địch Thanh nói mấy câu, lúc này mới vui mừng vô hạn, liền xoay người xông ra ngoài kêu lớn:
- Đại ca, Địch Thanh tỉnh rồi, Địch Thanh tỉnh rồi!
Vương Duy Nhất tinh thần phấn chấn, bước nhanh vào trong gian phòng. Khóe miệng Quách Tuân vết máu vẫn còn chưa khô, nghe nói như thế thì chưa dám tin, run giọng nói:
- Thật sao?
Quách Quỳ ôm cổ Quách Tuân, liên tục gật đầu nói:
- Thật mà, hắn mở mắt ra rồi, hắn đã nói được.
Cậu bé hưng phấn vô cùng, ôm chặt cổ đại ca, có lẽ chỉ có hôm nay nó mới thực sự cảm thấy tình huynh đệ sâu đậm đến thế nào.
Cuối cùng, Vương Duy Nhất bước ra cười với Quách Tuân, nói:
- Địch Thanh sống lại rồi.
Quách Tuân lúc này mới chịu tin, thân hình lảo đảo vô lực quỳ xuống đất, Quách Quỳ hốt hoảng kêu lên:
- Đại ca, huynh làm sao vậy?
Quách Tuân ngẩng đầu tạ ơn ông trời, hai cánh môi khẽ mở, cúi lạy mặt đất. Gã vùi mặt chôn vào trong bùn đen, vui sướng cùng cực đếp phát khóc, giống như thanh lộ thần lưu, tân hà vũ tích, vô thanh vô tức ngã nhào...
----------------------------------------------------------------------
Chú thích của người dịch:
(1)Long Đức quân: Tháng thứ hai làm hoàng đế, Tống Huy Tông sửa vương phủ trước kia của mình thành Long Đức cung. Tháng 11 năm Kiến Trung Tĩnh Quốc thứ năm (1101) đổi Chiêu Đức quân thành Long Đức quân. Hai năm sau thì đổi Long Đức quân thành Long Đức phủ. Năm Sùng Ninh thứ ba (1104), Long Đức phủ được ghép vào với các huyện Thượng Đảng, Trường Tử, Truân Lưu, Tương Viên, Lộ Thành, Hồ Quan, Lê Thành, gọi là Lộ Châu, thuộc tỉnh Sơn Tây và địa khu huyện Hà Bắc ngày nay.
(2)Minh ước Thiền Uyên: Năm 1004, người Khiết Đan phát động chiến tranh chống nhà Tống. Đại đa số đại thần của Tống không muốn giao tranh mà chỉ muốn hòa hoãn. Duy chỉ có tể tướng Khấu Chuẩn, người đứng đầu phe thiểu số chủ chiến, là cực lực phản đối, muốn quyết chiến. Cuối cùng thì Khấu Chuẩn cũng thuyết phục được Tống Chân Tông ngự giá thân chinh. Quân đội hai bên giao tranh tại Thiền Uyên (nay là khu vực phụ cận Bộc Dương thuộc tỉnh Hà Nam, phía bắc Hoàng Hà). Kết quả quân Tống giành chiến thắng. Mặc dù vậy nhưng năm 1005 triều đình nhà Tống vẫn ký Hòa ước Thiền Uyên. Hiệp ước này đã tạo ra hòa bình giữa hai quốc gia trong hơn 100 năm, nhưng nhà Tống phải ở vị trí thấp hơn so với nhà Liêu, mỗi năm Tống phải nộp cho Liêu 100.000 lạng bạc và 20.000 xấp lụa. Hai nước kết nghĩa làm huynh đệ quốc (nước anh em) với Liêu Thánh Tông Gia Luật Long Tự nhận Chân Tông là anh, Chân Tông gọi Tiêu thái hậu nhà Liêu là thúc mẫu. Sự chấp nhận vị trí thấp hơn có thể coi là sai lầm cực lớn trong chính sách ngoại giao của nhà Tống, bởi vì việc cống nộp này dù chậm chạp nhưng cũng dần dần làm hao mòn quốc khố của Đại Tống.
(3) Đông Kinh Khai Phong: Hơn 1.000 năm trước, dưới triều Bắc Tống, Khai Phong được gọi là Đông Kinh, là kinh đô phồn hoa bậc nhất thế giới thời đó. Theo tính toán của các nhà sử học, lúc bấy giờ, trong khi các thành phố lớn nhất ở phương Tây chỉ có 20.000 dân thì Đông Kinh có đến 1,4 triệu dân, tổng thu nhập của dân cư Đông Kinh chiếm đến 75% tổng thu nhập toàn thế giới. Đến năm 1153 được nhà Kim đổi thành Nam Kinh.
(4) Tam Nha: bao gồm có điện tiền ti, thị vệ thân quân mã quân ti (kỵ binh), thị vệ thân quân bộ quân ti (bộ binh), hợp lại gọi là Tam Nha. Cấm quân lúc đó chia làm thị vệ thân quân ti và điện tiền ti, gọi là nhị ti, trong đó thị vệ chia làm kỵ binh và bộ binh…
(5) Quách Quỳ: Làm mình liên tưởng tới trận chiến giữa Quách Quỳ và Lý Thường Kiệt cũng thời nhà Tống.